Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thẩm mỹ trong “nhật ký trong tù” của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.92 KB, 17 trang )

Thẩm mỹ trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
Gorki đã từng noi “Người nghệ sĩ tìm thấy mình và tìm thấy thái độ
chủ quan của mình đối với cuộc sống …, và thể hiện thái độ đó trong
những hình thức riêng của mình bằng những từ ngữ riêng “người nghệ sĩ
lớn đồng thời phải là người sáng tạo đa phong cách, phải thể hiện được
giá trị chân - thiện mỹ trong các sáng tac scủa mình để nâng người đọc tới
những tầm cao mới. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị lỗi lạc,
mà cao hơn nữa còn là hình ảnh của một ngườin ghệ sĩ - chiến sĩ cao cả,
đẹp đẽ… “Nhật ký trong tù” chính là tập thơ thể hiện sâu sắc những giá trị
nội dung và là sự kết tinh cao độ của một tài năng nghệ thuật.
Hồ Chí Minh sáng tác vận chuyển không phải vì hành vi vận chuyển
mà vì hành vi cách mạng. “Đây không phải lá sự hạ thấp mà là đánh giá
rất cao Hồ Chí Minh” (Nguyễn Đăng Mạnh). Bởi bản thân vận chuyển
nghệ thuật rất phức tạp. Hồ Chí Minh chỉ nhận mình là nhà bác, là nhà
cách mạng chuyên nghiệp, nhưng chưa bao giờ nhận mình là một nghệ sĩ.
Cuộc đời của Người chỉ tâm niệm với bốn câu hỏi; viết cho ai? Viết để
làm gì? Viết cái gì? và viết như thế nào? quan trọng nhất là câu hỏi “Viết
cho ai?” Bác luôn luôn chú ý đến đối tượng độc giả - tức người tiếp nhận
tác phẩm để đạt được giá trị tư tưởng cũng như hiệu quả thẩm mỹ cao
nhất. Vậy nên, trong các tác phẩm của Bác, có những bài mà đọc lên mọi
người cùng hiểu, kể cả dân ít chữ, kể cả người không được đến trường,
miễn là hiểu tiếng Việt. Nhưng cũng có nhiều tác phẩm mà ngay cả tầng
lớp trí thức uyên thâm không phải ai cũng khám phá hết được tầng lớp sâu
xa của nó.
“Nhật ký trong tù” là tập thơ được Bác viết từ mùa thu 1941 đến
mùa thu năm 1942 ở nhà ngục Quảng Đông - Trung Quốc. Tuy chỉ được
sáng tác trong một thời gian gnắn, trong hoàn cảnh tù ngục khó khăn thiếu
thốn, song “Nhật ký trong tù” vẫn thể hiện trong đó những sâu sắc, tinh tế


về nội dung và cả tài năng điêu luyện, độc đáo trong bút pháp, nghệ thuật.


Nó thể hiện tâm - tài - tâm của một người nghệ sĩ vĩ đại, lớn lao.
Trước hết “Nhật ký trong tù” là một tác phẩm lớn, vì nó chứa đựng
trong đó những nội dung tư tưởng vô cùng lớn lao. Đó là sự hòa quyện
giữa giá trị hiện thực và nhân đạo, giữa chất thép và tình cảm. Có cái đau
thương, cực nhọc nhưng lại xen lẫn ở đó những tiếng cười trào phúng; có
sự đau khổ buồn bã nhưng cao hơn hết lại là niềm tin, khát vọng và sự lạc
quan chưa bao giờ dập tắt trong “Nhật ký trong tù”.
Giá trị hiện thực - chất thép trong thơ Hồ Chí Minh thể hiện ở việc
Bác đã vẽ lại bức tranh tù ngục một cách chân thực, sống động, sâu sắc.
Chính giá trị hiện thực đã làm nên chất nhật ký đậm sắc trong tập thơ
“Nhật ký trong tù”. Người ta ngỡ rằng một tác phẩm đỉnh cao luôn luôn
phải xuất phát từ một trí tưởng tượng phong phú, một sự “thăng hoa” về
xúc cảm trong cái bay bổng của tâm hồn người nghệ sĩ. Song, ta l;ại dễ
dàng nhận thấy trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh, “Nhật ký trong tù”
thể hiện trong đó ít sự tưởng tượng nhất. Tác giả dường như không tưởng
tượng gì cũng thành thơ, nhìn gì cũng ra thơ, nói gì cũng là lời thơ. Người
ta tưởng như trong không gian tù ngục ấy, nếu Hồ Chí Minh tưởng tượng
quá sẽ che mất đi bản chất của sự vật, sẽ làm mất đi một hiện thực rất
“hiện thực” trong chốn lao tù ấy. Hiện thực trong thơ Bác là hiện thực
trực cảm, thể hiện rất rõ tính chất cảm tính, cụ thể, sinh động, sâu sắc.
Miêu tả cái cùm:
“Dữ tựa hung tần miệng trực nhia
Đêm đêm há hóc nuốt chân người
Có người bị nuốt chân bên phải
Có người bị nuốt chân bên thái.
Cái cùm trước hết là chính nó. Đó là cái cùm, thứ dùng để xiềng
xích, trói buộc tù nhân, ở đây không hề có ý nghĩa ẩn dụ, hoán dụ thường
thấy trong thơ ca mà đơn thuần chỉ là niêu tả, hiện thực một sự vật. Cách
cảm thụ trong thơ Hồ Chí Minh rất giản dị, đơn thuần là miêu tả. Nhưng



