Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Tiểu luận về chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa việt nam vào EU khi tham gia vào WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 177 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài luận án
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang trở thành một xu thế khách
quan; Các quốc gia, dân tộc không còn cách lựa chọn nào khác là hội nhập để cùng
tồn tại và phát triển. Là một quốc gia đi lên từ xuất phát điểm thấp, Việt Nam sớm
nhận thức được tầm quan trọng và yêu cầu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã thể hiện quyết tâm thực hiện tự do hoá thương mại và coi đây là ưu
tiên hàng đầu trong chương trình cải cách của mình. Việt Nam đã đạt được nhiều
thỏa thuận trong đàm phán thương mại song phương, đa phương với các đối tác
chiến lược như Hoa Kỳ, EU... và đặc biệt là sự kiện Việt Nam đã kết thúc thành
công tốt đẹp trong đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO và trở
thành thành viên của tổ chức này năm 2007. Tham gia WTO, Việt Nam đã ký kết
các thỏa thuận trong điều chỉnh chính sách thương mại với lộ trình được xác định.
Trong bối cảnh mới của quốc tế và điều kiện kinh tế trong nước cần phải có chính
sách thúc đẩy xuất khẩu hợp lý để tăng cường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
vào thị trường quốc tế nói chung và đặc biệt là thị trường xuất khẩu trọng điểm và
chủ lực của Việt Nam - thị trường EU nói riêng.
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU
đang được chi phối bởi quá trình đàm phán về Hiệp định thương mại tự do giữa
Việt Nam và EU (VE FTA) đang diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện
các cam kết với WTO đã và đang có những tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang
EU nói riêng.
Liên minh Châu Âu là một đối tác truyền thống lớn nhất và tiềm năng đối với
hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Với 28 quốc gia thành viên, dân số trên 500 triệu
người, GDP đạt khoảng 15 nghìn tỷ USD (chiếm 27% GDP thế giới), chiếm 45%



2

thương mại và 47% đầu tư trực tiếp ra toàn cầu1. Trong những năm qua, trước khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
vào EU luôn có những bước phát triển qua từng giai đoạn. Tuy nhiên, trong thời
gian qua các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức, đặc biệt là những rào cản kỹ thuật ngày càng gay gắt từ thị trường
này. Hơn nữa, từ khi là thành viên của WTO, Việt Nam phải thực hiện những cam
kết gia nhập như mở cửa thị trường hàng hoá, cắt giảm thuế xuất nhập khẩu, làm
cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam giảm đi khả năng cạnh tranh về giá với các
đối thủ khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan… đối với thị trường EU. Một số
mặt hàng như da giày của Việt Nam không còn được hưởng hệ thống ưu đãi thuế
quan phổ cập GSP của EU. Cùng với đó là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu khiến cho nhiều nền kinh tế của các thành viên EU rơi vào tình trạng suy
thoái, làm suy giảm cầu đối với hàng nhập khẩu của EU, dẫn tới hệ quả là thị trường
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tại EU bị ảnh hưởng trong khi các yêu cầu đối
với hàng hoá nhập khẩu vào EU ngày càng được nâng lên.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, hệ quả tất yếu dẫn đến
thu nhập của người dân các nước bị suy giảm, thất nghiệp gia tăng, đầu tư đình
trệ… khiến cho thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam bị thu hẹp, trong khi
cạnh tranh thì ngày càng gay gắt.
Trước bối cảnh quốc tế và quốc gia hiện tại Việt Nam đã nhanh chóng đẩy
nhanh tiến trình cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương,
định hướng của Ðảng và Nhà nước; chủ động xây dựng các quan hệ đối tác mới,
tham gia vào các vòng đàm phán mới, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế song
phương, khu vực và đa phương. Tuy nhiên, một trong những vấn đề cấp bách đặt ra
hiện nay là sau gần tám năm Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam cần phải nghiên
cứu, tổng kết một cách khoa học và có hệ thống về chính sách xuất khẩu sang EU một trong những thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam đã và đang

1


Theo số liệu thống kê của Eurostat năm 2012


3

thực thi trên cả hai phương diện: những điểm hợp lý, những bất cập và nguyên
nhân. Hơn nữa, Việt Nam và EU đã và đang trong quá trình đàm phán để ký Hiệp
định thương mại tự do, đang cùng nhau tìm ra một hướng đi nhằm giải quyết bế tắc
trong vòng đàm phán Doha của Tổ chức Thương mại thế giới.
Một trong các vấn đề đang nổi lên là làm thế nào để có một hệ thống chính
sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU trong
điều kiện tham gia vào WTO một cách hữu hiệu. Góp phần giải quyết các vấn đề
này cả về phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề
“Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU trong
điều kiện tham gia vào WTO” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
Trung tâm Kinh tế quốc tế của Úc (CIE) thực hiện nghiên cứu về công cụ chính
sách thương mại quốc tế của Việt Nam cũng như các quy định về thương mại, chính
sách xuất khẩu - Nghiên cứu này hoàn thành năm 1998. Tuy nhiên chính sách thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU chưa được đề cập tới.
Việt Nam đã có nhiều công trình, sách tham khảo về vấn đề hội nhập kinh tế
quốc tế; Công trình “Hội nhập kinh tế quốc tế: áp lực cạnh tranh trên thị trường và
đối sách của một số nước” do Viện nghiên cứu Quản lý Trung ương và cơ quan phát
triển quốc tế Thuỵ Điển phối hợp thực hiện vào năm 2003 [101].
Tài liệu: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)”
do Trung tâm Khoa học và Nhân văn quốc gia và Ngân hàng thế giới phối hợp thực
hiện vào năm 2004 [89]. Các công trình này giới thiệu những vấn đề trọng tâm của
hội nhập kinh tế quốc tế hoặc dừng lại ở những bài học kinh nghiệm trong quá trình

gia nhập WTO mà chưa nghiên cứu và đề cập tới quá trình điều chỉnh chính sách
thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện tham gia vào WTO
Hoạt động xúc tiến xuất khẩu đã được quan tâm nghiên cứu ở các nước trên
thế giới cũng như ở Việt Nam, trong đó luận án của Liesel Anna (2001) với tựa đề
“Ý nghĩa xã hội của tổ chức xúc tiến xuất khẩu trong ngành may mặc Thổ Nhĩ Kỳ”


