Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở cục thuế nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.13 KB, 116 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thuế là nguồn thu chủ yếu, lâu dài là bộ phận quan trọng
nhất của ngân sách nhà nước, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Mục tiêu quan trọng của nước ta là xây
dựng được một hệ thống thuế có hiệu lực và hiệu quả cao. Do có vai
trò rất quan trọng nên các quốc gia đều quan tâm đến thuế và đưa ra
nhiều biện pháp quản lý và thu thuế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra
thuế không những giúp cho hoạt động quản lý thuế đạt được các
mục tiêu đã đề ra mà còn giúp Nhà nước phát hiện những hạn chế
của chính sách, điều chỉnh kịp thời chính sách, chế độ về thuế, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế và góp
phần phòng ngừa, ngăn chặn trình trạng trốn thuế, chống thất thu
thuế.
Từ khi Luật Quản lý thuế ra đời, cơ chế tự khai, tự nộp được
áp dụng thì vai trò của người nộp thuế đã được đề cao hơn. Theo đó,
người nộp thuế tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ
thuế của mình, cơ quan thuế tập trung vào thực hiện các chức năng
tuyên truyền, hỗ trợ kiểm tra, giám sát người nộp thuế. Tuy nhiên,
khi nền kinh tế phát triển, số lượng người nộp thuế tăng lên, cùng
với sự hiểu biết sâu hơn về pháp luật thuế thì khả năng, thủ đoạn
trốn thuế, tránh thuế của người nộp thuế càng tinh vi, phức tạp hơn,
gây khó khăn trong việc phát hiện gian lận, làm giảm hiệu quả thanh
tra, kiểm tra thuế. Thực trạng này đã và đang xảy ra đối với toàn


ngành thuế nói chung và Cục thuế tỉnh Nam Định nói riêng. Vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở Cục thuế Nam Định” có ý
nghĩa thiết thực, mang tính thời sự cấp bách cả về mặt lý luận và
thực tiễn.



2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu thực trạng thanh tra, kiểm tra thuế ở Cục thuế
tỉnh Nam Định hiện nay, từ đó xác định những thành tựu và những
nguyên nhân hạn chế của công tác thanh tra, kiểm tra người nộp
thuế.
Trên cơ sở các nghiên cứu, đề xuất những giải pháp để hoàn
thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra người nộp thuế phù hợp với thực
tiễn quản lý thuế của Cục thuế tỉnh Nam Định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý
thuyết và thực tiễn của việc tổ chức, thực hiện công tác thanh tra,
kiểm tra người nộp thuế ở Cục thuế tỉnh Nam Định trong thời gian
qua.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài đã hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản
về hoạt động thanh tra, kiểm tra người nộp thuế. Trên cơ sở đó chỉ
ra các vấn đề còn tồn tại trong công tác thanh tra, kiểm tra người


nộp thuế ở Cục thuế tỉnh Nam Định hiện nay. Kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn để chỉ ra phương hướng giải quyết các vấn đề đặt ra
trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế hiện nay.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thanh tra, kiểm tra thuế.
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở Cục
thuế tỉnh Nam Định.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thanh tra,
kiểm tra thuế tại Cục thuế tỉnh Nam Định.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA, KIỂM TRA
THUẾ
1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.1 Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế
Theo Luật thanh tra năm 2010, thanh tra được hiểu là “hoạt
động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá
nhân”.


Theo từ điển Tiếng Việt: “thanh tra là kiểm soát, xem xét tại
chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [tr. 882], thanh tra
là “loại hình đặc biệt của kiểm tra” [tr. 19].
Theo Giáo trình Quản lý thuế của Học viện Tài chính thì
thanh tra thuế là “hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm
công tác kiểm tra của cơ quan thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm
phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp luật”. [tr.
437]
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu thanh tra thuế là
hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các
cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện
pháp luật về thuế nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu khuyết điểm,
góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, phòng ngừa và xử lý các
vi phạm pháp luật thuế.
Về khái niệm kiểm tra, theo giáo sư Michel Bouvier, tác giả
cuốn “Nhập môn về Luật thuế đại cương và lý thuyết thuế”, kiểm
tra thuế là “hoạt động nhằm xem xét tính trung thực, tính chính xác

của cơ sở tính thuế mà người nộp thuế đã kê khai” [tr. 153].
Theo từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn,
kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [tr.
523]. Theo từ điển Luật học, kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế
thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn nói chung hay
một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét…” [tr. 265].