toát ra từ cái chân thực, cái đơn sơ ấy, người ta nhận rõ được hiện thức tù
ngục tù túng, trói buộc con người.
“Đáp thuyền đi đến huyện Ung Ninh
Lủng lẳng chân treo tự giảo hình
Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ tênh tênh”.
Bất ngờ làm sao khi thực hiện tù ngục khắc nghiệt, đau khổ là thế
vậy mà vẫn được bác miêu tả bằng một giọng điệu nhẹ nhàng, thoải mái
xen lẫn hài hước, trào phúng. Chất tự trào được thể hiện rõ. Cười lên cái
hiện thực đau khổ kia. Cười để khẳng định chứ không phải phủ định. Đó
là sự khẳng định, đề cao lẽ sống cao cả, lý tưởng đẹp đẽ, sự chủ động của
người tù. Đây chính là cách thức chiến thắng về mặt tinh thần, là một hình
thức vượt ngục về mặt tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. Đọc thơ
Hồ Chí Minh vì vậy cần phải nắm rõ, hiểu đúng bản chất tinh thần của bài
thơ.
“Trong tù khoan khoái giấc ban trưa
Một giấc miên man suốt mấy giờ
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ”
Bên cạnh hình ảnh của một khách tiên, một người tù trong tư thế
ung dung tự tại, người ta vẫn thấy được sắc thái tự trào sâu sắc của nó. Có
một nụ cười kín đão từ chính giấc mớ cưỡi rồng của con người. Bài thơ
được viết theo kết cấu 3 - 5 . Ba câu đều là khát vọng, câu cuối là hiện tại.
Mơ thì được rưỡi rồng, nhưng tỉnh lại ở tỏng ngục. Mơ thì được lên tiêng,
nhưng tỉnh lại ở chính thực tại đau khổ. Sắc thái tự trào bộc lộ một cách
chua chát nhưng ta lại không hề thấy một chút tư tưởng thoát tục nào.
Người tù càng nhận ra thực tại đau khổ quanh mình thì càng khát khao và
thôi thúc thoát khỏi thực tại ấy. Như vậy ở Hồ Chí Minh, quan điểm mỹ
học của người luôn luôn gắn liền với cuộc sống thực tại.



Xét về đề tài, thì quá nửa tập thơ nói về sự tồn tại của vật chất hàng
ngày của người tù. Nhà thơ cũng đề cập đến các vấn đề ăn xin, bắt lính,
chia ly, hát rong… như các nhà thơ trước Bác đã từng nói. Nhưng hiện
thực của Hồ Chí Minh bản thân nó có tía trị cao cả, sâu sắc bởi bác nhìn
hiện thực đó không phải với con mắt “sở kiến’ hay mục đích ghi lại mà là
gửi gắm một nỗi niềm bi phản, một khát vọng đổi thay, cái hiện thực.
“Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng thì không mở cửa tù”
Sao trớ trêu đến mức hài hước - sao tương phản đến mức đau long?
Hiện thực tù ngục ai cũng biết, vào thơ của Bác nó cũng không bị cách
điệu, không bị nói quá mà sao lại có tính chất tố cao gay gắt.
“Nghỉ việc trên đời kì lạ nhất
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau
Được cùm chân mới yên bề ngủ
Không được cùm chân biết ngủ đâu”
Hồ Chí Minh khắc họa hiện thực bằng việc tạo ra những xung đột,
gây nên những mâu thuẫn. Tuy nhiên, chúng không phải là lớn, không
nằm ở tầm vĩ mô. Tác giả đã dựa vào một nghịch lý mang tính chất ngang
trái để bật ra tiếng cười - tiếng cười bác bỏ hiện thực, phản đối chế độ.
Thực chất, thể loại nhật ký là hướng nội, thiên về nôpị tâm. Ở đó, tác giả
bộc lộ tâm sự của mình là chính chứ không nhằm mục đích miêu tả sự bề
bộn, phức tạp của cuộc sống bên ngoài. Nhưng hiện thực tù ngục dưới con
mắt cảm quan của người nghệ sĩ đã khiến cho lòng người đọc không khỏi
băn khoăn, day dứt. Bởi:
“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai”
Cái vô lý, nghịch cảnh được đẩy lên đến tận cùng. Miêu tả hiện thực
một cách rất khách quan như thế mà sao người đọc vẫn thấy bộc lộ trạng