4

đã phân tích vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu dưới khía cạnh xã hội đối với
ngành may mặc ở Thổ Nhĩ Kỳ [50], chính sách thúc đẩy xuất khẩu chưa được đề
cập một cách hệ thống trong công trình này.
Công trình “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ” của Nguyễn Thị Nhiễu xuất bản năm 2003 đã hệ thống hoá được những vấn đề
lý luận về hoạt động xúc tiến xuất khẩu và phân tích, đánh giá thực tiễn và đề xuất
các giải pháp tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu khá cụ thể về
hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ Việt Nam, tuy nhiên những nội dung
phân tích, đánh giá và giải pháp đề xuất trong công trình này chỉ là một nội dung
trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung. Nội dung
liên quan đến chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trường EU chưa đề cập đến [62].
Bên cạnh đó, công trình “Xúc tiến thương mại” của Viện Nghiên cứu Thương
mại (2003) đề cập một cách hệ thống những vấn đề mang tính lý luận chung về hoạt
động xúc tiến thương mại (bao gồm cả xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và
xúc tiến bán hàng trong nước) [96].
Một công trình nghiên cứu khá toàn diện cả về cơ sở lý luận và thực tiễn về
hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế là luận án của Phạm Thu Hương có tựa đề “Thực trạng và các giải pháp
thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế của Việt Nam”. Trong đó, những

vấn đề lý luận chung về hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế cả ở hai cấp độ vĩ
mô và vi mô cũng như kinh nghiệm của một số nước đã được đề cập một cách hệ
thống. Thực trạng hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế của Việt Nam đã được
phân tích và đánh giá một cách sát thực dựa trên cơ sở dữ liệu điều tra thông qua
phiếu hỏi, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp; Công trình này đã cho người
đọc thấy được một bức tranh tổng thể về hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Tuy nhiên, công trình này hoạt
động xúc tiến xuất khẩu mới chỉ được nghiên cứu như một bộ phận của hoạt xúc


5

tiến thương mại quốc tế; chưa có sự xem xét đối với một thị trường cụ thể [44].
Ngoài ra, hoạt động xúc tiến xuất khẩu cũng được đề cập trong các tài liệu của
Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam, các tổ chức quốc tế và các bài báo trong thời
gian qua. Tuy nhiên, trong hầu hết các nghiên cứu đó, hoạt động xúc tiến xuất khẩu
chỉ được đề cập như một trong những biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu hoặc là một
nội dung của xúc tiến thương mại quốc tế nói chung, chưa có nghiên cứu gắn với
một khu vực thị trường, một nhóm hàng hoặc mặt hàng cụ thể.
Như vậy, về cơ bản các nghiên cứu trước đây mới chỉ dừng lại ở những kết
quả mang tính khái quát, tổng thể chung về xúc tiến thương mại nói chung và hoạt
động xúc tiến xuất khẩu nói riêng, do đó chưa có kết luận cụ thể về những thành
công, hạn chế trong quá trình thực hiện hoạt động xúc tiến đối với nhóm hàng cụ
thể làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp mang tính khả thi hơn.
Về bài học kinh nghiệm quốc tế cho chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về kinh tế Trung Quốc kể
từ khi nước này thực hiện chính sách cải cách và mở cửa kinh tế đến nay. Trong số
đó đáng chú ý là những công trình của các tác giả: Nguyễn Kim Bảo (2000), "Đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc từ 1979 đến nay"; Phạm Thái Quốc (2001),
"Trung Quốc - quá trình công nghiệp hóa trong 20 năm cuối thế kỷ XX". Những

công trình này chủ yếu tập trung nghiên cứu về quá trình cải cách kinh tế nói chung,
và chính sách mở cửa đối ngoại, chính sách công nghiệp hóa, và chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc nói riêng, chứ chưa đề cập một cách
trực tiếp đến chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc, với tư cách là những
bài học kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam [1], [73].
Gần đây, một số công trình nghiên cứu về Trung Quốc như đề tài nghiên cứu
cấp nhà nước "Quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Trung
Quốc và những bài học cho Việt Nam" do PGS.TSKH Võ Đại Lược (2004) làm chủ
nhiệm, và luận án tiến sĩ kinh tế "Vai trò của ngoại thương đối với phát triển kinh tế
Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa" của Nguyễn Phú Thái (2004) cũng có đề cập
đến chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Trung Quốc, nhưng chủ yếu là nhằm phục vụ