Theo Giáo trình Quản lý thuế của Học viện Tài chính, “Kiểm
tra thuế là hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình
thực tế của đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng,
nhiệm vụ yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để có những
nhận xét, đánh giá” [tr. 411].
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu: kiểm tra thuế là
hoạt động xem xét, đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự quản lý trong việc
thực hiện pháp luật về thuế, phí và lệ phí (gọi chung là thuế).
Thanh tra thuế và kiểm tra thuế có những điểm giống nhau
sau:
- Về mục đích: Thanh tra, kiểm tra thuế đều là nội dung quan
trọng của quản lý thuế. Đều có cùng một mục đích phát hiện, ngăn
ngừa, xử lý những vi phạm pháp luật thuế, góp phần thúc đẩy các tổ
chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của pháp luật
thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
- Về chủ thể: Chủ thể thanh tra thuế, kiểm tra thuế là cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, thường là cơ
quan thuế.
- Về đối tượng: Đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế là các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.

- Về nội dung: Thanh tra, kiểm tra thuế là kiểm tra việc chấp
hành pháp luật thuế của người nộp thuế.


- Về phương pháp: Thanh tra, kiểm tra thuế đều phải xem xét
hoạt động thực tế của đối tượng để phát hiện, phân tích, đánh giá
thực trạng đối tượng một cách chính xác, khách quan, làm rõ đúng,
sai, chỉ rõ nguyên nhân để có biện pháp khắc phục, xử lý vi phạm.
Ngoài ra, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ được
thực hiện ở một giai đoạn trong hoạt động quản lý thuế mà nó được
thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quản lý thuế.
1.1.2 Đặc điểm của thanh tra, kiểm tra thuế
Thứ nhất, phạm vi hoạt động của thanh tra, kiểm tra thuế
rộng. Đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế bao gồm mọi tổ chức, cá
nhân trong xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật thuế;
Thứ hai, thanh tra, kiểm tra thuế là công tác rất khó khăn,
phức tạp vì đụng chạm trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các đối
tượng nộp thuế. Để bảo vệ lợi ích vật chất của mình, che giấu các
hành vi trốn thuế, các đối tượng nộp thuế thường tìm mọi biện pháp
cản trở, gây khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan
thuế.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra thuế đòi hỏi cao về năng
lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế.
Người cán bộ thuế ngoài việc phải nắm chắc các luật thuế,
còn phải am hiểu chế độ kế toán, pháp luật thuế, kỹ năng tin học, kỹ
năng đánh giá rủi ro và phải nắm bắt được bản chất các hoạt động
kinh tế của đối tượng thanh tra, kiểm tra mới có thể xác định đúng
nghĩa vụ thuế của đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế. Đồng thời,



người cán bộ thuế phải có bản lĩnh vững vàng, ý thức trách nhiệm
cao vì thường xuyên phải làm việc trong môi trường có sự cám dỗ
về vật chất. Do đó, cơ quan thuế ngoài việc tăng cường lực lượng
thanh tra viên còn phải có kế hoạch xây dựng các chương trình đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng đòi hỏi của hoạt động
thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực hiện đổi mới quản lý
thuế.
Thứ tư, hoạt động thanh tra, kiểm tra được thực hiện theo
một quy trình cụ thể.
Quy trình hóa hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế được hiểu là
việc xây dựng và chuẩn hóa trình tự thực hiện các bước công việc
trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế và trách nhiệm thực hiện
các bước công việc đó của từng bộ phận, từng cán bộ tham gia quy
trình.
Quy trình hóa hoạt động thanh tra, kiểm tra là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của cơ quan thuế nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra, đáp ứng những yêu cầu
trong điều kiện thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp nói riêng và thực
hiện đổi mới quản lý thuế nói chung.
1.1.3 Mục tiêu của thanh tra, kiểm tra thuế
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nhằm giúp người nộp thuế
và cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về
công tác quản lý thu ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị của ngành.


Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm đánh giá
việc chấp hành các luật thuế của người nộp thuế nhằm phát huy
nhân tố tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực.
Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả thanh tra, kiểm tra,

cơ quan thuế các cấp có thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện,
đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế, đảm bảo công bằng trong việc
thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các quy trình quản lý
thu thuế ngày càng hợp lý hơn.
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm hướng
dẫn, giúp đỡ người nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của
đơn vị khi thực hiện luật thuế.
1.1.4 Nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế
Nguyên tắc thanh tra, kiểm tra là tập hợp các quy tắc chỉ đạo,
những tiêu chuẩn hành động mà các cơ quan quản lý nhà nước, các
tổ chức thanh tra, cán bộ ,thanh tra viên phải tuân theo trong quá
trình hoạt đông thanh tra, kiểm tra.
Các nguyên tắc hoạt động thanh tra, kiểm tra chỉ đạo và chi
phối mối quan hệ trong thanh tra, kiểm tra nhằm đảm bảo cho hoạt
động thanh tra, kiểm tra đạt được mục đích đề ra.
Mục tiêu của thanh tra, kiểm tra thuế là phát huy nhân tố tích
cực, ngăn ngừa, xử lý những sai phạm gây tổn thất tời lợi ích của
Nhà nước, của nhân dân, của các doanh nghiệp góp phần hoàn thiện
chính sách thuế, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.


Để đạt được mục tiêu đã đề ra thì hoạt động thanh tra, kiểm
tra thuế cấn tuân thủ những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan, cán bộ công chức thanh tra,
kiểm tra thuế phải thực hiện đúng chức năng, trách nhiệm, quyền
hạn mà pháp luật quy định; phải căn cứ vào các quy định của pháp
luật để kết luận, kiến nghị những vấn đề thanh tra, kiểm tra, không
chịu tác động của bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về kết luận và kiến nghị của mình.

Đây là nguyên tắc cần thiết để đề cao trách nhiệm của chủ thể
thanh tra, kiểm tra; nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm
tra thuế; ngăn ngừa tình trạng làm trái pháp luật, vô hiệu hóa hoạt
động thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ hai, nguyên tắc trung thực, chính xác, khách quan.
Nguyên tắc trung thực đòi hỏi hoạt động thanh tra, kiểm tra
thuế phải tuân thủ các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp, phản ánh
đúng thực tế sự việc, không thiện lệch, bóp méo sự việc dẫn đến kết
luận không đúng thực tế.
Nguyên tắc chính xác đòi hỏi chủ thể thanh tra, kiểm tra phải
nhận thức đúng vấn đề, nội dung thanh tra, kiểm tra; xác định, đánh
giá chính xác bản chất của sự việc để kết luận, giúp cho việc xử lý
sai phạm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tính chính xác đảm
bảo cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế đạt hiệu quả cao.


Nguyên tắc khách quan yêu cầu chủ thể thanh tra, kiểm tra
thuế phải phản ánh đúng sự vật, hiện tượng vốn có, tôn trọng sự
thật. Tính khách quan và chính xác có mối quan hệ tác động qua lại.
Tính khách quan tạo tiền đề cho việc kết luận chính xác và kết luận
thanh tra, kiểm tra có chính xác mới thể hiện được tính khách quan
của hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Thứ ba, nguyên tắc công khai, dân chủ.
Tính công khai trong thanh tra, kiểm tra thuế thể hiện ở việc
chủ thể thanh tra, kiểm tra thuế phải thông báo đầy đủ, công khai từ
nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra, kiểm tra, tiếp xúc công
khai với các đối tượng liên quan và công bố công khai kết luận
thanh tra, kiểm tra. Việc công khai hoạt động thanh tra, kiểm tra
nhằm nâng cao tính khách quan, hạn chế những tiêu cực phát sinh.
Tuy nhiên, tùy từng trường hợp cần có phạm vi, hình thức công khai

phù hợp để đảm bảo giữ gìn bí mật quốc gia, bí mật người tố cáo,
đảm bảo lợi ích của Nhà nước và công dân, đảm bảo hiệu quả thanh
tra, kiểm tra cao nhất.
Dân chủ trong hoạt động thanh tra, kiểm tra là thể hiện sự tôn
trọng khách quan, tôn trọng quần chúng, lấy dân làm gốc. Dân chủ
trong hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm lôi cuốn sự tham gia đông
đảo của quần chúng nhân dân, sử dụng quần chúng như là tai mắt
của lực lượng thanh tra, kiểm tra. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi
phải coi trọng việc tiếp nhận, thu thập ý kiến của đối tượng có liên