thái căm phẫn của tác giả. Cuộc sống trong nhà ngục Quảng Đông - Trung


Quốc phơi bay bao nhiêu sự đảo lộn, kệch cỡm, vô lý mà ở đó, con người
bị coi rẻ hơn cả súc vật:
“Kiêng lợn lính cùng đi một lối
Ta thì người dắt, lợn người khiêng”
Trong thơ Bác, đặc biệt là ở tập thơ “Nhật ký trong tù”, người ta dễ
dàng có thể thấy rất nhiều hình ảnh thông tục xuất hiện. Đó là cách biểu
hiện cuộc sống một cách chân thực nhất, đầy đủ nhất, cụ thể nhất. Nhưng
khác với các nhà thơ trước đó như Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tú Mỡ…,
hình ảnh thông tục đi vào thơ Bác không phải là nói cho sướng miệng,
không phải đơn thuần để trào phúng; mà cao hơn nữa, đó là cách để tác
giả bộc lộ thái độ của mình khi đứng trước hiện thực tù ngục trớ trêu. Bác
băn khoăn khi chứng kiến thấy con người bị đối xử vô nhân tính, đau lòng
khi thấy con người bị đối xử rẻ rúm, bị khinh thường đến mức tận cùng.
ẩn sâu trong tiếng cười sâu cay của Bác là sự lên án hiện thực tù ngục, là
niềm cảm thương chân thành với những con người là nạn nhận của tù
ngục:
“Oa… oa… oa
Cha trốn không đi lính nnh
Nên nổi thân em vửa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha”
Tiếng khóc của đứa trẻ trong ngục xoáy sâu vào lòng người bao nỗi
đau đớn, xót xa. Đó là sự lên án, tố cáo chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch
lên đến tận cùn. Nó không chỉ chà đạp, hành hạ con người mà nhẫn tâm
đẩy cả đứa trẻ ngây thơ phải chịu cuộc sống tù đày. Sự bi phẫn bộc lộ một
cách mạnh mẽ. Nhưng bên cạnh đó, người ta thấy được giọt nước mắt ấm
nồng tình yêu thương, cảm thông của Bác cho những nạn nhân của nhà tù
Tưởng Giới Thạch.

Hồ Chí Minh miêu tả hiện thực một cách chân thực, cụ thể nhưng
không phải để khóc lóc, giãi bày, kể lể mà là với một tiếng cưới vượt lên
đau khổ. Đó là tiếng cười nhẹ nhàng thâm thúy, không thóa mạ chua cay,


không bị phẫn đến cùng cực, không quá cởi mở, ồn ào, hả hê. Nó thể hiện
sự hóm hỉnh tế nhị - khẳng định một trí tuệ uyên thâm, một khả năng phán
đoán và trí tuệ sắc sảo. Bác miêu tả hiện thực tù ngục để bóc trần bản chất
xấu xa đồi bại của nó; để cảm thông cho bao nạn nhân bi kịch của nó.
Tiếng nói của Bác, tiếng cười của Bác là sự đả phá chế độ tù ngục mạnh
mẽ. Miêu tả hiện thực để cười vào nó, để nhạo báng nó. Song “Bên cạnh
tiếng cười Hồ Xuân Hương làm chóng mặt bao đáng mày râu mà ngôn
ngữ trào lộng với sắc thái tục tĩu sánh được với ngôn ngữ của Rabơle
trong văn học Pháp thế kỷ XV là tiếng cười tao nhã, mực thước của “Nhật
ký trong tù”. Bên cạnh tiếng cười khẩy, cười khà sâu thẳm của Tam
Nguyên Yên Đổ là tiếng cười ấm áp khoan hòa của “Nhật ký trong tù”.
Bên cạnh tiếng cười chua cay đôi khi trào nước mắt của Tú Xương là
tiếng cười an nhiên tỉnh táo tự chủ của người tù Hồ Chí Minh” (Nguyễn
Huệ Chi).
Bác miêu tả sự thực tù ngục không phải để sợ hãi, để chấp nhận mà
là khẳng định lẽ sống đẹp đẽ, tự do. Bác đã có một sự vượt ngục về mặt
tinh thần thông qua thái độ ngạo nghễ, lạc quan, hóm hỉnh của Bác khi đối
diện những cực nhọc trong khung cảnh tù đày ấy. Đó cũng chính là xuất
phát bởi chất chữ tình, tình nhân đạo, chấ thơ thấm đượm trong tâm hồn
Hồ Chí Minh. Nó đã tiếp thêm sức mạnh cho Bác để đổi mặt với bao
nhiêu khó khăn và chấp nhận vượt qua những khó khăn ấy.
Không ai có thể phủ nhận chất trữ tình nhân đạo trong thơ văn Hồ
Chí Minh. Đặc biệt trong “Nhật ký trong tù” nó thể hiện ở tình yêu nước,
yêu con người, yêu thiên nhiên đến vô bờ cùng khát vọng tự do, niềm lạc
quan vô bờ của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh.