6

cho việc phân tích động thái của hệ thống ngoại thương Trung Quốc trong quá trình
đàm phán gia nhập WTO và tác động của ngoại thương tới phát triển kinh tế của
Trung Quốc. Ngoài ra, có một số bài viết về xuất khẩu của Trung Quốc đăng trên các
tạp chí và ấn phẩm khác ở Việt Nam, nhưng với quy mô hạn chế nên các bài viết này
cũng mới chỉ dừng lại ở mức giới thiệu sơ lược và đưa ra một số đánh giá có tính khái
quát về xuất khẩu và chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc [52], [78].
“Nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc giai đoạn từ 1978 đến
nay và gợi ý vận dụng đối với Việt Nam”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Anh Minh năm
2006. Luận án nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu nói chung ở các nước đang
phát triển, phân tích làm rõ những điểm phổ quát và đặc thù trong chính sách thúc
đẩy xuất khẩu của Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa kinh tế và rút ra những bài
học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo vận dụngvới tư cách là một nước
đang phát triển nhưng chưa được công nhận là nước có nền kinh tế thị trường [58].
Một số luận án tiến sĩ đã thực hiện các nghiên cứu về chính sách ngoại thương
hay thúc đẩy xuất khẩu như: “Những biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu hàng

hoá của Việt Nam sang các nước khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong
giai đoạn đến 2010” của Nguyễn Thanh Hà thực hiện năm 2003; “Tăng trưởng của
nền kinh tế Việt Nam theo con đường thúc đẩy xuất khẩu: Những điều kiện cần
thiết và những giải pháp” của Nguyễn Văn Hoè thực hiện 2002; “Hoàn thiện chính
sách ngoại thương Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập với khu vực và thế giới” của Từ Thanh Thuỷ thực hiện năm 2003; Những tài
liệu này chủ yếu đề cập đến những biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam sang thị trường thế giới nói chung, mà chưa đề cập sâu đến chính sách vĩ
mô của Chính phủ trong thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường EU – Một thị trường có
quy mô lớn và đầy tiềm năng của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO [35],
[43], [78].
“Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế” luận án tiến sĩ của Mai Thế Cường 2006; Luận án đã trình
bày khái quát những cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc


7

tế của Chính phủ Việt Nam. Luận án đề cập đến chính sách thương mại quốc tế nói
chung của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, còn đi nghiên cứu sâu về chính sách
thúc đẩy sang một thị trường cụ thể trong bối cảnh hội nhập vào Tổ chức Thương
mại Thế giới thì luận án chưa đề cập tới [17].
Đề tài khoa học cấp nhà nước: “Chính sách cạnh tranh của EU. Một số tác
động đến quan hệ giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu” của Đặng Minh Đức, năm
2008. Đề tài trình bày những nét chính của EU và vai trò cũng như các tác động của
chính sách cạnh tranh EU. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU [33].
Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam – EU:
Thực trạng và triển vọng” Viện nghiên cứu Châu Âu, 2008. Nội dung chủ yếu đề
cập đến bối cảnh mới trong năm 2007 về mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – EU;
về thực trạng quan hệ Việt Nam – EU trên các lĩnh vực: Thương mại, đầu tư, du lịch

và những tổng kết đánh giá được rút ra cho Việt Nam và EU trong năm 2007 cũng
như triển vọng đưa ra cho năm 2008 [95].
Sách tham khảo về “Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” (2003) của GS Chu Văn Cấp (chủ biên), đã
nghiên cứu khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, chè, cà
phê, thủy sản cho đến năm 1999 dựa trên các tiêu chí về chi phí sản xuất, giá xuất
khẩu, chất lượng và uy tín sản phẩm, thị trường tiêu thụ v.v.. [16].
Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học khác đã nghiên
cứu từng loại nông sản xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua như: “Nâng cao
sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” – Luận án tiến sĩ của PGS.TS Ngô Thị Tuyết
Mai. “Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới - hướng xuất khẩu” của TS.
Nguyễn Trung Vãn; “Cà phê Việt Nam và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế
giới” của TS. Nguyễn Tiến Mạnh; “Cây chè Việt Nam: Năng lực cạnh tranh xuất
khẩu và phát triển” của TS. Nguyễn Hữu Khải; “Một số giải pháp phát triển xuất
khẩu cao su tự nhiên của Việt Nam đến năm 2010”, của Bộ Công thương v.v.. [53],
[92], [54], [48], [8].


8

Hội thảo khoa học quốc gia bàn về: “Chính sách thương mại nhằm phát triển
bền vững ở Việt Nam thời kỳ 2011-2020” do Bộ Công thương chủ trì tháng 6 năm
2011. Những nội dung chính của hội thảo xoay quanh những vấn đề về chính sách
thương mại của Việt Nam nhằm hướng tới sự phát triển bền vững với 3 trụ cột
chính: kinh tế, xã hội và môi trường; những đề tài này chưa đề cập sâu về chính
sách thức đẩy xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là đối với thị trường EU- một thị
trường trọng yếu trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam [7].
Đề tài nghiên cứu khoa học: “Nghiên cứu chất lượng tăng trưởng xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa” của PGS.TS

Đinh Văn Thành với Mã số 2007 – 78 – 012, Viện Nghiên cứu Thương mại [78b].
Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2010 của PGS.TS Trần Công Sách – Viện
Nghiên cứu Thương mại thuộc Bộ Công thương: “Một số chính sách khuyến khích
phát triển xuất khẩu sản phẩm dịch vụ có lợi thế của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế”, với Mã số: 2007 - 78 – 010
Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2010 của PGS.TS Phạm Tất Thắng – Viện
Nghiên cứu Thương mại thuộc Bộ Công thương: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng
thương mại với tăng trưởng kinh tế”, Mã số: 2007 - 78 – 014
Tóm lại, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, toàn diện và có hệ thống về chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam sang thị trường EU trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO. Đặc biệt, những
nghiên cứu về chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trường EU với mục đích đưa ra những gợi mở, đóng góp cho việc hoạch định và
thực hiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường
EU lại càng chưa có. Vì vậy, có thể nói đề tài được lựa chọn nghiên cứu trong
luận án là hoàn toàn mới mẻ.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục tiêu của luận án: là nghiên cứu và làm rõ thêm những vấn đề lý luận
về chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU trong