quan, tạo điều kiện cho đối tượng thanh tra, kiểm tra được trình bày
ý kiến của mình.
Thứ tư, không làm cản trở hoạt động bình thường của đối
tượng thanh tra, kiểm tra.
Việc cơ quan chức năng tổ chức tiến hành thanh tra, kiểm tra
tại cơ sở kinh doanh là cần thiết nhưng ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt
động của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Mặt khác, do việc phân
cấp quản lý còn chồng chéo nên một đối tượng có thể được nhiều
ngành cùng quản lý, do đó có thể phát sinh nhiều đoàn thanh tra,
kiểm tra cùng thời điểm hoặc trong thời gian ngắn.
Nguyên tắc này nhằm hạn chế tối đa những cuộc thanh tra,
kiểm tra chồng chéo của các cơ quan quản lý, đảm bảo quyền hoạt
động bình thường của đối tượng thanh tra, kiểm tra, đảm bảo cùng
một nội dung, trong một năm đối tượng chỉ bị thanh tra, kiểm tra
một lần.
Thứ năm, nguyên tắc bảo vệ bí mật.
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, người làm công tác này
tiếp cận với nhiều vấn đề, nhiều tài liệu liên quan đến bí mật, bí
quyết kinh doanh của doanh nghiệp, bí mật quốc gia. Nếu để lộ cho

những đối tượng không được phép biết sẽ làm thiệt hại lợi ích của
quốc gia và doanh nghiệp. Họ chỉ được báo cáo cho những người có
thẩm quyền được biết. Do đó, cần quán triệt nguyên tắc này trong
thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ sáu, nguyên tắc hiệu quả.


Trong lĩnh vực thuế, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra
không chỉ xét đơn thuần theo giá trị bằng tiền mà còn thể hiện thông
qua hiệu quả thực hiện các chính sách thuế, phát huy các tác dụng
vốn có của mỗi loại thuế đối với sản xuất và đời sống xã hội, phục
vụ công tác quản lý người nộp thuế. Hiệu quả công tác thanh tra,
kiểm tra phải được xem xét trên góc độ hiệu quả kinh tế, hiệu quả
xã hội và hiệu quả chính trị.
Hiệu quả kinh tế: Chi phí thanh tra, kiểm tra là tối thiểu,
không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của đối tượng
thanh tra, kiểm tra, khai thác đầy đủ các khoản thu vào ngân sách
nhà nước.
Hiệu quả xã hội: Đề phòng ngăn ngừa những thiếu sót, vi
phạm, đảm bảo giúp các đối tượng thanh tra, kiểm tra thực hiện
đúng chính sách thuế, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng xã
hội.
Hiệu quả chính trị: Nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về
thuế, phát hiện những nội dung không phù hợp trong các văn bản
pháp luật về thuế, kiến nghị cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung kịp
thời để không ngừng hoàn thiện chính sách thuế.
1.2. Hình thức, nội dung, quy trình thanh tra, kiểm tra thuế
1.2.1. Các hình thức thanh tra, kiểm tra thuế
- Theo tính kế hoạch: Nếu xét theo tính kế hoạch, hoạt động
thanh tra, kiểm tra thuế có hai hình thức là thanh tra, kiểm tra theo

kế hoạch và thanh tra, kiểm tra đột xuất.


+ Thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch được tiến hành theo kế
hoạch đã được duyệt. Căn cứ vào nguồn lực hiện có, tình hình chấp
hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế, cơ quan
thuế xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra, trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã được
duyệt.
+ Thanh tra, kiểm tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện
cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, theo
yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền giao.
- Theo nội dung và phạm vi thanh tra, kiểm tra thuế: Theo
tiêu thức này, thanh tra, kiểm tra thuế được chia thành hai loại là
thanh tra, kiểm tra toàn diện và thanh tra, kiểm tra bộ phận.
+ Thanh tra, kiểm tra toàn diện: Với hình thức này, cơ quan
chức năng tiến hành thanh tra, kiểm tra toàn bộ công tác quản lý thu
của một cơ quan thuế hoặc toàn bộ quá trình kê khai, nộp thuế với
tất cả các sắc thuế của một người nộp thuế.
+ Thanh tra, kiểm tra bộ phận: Hình thức này thường được áp
dụng khi thanh tra, kiểm tra một hoặc một vài sắc thuế; một hoặc
một số kỳ tính thuế hoặc một vài quy trình quản lý thuế.
- Theo địa điểm tiến hành thanh tra, kiểm tra:
+ Thanh tra, kiểm tra tại cơ quan thuế: Với hình thức thanh
tra, kiểm tra này, cơ quan thuế không đến làm việc tại cơ sở kinh


doanh mà tiến hành kiểm tra các hồ sơ liên quan đến việc xác định
nghĩa vụ thuế của cơ sở kinh doanh tại cơ quan thuế.

+ Thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế: Tại trụ sở
người nộp thuế, cán bộ thanh tra, kiểm tra thực hiện việc thanh tra,
kiểm tra các nội dung theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Nội dung thanh tra, kiểm tra thuế
Căn cứ kế hoạch thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế thực hiện
quá trình tập hợp và phân tích rủi ro các thông tin nhằm kiểm tra
tính xác thực đối với hồ sơ khai thuế, báo cáo tài chính, các nghi
vấn cần người nộp thuế cung cấp thêm thông tin (thông tin chung về
doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh, hạch toán, liên doanh
liên kết, đối tác kinh doanh, hợp đồng mua bán, tăng giảm tài sản,
công nợ người mua, người bán…)
Việc kiểm tra, đối chiếu số liệu tổng hợp tại trụ sở người nộp
thuế được thực hiện tùy theo phạm vi, quy mô, nội dung cuộc thanh
tra, kiểm tra. Các nội dung kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế bao
gồm:
Thứ nhất, kiểm tra việc chấp hành những quy định về đăng
ký thuế.
Đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế là quyền và nghĩa vụ
của người nộp thuế. Mục tiêu của việc kê khai, đăng ký thuế nhằm
giúp cho cơ quan quản lý thuế quản lý chặt chẽ người nộp thuế ngay
từ khi bắt đầu hoạt động, quản lý hồ sơ người nộp thuế để lưu trữ,
tra cứu, kiểm tra khi cần thiết.


Căn cứ vào số liệu tổng hợp về đăng ký kinh doanh, đăng ký
kê khai, nộp thuế, cơ quan thuế phối hợp với các ngành có liên quan
để chuẩn bị điều kiện vật chất phục vụ tốt công tác quản lý đối với
cơ sở kinh doanh theo đúng luật thuế, xác định những đối tượng còn
sót chưa đăng ký kinh doanh hoặc chưa đăng ký thuế.
Nội dung kiểm tra thuế là xem xét trên từng địa bàn, trong

từng loại ngành nghề có bao nhiêu đơn vị thực tế có hoạt động kinh
doanh, số lượng đơn vị đăng ký và chưa kê khai đăng ký thuế, cơ sở
kinh doanh đã đăng ký có làm đúng những quy định về đăng ký
kinh doanh, đăng ký thuế không.
Đối với mỗi cơ sở kinh doanh khi kiểm tra cần xem xét tính
pháp lý của đăng ký thuế, kiểm tra tính trung thực của các tài liệu,
số liệu kê khai trong đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế về vốn,
địa điểm, ngành nghề kinh doanh, thời gian thực tế kinh doanh…
nhằm phát hiện và xử lý những gian lận trong kê khai đăng ký thuế.
Thứ hai, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán,
hóa đơn, chứng từ.
Việc thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ có liên
quan mật thiết đến việc tính thuế, nộp thuế và công tác quản lý Nhà
nước. Nội dung thanh tra, kiểm tra này bao gồm: thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện Luật kế toán của các cơ sở kinh doanh, việc lập và sử
dụng hóa đơn, chứng từ có liên quan đến việc tính thuế. Nội dung
của kiểm tra chứng từ, hóa đơn là kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý,


trung thực của từng loại chứng từ hóa đơn có liên quan như: hóa
đơn bán hàng, phiếu xuất kho, chứng từ thu chi…
Qua đó đảm bảo việc tính thuế chính xác, ngăn chặn kịp thời
việc hạch toán sai để trốn lậu thuế. Vì vậy, nội dung tranh tra, kiểm
tra này cần được tiến hành thường xuyên, đây là nội dung thanh tra,
kiểm tra phức tạp nhất, tốn nhiều thời gian, công sức nhất.
Thứ ba, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện kê khai thuế, tính
thuế và nộp thuế.
Kê khai, tính thuế, nộp thuế là nghĩa vụ của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh. Nội dung thanh tra, kiểm tra
này gồm:

+ Kiểm tra để xác định đúng đối tượng chịu thuế, đối tượng
nộp thuế là yêu cầu bắt buộc phải làm trước khi xác định mức thuế
phải nộp. Trong thực tế, nhiều hoạt động kinh doanh phức tạp phải
kiểm tra để xác định đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế đúng
với quy định của từng sắc thuế nhằm tránh bỏ sót nguồn thu.
+ Kiểm tra căn cứ tính thuế trên cơ sở kiểm tra sổ sách kế
toán, chứng từ, hóa đơn và các tài liệu có liên quan nhằm xác định
đúng số thuế phải nộp, số thuế đã nộp, số thuế được miễn giảm, số
thuế được hoàn trong kỳ của đơn vị. Đối chiếu số liệu trên các tờ
khai, bảng kê, quyết toán thuế đơn vị đã kê khai với số liệu thanh
tra, kiểm tra trên sổ sách kế toán và tình hình thực tế của đơn vị để
phát hiện số thuế đơn vị kê khai thiếu, số thuế ẩn lậu. Đây là khâu
quan trọng trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế đòi hỏi cán bộ


thuế phải nắm vững nội dung của các luật thuế, các văn bản hướng
dẫn thực hiện và đặc biệt phải thông thạo nghiệp vụ kế toán.
+ Kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của đơn vị để
xác định cơ sở kinh doanh có thực hiện nghiêm túc quy định về thời
hạn nộp thuế của các luật thuế không, có dây dưa nộp chậm tiền
thuế để chiếm dụng ngân sách nhà nước không, có nợ đọng thuế
không. Đặc biệt chú trọng đến những cơ sở có biểu hiện vi phạm
nhiều lần, với số lượng lớn nhằm giảm thiểu khả năng thất thoát tiền
thuế của nhà nước. Để đạt được yêu cầu trên, cần đối chiếu thời hạn
nộp thuế theo quy định của luật thuế với thời gian nộp thuế của cơ
sở kinh doanh qua các chứng từ nộp thuế như giấy nộp tiền vào kho
bạc, biên lai thuế.
Như vậy, thanh tra, kiểm tra người nộp thuế là công việc
mang tính tổng hợp cao, đòi hỏi cán bộ thanh tra, kiểm tra phải nắm
vững các văn bản pháp luật thuế, thông thạo nghiệp vụ kế toán, hiểu

biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác.
1.2.3. Quy trình thanh tra, kiểm tra thuế
Quy trình thanh tra, kiểm tra thuế là các trình tự và bước
công việc cụ thể bắt buộc phải tuân thủ khi thực hiện một quyết
định thanh tra, kiểm tra thuế, một chương trình thanh tra, kiểm tra
hay một kế hoạch thanh tra, kiểm tra cụ thể. Ngoài công tác lập kế
hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm và công tác báo cáo thực hiện
kết quả thanh tra, kiểm tra thì thanh tra, kiểm tra bao gồm một loạt


các bước logic với nhau từ lúc cán bộ thanh tra, kiểm tra nhận hồ sơ
cho đến khi hoàn thành.
Các bước tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế như sau:
Bước 1: Cán bộ thanh tra, kiểm tra nhận hồ sơ khai thuế;
Bước 2: Kiểm tra hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế;
Bước 3: Liên hệ với người nộp thuế: người đại diện, kế toán
viên;
Bước 4: Thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế: tình
hình sản xuất, kinh doanh; tham quan cơ sở kinh doanh; xem xét sổ
sách, chứng tứ;
Bước 5: Áp dụng những kỹ thuật thanh tra, kiểm tra để xác
định những sai sót, hành vi gian lận;
Bước 6: Lập biên bản, kết luận; kiến nghị với người nộp thuế,
với cơ quan thuế, ra quyết định xử lý đối với trường hợp có hành vi
sai phạm;
Bước 7: Lập báo cáo thanh tra, kiểm tra và các báo cáo khác;
Bước 8: Đóng hồ sơ.
1.3. Thanh tra, kiểm tra thuế trong cơ chế tự khai, tự nộp
1.3.1. Khái niệm cơ chế tự khai, tự nộp thuế
Tự kê khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế, trong đó

người nộp thuế căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, các quy
định của pháp luật về thuế để tự kê khai, tự tính toán số thuế phải
nộp và tự nộp thuế cho Nhà nước theo đúng thời hạn quy định của
pháp luật.


Cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp
thuế của người nộp thuế, trừ khi phát hiện ra các sai sót, vi phạm
hoặc các dấu hiệu không chấp hành luật thuế. Trong cơ chế này, cơ
quan thuế có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người
nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế; giám sát chặt
chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế và thông qua công tác thanh tra,
kiểm tra để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian
lận, trốn thuế của người nộp thuế.
1.3.2. Mục tiêu của cơ chế tự khai, tự nộp
Mục tiêu của cơ chế tự khai, tự nộp thuế là phát huy tính tự
giác, tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế. Trong hệ thống này,
trách nhiệm pháp lý về kê khai, tính thuế được chuyển sang người
nộp thuế. Do vậy, phương thức quản lý này đã giảm bớt yêu cầu về
nguồn nhân lực của cơ quan thuế thông qua việc giải phóng cơ quan
thuế khỏi công việc kiểm tra tờ khai và ra thông báo thuế. Cơ quan
thuế sẽ tập trung vào trợ giúp người nộp thuế, thanh tra, kiểm tra,
giải quyết các trường hợp người nộp thuế không tuân thủ đúng
nghĩa vụ nộp thuế. Việc áp dụng hệ thống tự khai, tự nộp thuế giúp
cơ quan thuế nâng cao tính hiệu quả của công tác quản lý thuế.
1.3.3. Chức năng thanh tra, kiểm tra thuế trong cơ chế tự khai, tự
nộp
Chức năng thanh tra, kiểm tra thuế là nhiệm vụ trọng tâm của
ngành thuế trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Chỉ khi người nộp
thuế nhận thức được cơ quan thuế đang thực hiện các chương trình



thanh tra thuế hiệu quả, nếu gian lận về thuế, người nộp thuế sẽ bị
cơ quan thuế phát hiện và xử phạt nghiêm khắc, người nộp thuế sẽ
tự giác thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình. Trong cơ chế tự
khai, tự nộp thuế, công tác thanh tra không chỉ để tăng số thu thuế
mà mục tiêu chính là ngăn ngừa, răn đe người nộp thuế khi vi phạm
pháp luật thuế.
Theo chức năng này, cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm
tra trên cơ sở thu thập được thông tin cần thiết về người nộp thuế (từ
tờ khai, báo cáo tài chính và thông tin từ các nguồn khác) để phân
tích, đánh giá, xác định theo các tiêu chí đánh giá rủi ro, dự báo
những vấn đề nghi ngờ có gian lận trốn thuế, nhằm lựa chọn các
trường hợp thanh tra, kiểm tra, chuẩn bị nội dung, cách thức kiểm
tra, thanh tra phù hợp.
Các thông tin nêu trên được tập hợp thành hồ sơ tổng hợp về
người nộp thuế, được cơ quan thuế quản lý tập trung tại trung ương
và có thể phục vụ cho công việc chia sẻ, khai thác thông tin về
người nộp thuế trên phạm vi cả nước.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thanh tra, kiểm tra
thuế trong cơ chế tự khai, tự nộp hiện nay
1.3.4.1. Điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí
Xu thế thu nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tời toàn
cầu hóa kinh tế là tất yếu khách quan. Theo đó hội nhập kinh tế
quốc tế về thuế ngày càng sâu rộng, nhằm khuyến khích đầu tư, tự
do hóa thương mại trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống pháp


luật sẽ dần được hoàn thiện, xây dựng hệ thống chính sách thuế
tương thích, công tác quản lý thuế phải được cải cách và hiện đại

hóa theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế, cơ sở trang thiết bị
vật chất kỹ thuật ngày càng được hiện đại hóa và số lượng người
nộp thuế không ngừng tăng lên nhanh chóng… Tất cả những biến
đổi trên đều tác động lớn tới hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra
thuế.
Hệ thống pháp luật thuế đồng bộ, hoàn thiện, phù hợp với
tình hình kinh tế xã hội của đất nước sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng
để hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đi vào khuôn khổ, đồng thời
nó cũng giúp cho người nộp thuế hiểu và nghiêm túc thực hiện theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, đầu tư trang bị cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại cũng hỗ trợ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế được
tiến hành thuận lợi, có tính chính xác và hiệu quả cao hơn.
Cùng với sự gia tăng về số lượng người nộp thuế sẽ là sự đa
dạng hóa các loại hình doanh nghiệp và các hình thức kinh doanh,
kèm theo đó là sự phức tạp, tinh vi hơn về thủ đoạn trốn, tránh, gian
lận thuế của người nộp thuế, gây khó khăn trong việc phát hiện và
xử lý kịp thời các vụ gian lận, ẩn lậu thuế, gây thất thu cho Ngân
sách nhà nước. Do đó, số lượng người nộp thuế ngày càng tăng sẽ là
một thách thức không nhỏ đối với công tác thanh tra, kiểm tra.
Xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí được nâng cao,
sự hiểu biết về pháp luật thuế cũng như ý thức tự tuân thủ của người
nộp thuế ngày càng được cải thiện, bởi họ hiểu rõ quyền lợi và trách


nhiệm của mình khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, cũng vì sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật thuế mà khả
năng, thủ đoạn trốn, tránh thuế của người nộp thuế ngày càng tinh
vi, phức tạp hơn, gây khó khăn cho cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế
trong việc phát hiện ra các gian lận, giảm hiệu quả thanh tra, kiểm
tra thuế.