Tình yêu nước của Hồ Chí Minh trong “Nhật ký trong tù” thể hiện
một cách sâu sắc, mãnh liệt trong bài thơ “không ngủ được”:
“Một canh hai canh,… lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt


Sao vàng năm canh mộng hồn quanh”
Bước thời gian chầm chậm, nặng nề trôi qua trong từng khoảnh
khắc. Người ta thấy dường như người ngục đang đêm từng giây từng phút.
Những danh từ số đếm “một”, “hai”, “ba” lần lượt nối tiếp nhau nhấn
mạnh rõ sự thấp thỏm trằn trọc, day dứt, băn khoăn của người trong cuộc.
Người đọc sẽ đặt câu hỏi; Người trong ngục tại sao lại không ngủ được?
Bác Hồ vì sao cứ trăn trở theo từng bước chuyển của thời gian? Câu cuối
chính là câu trả lời cho bao nhiêu băn khoăn thắc mắc ở trước đó. Bác
không ngủ được là bởi vì “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”, là vì Bác
đang lo cho vận mệnh dân tộc, đang khát khao cho một ngày mai nước
nhà được hoàn toàn độc lập. Vậy nên cái không ngủ là cái trăn trọc của
một tâm hồn lo dân thương nước “Nhật ký trong tù” có giá trị sâu sắc
chính là ở chỗ đó.
Tuy nhiên, chất đằm thắm, tính chất trữ tình trong thơ Hồ Chí Minh
đôi khi được tạo nên bởi những tình cảm rất đơn sơ, rất đỗi bình dị. Có
khi đó là nỗi xót xa cho tình cảnh đứa bé nửa tuổi phải theo mẹ chịu cảnh
giam cầm nơi ngục tối, có lúc là giọt nước mắt xót thương cho cái chết
cảu một người bạn tù… Nỗi niềm yêu thương con người sâu nặng của Bác
được thể hiện ở việc Bác đồng cảm và thấu hiểu một cách chân thành với
tình cảm chia ly mà họ phải chịu đựng.
“Anh ở trong song sắt
Em đứng ngoài cửa sát
Gần nhau trong tấc gang

Mà biển trời cách mặt”
Phải là một con người nhạy cảm phải là một trái tim giàu tình yêu
bao la thì những vần thơ Bác viết ra mới chân thực mà cảm động đến thế.
Nhưng câu thơ đơn sơ giản dị, không cầu kỳ, chau chuốt ngôn từ vậy mà
lại có khả năng rung động đến thẳm sâu tâm hồn con người một cách
mãnh liệt, cồn cào. Bác đã dùng đôi mắt của sự đồng cảm, trái tim của


niềm chân thành mà cảm , mà hiểu, mà bắc liền cái cầu để nối tâm hồn
đến với bến bờ của tâm hồn.
“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc đồng quê chuyển điệu sầu
Muôn dặm quan hà khôn xiết nổi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau”
Âm thanh trong trẻo của tiếng sáo vang lên giữa cái bề bộn, khắc
nghiệt của hiện thực như quanh quẩn đeo bám tâm hồn con người. Đó là
nỗi niềm da diết của một kẻ xa quê, là niềm nhung nhớ khôn nguôi của
một người đang nhớ thương về mảnh đất chôn rau cắt rốn. Nghe tiếng sáo
vang lên giữa chốn tù ngục để cảm, để hiểu những xúc cảm tinh tế của
lòng người như thế thì sự đồng cảm, sự nhạy bén của Hồ Chí Minh vô
cùng sâu sắc. Tâm hồn nhạy cảm của Bác đã hòa chung với thơ của những
xúc cảm trong lòng người để nói lên những điều tế vi nhất, sâu lắng nhất.
Chất trữ tình, chất nhân đạo được thể hiện rõ nét. Nó vượt lên trên tất cả
những tầm thường, bẩn thỉu, nhơ nhớp của hiện thực tù ngục để nâng con
người lên trong vẻ đẹp của tình yêu, của lòng nhân ái.
Giá trị nhân đạo - chất trữ tình trong thơ văn Hồ Chí Minh trong
“Nhật ký trong tù” chính là ở chỗ, nhiều lúc, Bác đã thoát ly hoàn toàn
cuộc sống tù túng, thoát ly với những đêm dài bị muỗi, rệp cắn, bị ghẻ
ngứa hành hạ… để hướng về thiên nhiên, với phong hoa tuyết nguyệt. Khi
đó, hình ảnh Hồ Chí Minh thực sự là hình ảnh của một bậc tao nhân mặc

khách, của một người tự do, một vị khách tiên. Đó là một con người
dường như xa rời phàm tục, chỉ còn lại trong cộng đồng niềm băn khoăn,
day dứt với thân phận của cái đẹp;
“Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình”