9

điều kiện tham gia vào WTO, phân tích đúng và khách quan hiện trạng chính sách
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian qua.
Từ đó, đề xuất một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: Để đạt được mục tiêu của luận án nêu
trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất: Luận án hệ thống hoá các vấn đề lý luận về chính sách thúc đẩy xuất
khẩu hàng hóa của các quốc gia trong điều kiện tham gia vào WTO. Chức năng, vai
trò của chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. Quy trình chính sách thúc đẩy xuất
khẩu cũng như hệ thống chỉ tiêu đánh giá chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của mỗi một quốc gia. Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa ở Việt Nam. Những yêu cầu đặt ra đối với việc chính sách thúc đẩy xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Thứ hai: Luận án xem xét kinh nghiệm quốc tế trong việc hoàn thiện chính
sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá sang EU - với tư cách là những bài học hữu ích
cho Việt Nam trong hoạch định chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang EU
trong điều kiện tham gia vào WTO.
Thứ ba: Luận án tập trung phân tích toàn diện và đánh giá đúng thực trạng
chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường EU
trong thời gian qua, trên cơ sở đó rút ra những điểm hợp lý, bất cập và nguyên nhân
trong ban hành, thực thi chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào
thị trường EU.
Thứ tư: Luận án đưa ra các quan điểm, định hướng, cũng như những dự báo
tình hình biến đổi trong chính sách và kinh tế của EU có ảnh hưởng đến việc hoàn
thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU và
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt
Nam vào thị trường EU trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO đến những
năm 2025, tầm nhìn 2035.


10

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế
nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam - một nước có nền kinh tế đang
phát triển, nhưng đang bị coi là nền kinh tế phi thị trường.

Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu chính sách thương mại quốc
tế nhằm vào thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU. Luận
án tập trung chủ yếu vào ba chính sách: chính sách mặt hàng, chính sách thị
trường và chính sách hỗ trợ. Chính sách hỗ trợ tập trung chủ yếu về các chính
sách xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Về mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam vào EU, luận án tập trung và một số mặt hàng như giày dép, dệt may, thuỷ
sản, nông sản. Về thị trường xuất khẩu của Việt Nam vào EU, luận án tập trung
chủ yếu vào EU 15
Về thời gian: Luận án nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam vào thị trường EU chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm 2007 – kể từ
khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận án sử dụng một số phương pháp
phổ biến trong nghiên cứu kinh tế sau đây:
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp hệ thống:
Việc nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU
được thực hiện một cách đồng bộ, gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ
thể. Các biện pháp chính sách chủ yếu được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với
nhau cả về không gian và thời gian, và được đặt trong bối cảnh chung của toàn bộ
quá trình cải cách mở cửa kinh tế ở Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO.
Phương pháp thống kê: Luận án sử dụng các số liệu thống kê thích hợp để
phục vụ cho việc phân tích chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang EU và tính thực thi của chính sách đó qua các giai đoạn.


11

Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích từng mảng chính

sách, luận án đưa ra những đánh giá chung có tính khái quát về toàn bộ hệ thống
chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU sau
gia nhập WTO.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường EU được xem xét trên cơ sở có sự so sánh giữa các biện pháp chính
sách áp dụng và kết quả đạt được qua từng giai đoạn, cũng như với thực tiễn vận
dụng chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở các nước khác.

6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất: Làm rõ một số vấn đề lý luận về chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa của mỗi quốc gia.
Thứ hai: Khái quát một số vấn đề có tính quy luật của chính sách thúc đẩy
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU trong bối cảnh là thành viên của WTO.
Thứ ba: Đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa Việt Nam sang thị trường EU.

7. Ý nghĩa của luận án
Luận án làm rõ hơn những cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa nói chung cũng như cơ sở thực tiễn trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU – Một đối tác quan trọng trong quan hệ
kinh tế quốc tế với Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học. Là tài liệu tham khảo
trong hoạch định chính sách của Nhà nước.

8. Kết cấu của luận án:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của mỗi
quốc gia. Trong chương này, tác giả làm rõ cơ sở lý luận về chính sách thúc đẩy



12

xuất khẩu của các quốc gia trong điều kiện tham gia vào WTO. Luận án tập trung
luận giải những yêu cầu mang tính khách quan và mang tính chủ quan đặt ra đối với
chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia đang phát triển sang thị
trường EU. Phân tích những nhân tố quốc tế và quốc gia ảnh hưởng đến chính sách
thúc đẩy xuất khẩu của các quóc gia vào thị trường EU. Luận án xem xét kinh
nghiệm quốc tế trong việc hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá - với
tư cách là những bài học hữu ích cho Việt Nam trong điều kiện tham gia vào WTO.
Chương 2: Thực trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang thị trường EU. Trong chương này, luận án tập trung phân tích và đánh giá
thực trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào EU trong
thời gian qua, trên cơ sở đó rút ra những điểm hợp lý, bất cập và nguyên nhân
trong chính sách.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU. Trong chương này tác giả
đưa ra các quan điểm, định hướng chiến lược, cũng như những vấn đề đặt ra
trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU
và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào
thị trường EU trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO đến những năm
2025 và tầm nhìn 2035.