Bài thơ mở ra không gian “trong ngục”, nhưng không hề nêu lên
vấn đề tự do, giải thoát, tù nhân - quản ngục… mà chỉ là câu chuyện ngắn,
là lời than thở về số phận của cái đẹp. Có nhiều ý kiến hoặc phiến diện
hoặc dung tục khi đánh giá về bài thơ này. Người ta tuy sự bất bình.
Chính Xuân Diệu cũng phải trăn trở rất nhiều và cuối cùng cũng nhận ra
được tư tưởng đích thực của nó. “Theo cháu nghĩ, đâu có phải chỉ là thiên
hạ vô tình mà hơn nữa kia, tạo hóa vô tình… các lớp hoa hồng nở - rụng,
rụng - nở, tạo hóa vẫn cứ vô tình, chỉ có “tạo hóa vô tình”. Nội dung đích
thực của tác phẩm chính ở chỗ qua hình tượng thơ tác giả muốn nói với
người đọc một sự thực đau lòng. Số phận ngắn ngủi của cái đẹp, Hồ Chí
Minh đặt ra vấn đề là phải cứu lấy số phận của cái đẹp. Bài thơ ra đời
trong tù lại là một câu chuyện về cái đẹp, câu chuyện nghệ sĩ. Nó đưa ra
nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả của người nghệ sĩ chân chính. Sự có mặt
của họ trên đời, xét đến cùng cũng là vì cái đẹp. Họ sáng tác để làm gì
nếu không phải để phát hiện cái đẹp, nâng giấc cái đẹp và bất tử hóa cái
đẹp. Bằng các sáng tác nghệ thuật, cái đẹp được lên ngôi, được khẳng
định cái giá trị trường tồn và vĩnh hằng của nó. Đây chính là nội dung
quan trọng nhất của tư tưởng mỹ học Hồ Chí Minh. Mọi sáng tác xét đến
cùng đều hướng tới quan điểm cái đẹp và tư tưởng mỹ học.
Tình yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên của Bác còn thể hiện ở sự gắn bó
với vẻ đẹp thiên nhiên, say mê hình ảnh trăng hoa tuyết nguyệt:

“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh dẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăn soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Ánh trăng trong thơ cổ chỉ là một đối tượng thiên nhiên để bộc lộ
cảm xúc của người nghệ sĩ, nhưng trong thơ Bác, đó lại là một người bạn,
một người chiến sĩ, một người cách mạng
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không


Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Thơ xưa cũng từng nói nhiều đến tịch dương tà huy, nhật mộ…
Trong thơ Hồ Chí Minh cũng nói đễn chiều tối, nhưng không chỉ gửi gắm
nỗi buồn chung mọi thi sĩ đều có mà còn là cơ sở để chuẩn bị cho ánh
sáng. Tình yêu thiên nhiên gắn liền với niềm lạc quan, niềm tin vào ánh
sáng.
“Nhật ký trong tù” thực sự là một cuốn nhật ký, ghi chép lại cuộc
sống sinh hoạt trong ngục tối, ghi chép lại những mảng suy tư, tâm sự của
người tù, người chiến sĩ - thi sĩ. Đó là sự hòa quyện giữa giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo, giữa chất thép và chất tình. Có những sự đơn sơ, giản
dị, thậm chí là dung tục của cuộc sống hàng ngày, nhưng cũng có lúc lại
thiết tha, sâu lắng trong những dòng chiêm nghiệm, trong xúc cảm rất
người của Bác. Người ta bắt gặp trong “Nhật ký trong tù” hình ảnh của
một người tù lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống và yêu thương con người
đến tha thiết. Tất cả đều chân thật đến giản dị mà cũng sâu sắc đến cao cả,
thiêng liêng.
Song, dù bất cứ một tác phẩm được viết về ai, về nội dung gì và viết
vì cái gì, thì những điều đó phải được biểu hiện ở một hình thức nhất

định, một nghệ thuật nhất định tùy thuộc vào phong cách của mỗi người
nghệ sĩ. Và “đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ, phong cách
không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Đó là sự khám phá
mà ta không thể làm một cách cố ý và trực tiếp; bởi đó là một sự khám
phá về chất chỉ có được trong cách cảm nhận về thế giới, một cách cảm
nhận nếu không do nghệ thuật đem lại thì mãi mãi sẽ không ai biết đến
(Maxen prutxơ). Những giá trị nghệ thuật trong “Nhật ký trong tù” chính
là kết quả của nhũng sự kiếm tìm, và là tinh hoa, là kết tinh của một tài
năng nghệ thuật độc đáo, uyên bác.
Cái tài hoa, uyên bác thể hiện trong nghệ thuật của “Nhật ký trong
tù” chính là ở sự kết hợp giữa văn phong cổ điển với văn phong hiện đại.


Những bài thơ của Bác viết ra cổ điển, mẫu mực, trầm tư, sâu lắng mà vẫn
linh hoạt, hiện đại. Đây chính là đỉnh cao của sự kết hợp giữa chất thép và
chất tình trong văn phong Hồ Chí Minh.
Các sáng tác của văn học Việt Nam cho thấy không phải sáng tác
nào cũng có tầm nhân loại. Về phương diện này, “Nhật ký trong tù” của
Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa trong thời đại cách mạng của dân tộc
mà trở thành bức thông điệp chung của vận chuyển chân chính. Người ta
nhắc đến Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng cách mạng lỗi lạc mà
còn là nhà văn hóa lớn, nghệ sĩ lớn trên thế giới. Cũng bởi vậy, người ta
nhận ra sự giao thoa giữa “Nhật ký trong tù” và các tác phẩm khác trên
thế giới về văn hóa cũng như kiến thức. Đây chính là quá trình gặp gỡ,
chung đúc giữa các nghệ sĩ lớn, các nền văn hóa lớn với nhau.
“Nhật ký trong tù” phảng phất trong nó phong vị Đường thi, tháp
thoáng sự thâm thúy cô đúc của thơ Đường, lại pha chút hóm hỉnh nhẹ
nhàng của văn học Pháp, Anh, đồng thời còn mang theo cái sục sôi, cháy
bỏng của nhiệt huyết vận chuyển truyền thống.
Riêng đối với thơ Đường, sự gặp gỡ của “Nhật ký trong tù” như

cuộc gặp gỡ tri âm tri kỷ. Đây chính là sự gặp gỡ của tâm hồn những
người nghệ sĩ phương Đông. Điều này thể hiện rõ nét trong cách cảm
nhận. Đó là sự chú ý khám phá sự thống nhất giữa con người với thiên
nhiên. Mỗi một bài thơ là một bức tranh gắn bó, hòa hợp giữa thiên nhiên
và con người.
“Gió sắc tựa gươm mài đá núi
Rét như dùi nhọn chích cành cây
Chùa xa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dẫn trâ về tiếng sáo bay”
Bức tranh sinh động có các đường nét, hình ảnh và cả âm thành gió
chếm vào đá núi, rét cửa vào cành cây, bước đi của khách bộ hành, tiếng
gió vi vút, tiếng chim ngân nga,tiếng sao véo von. Song cái lối phong -


hoa - tuyết - nguyệt ấy lại được biểu đạt bằng một cách đơn giản dễ hiểu,
không quá cầu kỳ như trang thơ cổ.
“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
Muôn vạn quan hà khôn viết nổi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau”
Cách cấu tự được tạo nên bởi cái “tôi” trữ tình hòa lẫn với ngoại
cảnh bức tranh thiên nhiên là bức tranh tâm trạng được kết hợp vởi cả ba
yếu tố thi nhạc - họa. Trong thơ người ta nhận ra nhạc, trong thơ người ta
nhận ra bút pháp hội họa.
“Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm
Vang tiếng đàn ca rộn tiếng ngâm
Nhà ngục Tĩnh Tẩy mờ mịt tối
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm”
Thời gian chiều hôm, không gian bóng tối là tín hiệu thẩm mỹ quen
thuộc trong các bài thơ Đường cổ. Song nhân loại, trong “Nhật ký trong

tù” tuy bị đẩy vào bóng tối xong vẫn khát khao ánh sáng, tuy phải chịu
nhiều khổ đau song không phải không có niềm tin. Không gian tù ngục
bỗng chốc hóa thành nhạc quán, viện hàn lâm, cái sức sống, cái niềm tin
rạo rực trong từng câu chữ ấy lại là một nét rất riêng, rất Hồ Chí Minh, rất
hiện đại.
Cũng với đề tài đăng sơn, ức hữu, đối nguyệt, vọng nguyệt, cũng
với phong thái ung dung tự tại trong sự giao hòa giữa thiên nhiên và con
người, cũng với bút pháp chấm phá, điểm xuyết… được thể hiện lên đến
đỉnh cao:
“Ngày hai tám tháng sáu
Lên ngọn núi này chơi
Ngẩng đầu mặt trời đỏ
Bên sườn một nhành mai”


Song thực chất, thơ Đường rất tự nhiên đã ăn sâu, đã thấm quyện
vào tâm hồn người nghệ sĩ Hồ Chí Minh. Để rồi thơ Hồ Chí Minh không
thể lẫn với bất cứ nhà thơ nào, cũng không phải mô phỏng hay diễn dịch ý
thơ của người xưa mà xẫn có sự sáng tạo độc đáo.
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng tròn khe cửa ngắm nhà thơ
Nói ngắm trăng thưởng nguyệt không còn là sự an nhàn, thư thái
vốn có mà ở trong tù - trong hoàn cảnh mất tự do, thiếu thón ở đó, người
ta phát hiện đúng một trái tim đa cảm của nghệ sĩ Hồ Chí Minh.
Bác không có ý gò từng câu từng chữ, từng ý thơ sao cho giống bài
thơ Đường này hay như bài thơ Tống nọ. Bởi
“Vận chuyển quý bất tùy nhân hậu”
(Hoàng Đình Kiên)