13

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA MỖI QUỐC GIA
1.1. Khái niệm chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa

Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng với những nghĩa khác nhau trong các tài
liệu khoa học, theo Crane (1982) trong tác phẩm The Evaluation of socia policies.
Kluwer Nijhoff, Boston “Chính sách là sự cam kết một đường hướng hành động dựa
trên những kế hoạch và nguyên tắc chung”. Một số nhà nghiên cứu khác như
Harman (1980) Hogwood và Gunn (1984) cho rằng: “Về cơ bản chính sách được
xem xét như đường hướng hành động hoặc không hành động để tiến tới đạt mục
đích mong muốn” - Theo cách hiểu này, chính sách được xem như một quá trình, nó
bao gồm không chỉ việc xây dựng chính sách mà còn bao hàm cả việc triển khai,
đánh giá và điều chỉnh chính sách. Đây là cách hiểu chính sách một cách thực tiễn
nhất, bởi chỉ xem xét chính sách là một quá trình và đường hướng của một hành
động hoặc không hành động thì chính sách mới thực sự giúp giải quyết vấn đề và
đạt tới mục tiêu. Hơn thế nữa, chỉ khi xem chính sách là một quá trình, thì tính biện
chứng của việc thực hiện chính sách, điều chỉnh chính sách, và mục tiêu mới được
đảm bảo trong quá trình thay đổi của điều kiện môi trường - Quan điểm quá trình
được chấp nhận rộng rãi trong xây dựng và thực thi chính sách. Khái niệm làm
chính sách (xây dựng chính sách) được hiểu là việc chuẩn bị quyết định và ban hành
chính sách – một bộ phận của quá trình lớn hơn, quá trình chính sách. Quá trình
chính sách bao gồm nhiều bước và giai đoạn trong đó chính sách được xây dựng,
thông qua và thực thi trong thực tiễn [118].
Như vậy, chính sách có thể được hiểu là: “Chính sách là phương thức hành
động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp
đi, lặp lại”. Trên giác độ vĩ mô chủ thể đưa ra chính sách là chính phủ, chính sách
xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chính sách vạch ra phạm
vi hay giới hạn cho phép của các quyết định nào là có thể và không thể. Theo đó,


14

chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức nào đó
vào việc thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức, của quốc gia.

Trong các tài liệu tiếng Anh, khái niệm về chính sách thương mại quốc tế được
viết ngắn gọn là chính sách thương mại (trade policy); Mạng lưới điện toán của
nước Anh định nghĩa: “Chính sách thương mại quốc tế là chính sách của chính phủ
nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương” [47.1].
Theo Trung tâm Kinh tế quốc tế của Úc (CIE), hệ thống các chính sách thương
mại quốc tế có thể được phân chia bao gồm các quy định về thương mại, chính sách
xuất khẩu, hệ thống thuế và các chính sách hỗ trợ khác [131]. Các quy định về
thương mại bao gồm hệ thống các quy định liên quan đến thương mại (hệ thống
pháp quy); hệ thống giấy phép, chính sách đối với doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kiểm soát doanh nghiệp); việc kiểm soát
hàng hoá theo các quy định cấm xuất, cấm nhập; kiểm soát khối lượng; kiểm soát
xuất nhập khẩu theo chuyên ngành (kiểm soát hàng hoá).
Để khuyến khích xuất khẩu, chính phủ các quốc gia đã áp dụng các biện pháp
như miễn thuế, hoàn thuế, tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, xây dựng các khu
công nghiệp, khu chế xuất. Để hạn chế xuất khẩu, các chính phủ có thể áp dụng các
lệnh cấm xuất, cấm nhập, hệ thống giấy phép, các quy định kiểm soát khối lượng hay
quy định về cơ quan xuất khẩu và các quy định về thuế đối với xuất khẩu. Các chính
sách hỗ trợ khác được áp dụng bao gồm khuyến khích khu vực kinh tế có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành hướng vào xuất khẩu (miễn thuế và ưu đãi
thuế) hay khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bằng các khoản tín dụng xuất khẩu
với lãi suất ưu đãi, đảm bảo tín dụng xuất khẩu và cho phép khấu hao nhanh các tài
sản, hoạt động hỗ trợ từ các tổ chức xúc tiến thương mại.
Theo Krugman và Obstfeld: các công cụ của chính sách thương mại quốc tế
có thể được phân chia thành các công cụ thuế quan và phi thuế quan [49]. Hệ thống
thuế được xem xét thường bao gồm thuế trực tiếp và thuế gián tiếp.
Các công cụ thuế quan: Thuế quan là một khoản tiền mà người chủ hàng
xuất khẩu (hoặc nhập khẩu) hoặc xuất - nhập cảnh phải nộp cho cơ quan đại diện,


15


cơ quan hải quan của nước sở tại. Thuế quan có tác động điều tiết lượng hàng hóa
xuất khẩu (nhập khẩu) và tăng thu cho ngân sách của Nhà nước. Đây là biện pháp
mà WTO (Tổ chức thương mại thế giới) cho phép sử dụng để bảo vệ thị trường
trong nước nhưng phải cam kết ràng buộc với một mức thuế trần nhất định và có
lịch trình cắt giảm, do vậy có xu hướng ngày càng giảm đi. Sự tự do hóa biểu hiện
thông qua các chính sách về quy chế tối huệ quốc (MFN), chế độ thuế quan ưu đãi
phổ cập (GSP), Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của các khối liên kết
kinh tế như: EU, NAFTA, AFTA, APEC… - Chính sách thuế quan đối với hàng
xuất khẩu bao gồm các quy định về: Mức thuế suất xuất khẩu; các mặt hàng xuất
khẩu chịu thuế suất; cách tính thuế; thời hạn nộp thuế. Các công cụ phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan (NTM) là những biện pháp ngoài thuế quan có liên quan
hoặc ảnh hưởng đến sự luân chuyển hàng hóa giữa các nước.
Phần lớn các biện pháp phi thuế thường được áp dụng cho hoạt động quản lí
nhập khẩu hàng hoá, khi nói tới hàng rào phi thuế là nói tới các biện pháp phi thuế
quan có tính chất bảo hộ nền sản xuất trong nước, chúng đặt ra các quy định khắt
khe hơn đối với hàng hoá nước ngoài nhập khẩu vào thị trường nội địa. Các biện
pháp phi thuế áp dụng cho hoạt động xuất khẩu bao gồm: Biện pháp quản lí định
lượng là những quy định của một quốc gia về số lượng hoặc giá trị hàng hoá được
xuất khẩu. Bao gồm các quy định: (1) Cấm xuất khẩu: là việc Nhà nước không cho
phép một hay một mặt hàng xuất khẩu ra nước ngoài (2) Hạn ngạch xuất khẩu
(quota): là biện pháp dùng để hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng hoá xuất khẩu sang
một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). (3) Quy
định về giấy phép xuất khẩu: Giấy phép xuất khẩu là một văn bản cho phép các
doanh nghiệp được thực hiện xuất khẩu, phải xuất trình cơ quan hải quan kiểm tra
khi thực hiện xuất khẩu. Có 2 loại giấy phép xuất khẩu: (1) Giấy phép xuất khẩu tự
động là một văn bản cho phép thực hiện hoạt động xuất khẩu không theo điều kiện
gì đối với người làm đơn xin giấy phép - Chế độ cấp phép này mang tính quản lý để
điều tiết hoạt động xuất khẩu chứ không cản trở hoạt động xuất khẩu. (2) Giấy phép