(Cái quý nhất của vận chuyển là không theo đuôi người khác).
Sự gặp gỡ của Hồ Chí Minh trong “Nhật ký trong tù” với các bài
thơ Đường Tống chính là sự kế thừa và sáng tạo, sự thăng hoa thành một
kiểu tư duy thẩm mỹ riêng biệt. Chính chất cổ điển kết hợp hiện đại khiến
người ta nhận thấy sự cộng hưởng giữa những tâm hồn với những tâm hồn
đồng thời thể hiện đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật.
Hồ Chí Minh đã từng nói “phải giúp đồng bào ta làm quen với
những từ mà lâu nay họ chưa hiểu, lâu rồi họ xũng dẽ hiểu. Có thể làm
ngơ như vậy được nếu ông chỉ nghĩ viết cho họ một tác phẩm văn học còn
nếu tác phẩm của ông dùng để tuyên truyền thì đó lại là một tác phẩm ai
đọc cũng hiểu được”. Chính bởi điều đó mà ngôn ngữ trong thơ Bác trong
sáng, giản dị tự nhiên mà mạnh mẽ, sắc bén, hào hùng.
Bác thường viết ngắn, hàm súc. Đặc biệt, những điều Bác đề cập
đến đều là những cái giản dị, dễ hiểu, thường trình bày chân lý văn thơ
của Người trước hết là tiếng nói giản dị của chân lý. Nhưng đều tưởng


chừng như vô cùng vĩ đại lại được nói một cách giản dị, vĩ đại trong sự
bình dị.Nhưng bình dị lại chính là bản chất của cái vĩ đại, cái cao cả.
Tuyệt nhiên không được đồng nhất cái giản dị của Bác với cái đơn giản.
Dẫu rằng:
“Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng ngồi trong ngục biết làm gì đây
Ngày dai ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Thơ là để bộc lộ những cảm xúc tự nhiên, chân thật của chính mình;
cách đặt vấn đề giản dị, tự nhiên nhưng tầm vóc khát vọng lại vô cùng lớn
lao. Thơ Bác ít nói tới những hình ảnh sang trọng, cao quý mà thường gắn
với những gì bình dị, hiện thực của đời sống, thậm chí là những gì dung
tục:

“Đầy mình nở tựa như hoa gấm
Sột soạt luôn tay tựa gầy đàn”
Hay là:

Đôi ngựa ngày đi chẳng nghỉ chân
Món gà nằm vị tối thường ăn
Thừa cơ nét, rệp xông vào cắn
Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần”

Ngôn ngữ bình dân, có sự chuyển đổi sắc thái từ sự hài hước chua
chát chuyển sang trữ ình, hóm hỉnh, trẻ trung. Cách hành văn giản dị cả
trong đề tài, có nói phong hoa tuyết nguyệt nhưng cũng không thiếu cả
mắm muối, rận rệp, ghẻ lở. Ngôn ngữ chính là biểu hiện của vẻ đẹp trí
tuệ, đặc biệt là trí tuệ cao sâu. Nó chính là phường tiện đắc lực để thể
hiện tính chiến đấu trong thơ văn của Bác.
“Húi thuốc nơi này cấm gắt gao
Thuốc anh nó tịch, bỏ vào bao
Nó thì kéo tẩu tha hồ hút
Anh hút còng dây tay ghé vào”


Cách cảm thụ trong thơ Bác giản dị nên ngôn từ cũng vô cùng trong
sáng, đơn giản, Ngôn từ sắc bén thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ, song
không phải là cái đánh vỗ mặt bổ bã mà được biểu hiện tinh tế, thâm thúy,
có phần nhã nhặn, chừng mực. Nó thể hiện sự hòa quyện của chất thơ trữ
tình với chất thép trí tuệ. Nói sắc bén là sắc bén của trí tuệ, nói mạnh mẽ
là của văn phong. Thép chính là chất chiến sĩ. Tình chính là chất thơ. Chất
thép chất tình lại được biểu hiện bằng những chất liệu ngôn từ đơn sơ,
bình dị mà trong sáng.
Điều đặc biệt trong phong cách, nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh làm