16

xuất khẩu không tự động là giấy phép chỉ cho phép được thực hiện xuất khẩu mặt
hàng khi người xuất khẩu đáp ứng được một số điều kiện cần thiết.
Các biện pháp tương đương thuế quan là các biện pháp làm gia tăng giá hàng
xuất khẩu theo cách tương tự như thuế quan. Biện pháp tương đương thuế quan áp
dụng đối với hàng xuất khẩu tại Việt Nam là biện pháp phụ thu cho một số mặt
hàng xuất khẩu.
Biện pháp liên quan đến doanh nghiệp bao gồm: quy định về quyền kinh
doanh xuất khẩu (Quyền kinh doanh xuất khẩu là quyền dành cho một số công ty
nhất định được tiến hành hoạt động xuất khẩu đối với tất cả các mặt hàng hoặc một
số mặt hàng nhất định trên một số thị trường nhất định hoặc trong một thị trường
nhất định), quy định về đầu mối xuất khẩu.
Biện pháp liên quan đến đầu tư: yêu cầu về tỉ lệ xuất khẩu bắt buộc (Yêu cầu
tỉ lệ xuất khẩu bắt buộc là tỉ lệ sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị sản xuất phải
thực hiện xuất khẩu. Lí do đưa ra tỉ lệ xuất khẩu bắt buộc vì sản xuất trong nước đã
đáp ứng được nhu cầu về chất lượng, số lượng)
Các biện pháp quản lí ngoại tệ
Nhóm biện pháp tài chính: (1) Tín dụng xuất khẩu (là hình thức cho vay hoặc
trả sau): Cấp tín dụng là việc Nhà nước cung cấp vốn với mức ưu đãi lãi suất thấp
cho các doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình trao đổi, buôn bán và
xuất khẩu hàng hoá. (2) Trợ cấp xuất khẩu: là việc Chính phủ dành cho doanh
nghiệp những lợi ích mà trong điều kiện thông thường doanh nghiệp không thể có
được. Bao gồm các hình thức: (1) Chính phủ trực tiếp cấp tiền (cấp vốn, cho vay ưu
đãi hoặc góp cổ phần) hoặc Chính phủ bảo lãnh các khoản vay. (2) Chính phủ miễn
các khoản thu lẽ ra doanh nghiệp phải đóng như các loại thuế, phí (ưu đãi về thuế).
(3) Chính phủ cung ứng những khoản trợ cấp cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu hay
tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu mà họ không phải
hoàn trả lại cho Nhà nước - Đây là điểm khác với tín dụng xuất khẩu.

Thủ tục hải quan: là quy trình mà nhà xuất khẩu phải tiến hành khi xuất khẩu
hàng hoá qua biên giới.


17

Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp là các thủ tục, biện pháp áp
dụng đối với các hàng hoá bị coi là bán phá giá hay trợ cấp;
Thúc đẩy xuất khẩu thông qua các khu công nghiệp và khu chế xuất tạo
điều kiện cho các nhà sản xuất xuất khẩu những ưu đãi như: tiền thuê đất, hệ
thống cơ sở hạ tầng (điện, nước, viễn thông) hiệu quả và đáng tin cậy, thủ tục
hành chính thuận lợi.
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chính sách thương mại của một
nước là: “Khuôn khổ hoàn chỉnh các luật, quy định, các hiệp định quốc tế và kết
quả đàm phán được Chính phủ một nước chấp nhận để đạt được sự tiếp cận thị
trường có ràng buộc về mặt pháp lý đối với các công ty trong nước” (Goode, 1998,
P.283). Các Hiệp định của WTO rất dài và phức tạp vì đó là những văn bản pháp lí
qui định rất nhiều lĩnh vực hoạt động như: nông nghiệp, hàng dệt may, hoạt động
ngân hàng, viễn thông, thị trường công, tiêu chuẩn công nghiệp, tính an toàn của
sản phẩm, qui định liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, và còn
rất nhiều lĩnh vực khác nữa… Tuy nhiên, có một số nguyên tắc đơn giản và cơ bản
làm kim chỉ nam của tất cả các lĩnh vực này, và trở thành nền tảng của hệ thống
thương mại đa biên, đó là:
(1) Thương mại không có sự phân biệt đối xử: Nguyên tắc này thể hiện ở hai
nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN): "Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước
(được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên nhất". Nội dung của nguyên tắc này thực
chất là việc WTO quy định rằng, các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các
đối tác thương mại của mình. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi
thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công

bằng như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương
mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự
như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành
viên đều được "ưu tiên nhất", kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác
thương mại nào.