nên nét độc đáo, riêng biệt trong văn phong của Bác, đó chính là tứ thơ
luôn có sự vận động. Hầu như ở bất cứ bài thơ nào của Bác, người ta đều
gặp sự vận động này. Bác Hồ là bậc thầy trong việc tạo ra những tình
huống bất ngờ. Câu thơ kết trong bài thơ bốn chữ bao giờ cũng giống một
cái roi rất lợi hại, có tác dụng chuyển đổi cảm xúc của bài thơ. Lối yết
hậu cổ điển ấy đôi khi khiến cho tiếng cười được bật ra vô cùng sảng
khoái.
“Thanh Minh mưa bụi mịt mù rơi
Trong ngục tù nhân ruột rối bời
Ướm hỏi tự do đâu có được
Lính canh xa trở cửa quan ngồi”
Ba câu thơ đầu là cảm hứng bi phẫn bởi cảnh thanh minh ảm đạm,
cảnh tù ngục mấ tự do. Nhưng câu nói thì bi phẫn đã chuyển sang trào
phúng. Nó tạo nên sắc thái hài hước hóm hỉnh cho toàn bài thơ. Tưởng
như câu bốn không liên quan gì đến câu ba câu trên nhưng nó đã góp phần
giải tỏa những tâm trạng bi phẫn ở câu trên làm sao có tự do khi đây là
“cửa quan ngồi”. Tiếng nói phê phán hiện thực trở nên mạnh mẽ.
“Sớm dậy người người đua bắt giận
Tám giờ chuông điểm bữa ban mai
Khuyên anh hãy gắng ăn no bụng
Bỉ cực rồi ra ắt thái lai”


Tứ thơ của Hồ Chí Minh luôn luôn có sự vận động tích cực. Nếu
những câu trên thường miêu tả hiện thực trực quan thì câu cuối bao giờ
cũng là sự nâng cánh, hướng tới ánh sáng, tới tương lai, đề cao khát vọng
của con người. Bởi vậy, có sống thì có niềm vui, còn sống thì nỗi khổ, nỗi
buồn sẽ được vơi bớt. Tâm hồn Hồ Chí Minh luôn hướng vào sự sống,
tràn trề niềm tin, nhìn nhận nỗi buồn để chuẩn bị cho niềm vui bắt đầu,
nhìn vào bóng tối để tìm ra ánh sáng. Tứ thơ vận động, thăng hoa chính

trong không gian trong hiện thực tù ngục rất đỗi đau khổ ấy.
“ Đôi ngự ngày đi chẳng nghỉ chân
Món già nấm vi tối thường ăn
Thừa cơ vét, rệp xông vào cắn
Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần”
Sự vận động bất ngờ của tứ thơ được thể hiện qua hình ảnh “Oanh
sớm, mừng nghe hót xóm gần”. Đây chính là lúc một hồn thơ bắt gặp sức
sống. Với Hồ Chí Minh, trong ngục tối, chất sống vẫn cứ tồn tại, vẫn
vươn lên, vẫn cứ xốn xang, rạo rực một tình yêu cuộc đời, cuộc sống đầy
ắp. Ở đó, ta thấy cuộc sống được đặt cao hơn hiện thực. Người nghệ sĩ
qua các sáng tác của mình thể hiện sâu sắc cuộc sống, tức là thước đo
chuẩn mực nhất của hiện thực vật chất, vận chuyển chân chính là vận
chuyển bắt nguồn từ cuộc sống.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Cuộc sống có vất vả, có cực nhọc, đời sống có đen tối, mù mịt thì
con người càng phải vươn tới khát vọng, niềm tin. Tứ thơ vút cao trong
sắc “hồng” đặt ở cuối bài thơ chính là lời ca cao nhất về tình yêu cuộc
sống, khát khao mãnh liệt về tương lai tươi sáng.
Tư tuy nghệ thuật trong “Nhật ký trong tù” mang đậm màu sắc
truyền thống nhưng lại in rõ nét dấu ấn lịch sử, thời đại. người đọc vẫn


nhận ra đó là không gian nhà ngục với một xã hội thu nhỏ cùng những
luật lệ hà khắc. Qua đó, người ta thấy được khát vọng tự do của người
cộng sản muốn thoát khỏi tù ngục để hướng tới cuộc đời mới. Tư duy
nghệ thuật của Bác gắn liền khát vọng đời và cảm quan thời đại.
Cách cảm thụ trong thơ Hồ Chí Minh rất giản dị song nó lại sâu xa

trong nội dung và đầy ý nghĩa thẩm mỹ về mặt nghệ thuật. Để làm được
điều đó, đâu chỉ bởi một “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt
ngàn đời” mà còn khẳng định bàn tay nghệ sĩ tài hoa, uyên bác cùng cái
tâm của một người nghệ sĩ cách mạng lỗi lạc, chân chính. Chính những
điều đó đã đưa người đọc đến những giá trị thẩm mĩ tích cực, bồi đắp tâm
hồn ta trong sự phá vỡ giới hạn của thi cuộc sống cổ điển cả về nội dung
và hình thức.
Nếu nói văn học chính là câu trả lời đầy thẩm Mỹ cho con người thì
“Nhật ký trong Tù” chính là bức họa đồ đẹp nhất về giá trị tư tưởng cũng
như ý nghĩa thẩm mỹ của nó./.



×