18

Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT): "Ðối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình
đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa. Nội dung của nguyên tắc này
là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử
công bằng, bình đẳng như nhau. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất
kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và
các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự
đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất
trong nước. Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu
nguyên tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử
giữa các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A, B, C...khi
xuất khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục
tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh
nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường nước
X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan,
đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
(2) Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán):
Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị
trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt
giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch,
giấy phép...).
Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho thấy đó chính là

lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả đàm phán dỡ bỏ
các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm phán cả những lĩnh vực
mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát triển
của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế
trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là khác nhau, nói
cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận lợi mà cũng
đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước.


19

Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy định cho phép các
nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng
bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan
được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
(3) Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch: Ðây là nguyên tắc
quan trọng của WTO.
Mục tiêu của nguyên tắc này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo
tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định
thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh
nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam
kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch
định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính
sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ.
Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế
quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện.
Ðây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của
WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:

Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân
nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán
phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối
tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một
bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là các mức thuế suất ràng buộc.
Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở
mức tối đa nào đó và không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi
cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã
cam kết, ràng buộc chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù
thiệt hại do việc tăng thuế đó gây ra.


20

Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định
lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng
nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho
doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do
thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ
hoặc chấm dứt.
Ðể có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu
chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh bạch")
các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Ðồng thời, WTO
có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ
chế rà soát chính sách thương mại.
(4) Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn:
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại
song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về

bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của
các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hoặc các biện
pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh
tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không
được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá...
(5) Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các
nước kém phát triển nhất:
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng tự
do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của WTO đóng
góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng thừa nhận rằng,
các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Nói
cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một, song trình độ "cầu thủ" thì
không hề ngang nhau.


21

Trong khi đó, hiện số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các
nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/4 số nước thành viên
của WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và
cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách
dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo
sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc
thực hiện các hiệp định của WTO.
Chẳng hạn, WTO cho phép các nước này một số quyền và không phải thực
hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời
gian linh động hơn trong việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian

quá độ thực hiện dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra,
WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật
ngày một nhiều hơn.
Từ những phân tích trên đây trong luận án này có thể đưa ra cách hiểu khái
quát về chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở các nước đang phát triển: “Chính sách
thúc đẩy xuất khẩu là một hệ thống các quan điểm, đường lối, thể chế hóa của
Nhà nước, các quy định hướng dẫn, khuyến khích và tăng cường mặt hàng và thị
trường xuất khẩu cho phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế hiện hành.”
Trong các phần tiếp theo dưới đây các quy trình, chức năng, vai trò, các tiêu
chí đánh giá chính sách và biện pháp chính sách thúc đẩy xuất khẩu sẽ được giới
thiệu một cách cụ thể hơn để phục vụ cho việc phân tích và đánh giá chính sách
thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU.
Khung xây dựng, thực hiện và điều chỉnh chính sách xuất khẩu trong điều
kiện gia nhập WTO được thể hiện ở hình sau:


22

Cam kết gia nhập WTO

Mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu

Cách tiếp cận chính sách
thúc đẩy xuất khẩu

Mục tiêu của chính sách
thúc đẩy xuất khẩu

Các công cụ của chính sách thúc
đẩy xuất khẩu hàng hóa

Hệ thống công cụ thuế
Các công cụ phi thuế

Hệ thống các chính sách thúc đẩy
xuất khẩu hàng hóa
Chính sách mặt hàng
Chính sách thị trường
Chính sách xúc tiến hỗ trợ xuất khẩu

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa trong điều kiện tham
gia WTO
Hình 1.1. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu trong điều kiện tham gia vào WTO
của các quốc gia đang phát triển

Nguồn: Tác giả tổng hợp

1.2. Chức năng và vai trò của chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
1.2.1. Chức năng của chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
1.2.1.1. Chức năng định hướng
Chính sách là công cụ quan trọng góp phần định hướng hành vi của các chủ thể
kinh tế, xã hội. Trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, căn cứ
vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Nhà nước ban hành để đề ra định hướng


23

phát triển ngành; Chính sách thúc đẩy xuất khẩu đề ra những giới hạn cho phép của
các quyết định, nhắc nhở các chủ thể những quyết định nào có thể, quyết định nào
không thể. Những quyết định này được xác định trên cơ sở các căn cứ khoa học, từ

đó làm căn cứ lập các quy hoạch, kế hoạch đồng thời lựa chọn các biện pháp chủ
yếu để đạt được mục tiêu trong thời gian nhất định. Chính phủ và các lãnh đạo các
cấp chính quyền thực hiện tốt chức năng định hướng sẽ làm giảm thiểu rủi ro có thể
xảy ra cho các tổ chức, cá nhân tham gia công tác xuất khẩu; Do vậy, chính sách
định hướng các hoạt động liên quan đến thúc đẩy xuất khẩu là sự can thiệp của
Chính phủ và Lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương đến hoạt động xuất khẩu
diễn ra, phát huy được các lợi thế của mặt hàng, thị trường. Như vậy: định hướng
luôn được coi là chức năng quan trọng nhất của chính sách thúc đẩy xuất khẩu của
mỗi quốc gia - Điều này thể hiện vai trò định hướng của chính sách vào những mục
tiêu thúc đẩy xuất khẩu nhằm khai thác những lợi thế mà xuất khẩu mang lại.

1.2.1.2. Chức năng điều tiết
Chính sách được Nhà nước ban hành để giải quyết những vấn đề bức xúc phát
sinh trong đời sống kinh tế - xã hội, điều tiết những mất cân đối, những hành vi
không phù hợp, nhằm tạo ra hành lang hợp lý cho các hoạt động kinh tế xã hội theo
các mục tiêu đề ra. Chính phủ và lãnh đạo các cấp chính quyền phải biết vận dụng
các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường để điều tiết sao cho các ngành
kinh tế, trong đó có hoạt động xuất khẩu phải đạt hiệu quả cao nhất, mọi nguồn lực
phải được sử dụng tiết kiệm nhất nhưng cung cấp cho xã hội các lợi ích tốt nhất.
Nhà nước có vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu là: Hỗ trợ các doanh
nghiệp trong phát triển thị trường xuất khẩu, xây dựng cơ cấu kinh tế vùng theo mô
hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, điều chỉnh chính sách thuế xuất khẩu
phù hợp… Như vậy, chính sách thúc đẩy xuất khẩu phải điều tiết khắc phục tình
trạng mất cân đối trong việc sử dụng các nguồn lực của xã hội, điều tiết những hành
vi không phù hợp trong thúc đẩy xuất khẩu giữa các mặt hàng và thị trường xuất
khẩu. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu còn điều tiết việc khai thác, sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng có hiệu quả đất đai, bảo vệ môi trường, sử


24


dụng nguồn lao động. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu còn điều tiết và tạo sức lan tỏa
cho các ngành kinh tế, tạo mức tăng trưởng hài hòa, bền vững và là động lực để
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.

1.2.1.3. Chức năng tạo tiền đề và khuyến khích phát triển
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu là công cụ nhằm thực hiện chức năng tạo tiền
đề, khuyến khích xã hội phát triển theo xu hướng đã đề ra. Chính sách thúc đẩy xuất
khẩu hướng tới thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho xuất khẩu, thông qua việc xây
dưng môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động xuất
khẩu, trong tiếp cận các yếu tố phục vụ cho xuất khẩu như thị trường, nhân lực, xúc
tiến thương mại… Chính phủ cần tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu
thông qua: (1) Tạo môi trường pháp lý bằng hệ thống luật pháp, các văn bản hướng
dẫn đầy đủ cho các doanh nghiệp và cá nhân tham gia công tác xuất khẩu (2) Chính
phủ có chính sách hỗ trợ tài chính tiền tệ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản
xuất và xuất khẩu tăng tiềm lực tài chính, thúc đẩy xuất khẩu. (3) Tạo cầu nối cho
nhà xuất khẩu tìm đối tác nhập khẩu thong qua hội chợ, hội nghị bạn hàng trong
nước và quốc tế. Ví dụ: Chính sách thu hút đầu tư quốc tế tăng cường hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng nguồn thu
ngoại tệ cho quốc gia…

1.2.2. Vai trò của chính sách xuất khẩu hàng hóa
Chính sách xuất khẩu định hướng cho hoạt động xuất khẩu phù hợp với
mong muốn mà Nhà nước theo đuổi. Vai trò định hướng của chính sách xuất khẩu
thể hiện trong việc Nhà nước ban hành các quy định điều chỉnh tăng cường các hoạt
động xuất khẩu sao cho đạt được mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Mục tiêu đó là
khuyến khích hoạt động xuất khẩu phát triển - cũng có nghĩa là hoạt động xuất khẩu
sẽ nhận được những ưu đãi của Nhà nước như việc quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi
và giúp đỡ hoạt động xuất khẩu phát triển với các mục tiêu, các biện pháp của chính
sách cũng có vai trò định hướng cho hoạt động xuất khẩu. Vì biện pháp của chính

sách xuất khẩu có tác động thúc đẩy, cân bằng hay kìm hãm rất lớn đến hoạt động


25

xuất khẩu. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước tham gia tốt hơn vào quá trình phân công lao động quốc tế: có thể thực
hiện quá trình chuyên môn hoá sâu hơn đồng thời tăng khả năng mở rộng sản xuất
cả chiều rộng và chiều sâu, mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác với đối tác
nước ngoài
Chính sách xuất khẩu cần được tạo lập trong môi trường pháp lý thuận lợi
thể hiện trong sự thống nhất cao độ giữa mục tiêu thực hiện và sự phong phú đa
dạng của các biện pháp thực thi chính sách; Chính sách xuất khẩu góp phần phát
huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực
của nó. Chính sách xuất khẩu cần thể hiện được vai trò của mình trong việc sử dụng
các công cụ biện pháp để hạn chế những biểu hiện không lành mạnh trong sản xuất
kinh doanh có thể xảy ra bằng chính sách thuế, chính sách ưu đãi đặc biệt…
Thông qua việc xây dựng và thực hiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu đúng
đắn sẽ góp phần thực hiện quá trình huy động và phân bổ nguồn lực của quốc gia
như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế quốc tế
nói chung và xuất khẩu nói riêng. Điều đó thể hiện ở việc chính sách khuyến khích
xuất khẩu mặt hàng chế biến đòi hỏi nguồn nhân lực phải đáp ứng đủ cho hoạt động
sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời phân bổ đội ngũ cán bộ công chức hợp lí trong
việc thực thi các chính sách xuất khẩu; Chính sách thúc đẩy của mỗi quốc gia góp
phần vào việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp, các lĩnh vực kinh tế
mới với trình độ công nghệ và sức cạnh tranh ngày càng cao, phát huy tốt hơn lợi
ích của quốc gia.

1.3. Quy trình và tiêu chí đánh giá chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
1.3.1. Quy trình đánh giá chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa

Quy trình chính sách thúc đẩy xuất khẩu là một thuật ngữ chỉ tập hợp các
giai đoạn khác nhau từ khi ra đời các ý tưởng, các vấn đề chính sách cho đến khi
ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá điều chỉnh chính sách đó. Các giai
đoạn của quy trình chính sách thúc đẩy xuất khẩu có liên hệ chặt chẽ đến nhau theo


×