1.3.4.2. Mô hình quản lý thuế
Quản lý thuế là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ quan
thuế là đại diện, thông qua việc tổ chức, điều hành bộ máy ngành
thuế, thực hiện hệ thống chính sách pháp luật thuế và hệ thống các
quy trình quản lý thu để động viên một phần thu nhập từ lao động,
của cải, vốn, từ việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ và từ việc lưu giữ,
chuyển dịch tài sản của các thể nhân và pháp nhân vào Ngân sách
nhà nước nhằm trang trải cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Quản lý thuế được thực hiện theo những mô hình quản lý
nhất định. Mỗi mô hình có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
- Mô hình quản lý theo sắc thuế
Đây là mô hình được tổ chức sớm nhất trong hoạt động quản
lý thuế, được áp dụng trên nguyên tắc “sắc thuế”. Theo mô hình
này, cơ quan thuế được tổ chức thành các bộ phận (phòng, ban)
riêng biệt để chuyên trách quản lý một sắc thuế cụ thể. Mỗi phòng,
ban thực hiện tất cả các chức năng, các nghiệp vụ để quản lý thu đối
với một hoặc một vài sắc thuế. Mô hình quản lý theo sắc thuế áp


dụng có hiệu quả ở cơ quan thuế Trung ương do nhiệm vụ của cơ
quan này là nghiên cứu, ban hành chính sách, chế độ thu.
Mô hình này có tính chuyên môn hóa theo sắc thuế cao nên
nó phát huy hiệu quả cao nhất trong trường hợp thanh tra, kiểm tra
một sắc thuế nhưng đối với thanh tra, kiểm tra một doanh nghiệp
nộp nhiều loại thuế khác nhau lại xảy ra hiện tượng chồng chéo về
chức năng giữa các phòng, ban. Vì phòng quản lý theo sắc thuế có
chức năng thanh tra, kiểm tra đối với người nộp thuế có phát sinh
sắc thuế do phòng quản lý. Chức năng thanh tra, kiểm tra nằm ở tất
cả các phòng trong hệ thống quản lý thuế cấp cơ sở. Mặt khác, ở

phòng, ban nào cũng có các bộ phận nghiệp vu thực hiện các công
việc như nhau, dẫn đến biên chế quản lý lớn, làm chi phí quản lý
tăng lên… Trong khi rủi ro thất thu thuế vẫn cao do các chức năng,
nghiệp vụ quản lý thuế được khép kín, độc lập trong một phòng, ban
riêng biệt, không có sự liên kết nào giữa các phòng, ban nên hiện
tượng thông đồng để trốn thuế giữa doanh nghiệp và cán bộ thanh
tra, kiểm tra thuế khó phát hiện. Ngoài ra, trình độ chuyên môn của
cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế không được toàn diện do kỹ năng
của họ là một sắc thuế. Do vậy, hiệu quả của công tác thanh tra,
kiểm tra thuế không cao.
- Mô hình quản lý theo chức năng
Theo mô hình này, bộ máy quản lý thuế được tổ chức theo
các nhóm chức năng, mỗi bộ phận thực hiện một công việc nghiệp
vụ cụ thể có liên quan đến tất cả các sắc thuế như: Đăng ký thuế, Xử


lý tờ khai thuế và Kế toán thuế, Thanh tra, kiểm tra thuế, thu nợ…
Bộ phận thanh tra, kiểm tra được tổ chức theo mô hình chuyên môn
hóa cao. Mỗi phòng, tổ thanh tra, kiểm tra thực hiện một chức năng
riêng biệt, chỉ thực hiện một chức năng cụ thể của hoạt động thanh
tra, kiểm tra. Mô hình này đòi hỏi cán bộ thanh tra, kiểm tra ngoài
việc hiểu sâu chính sách thuế, chế độ kế toán còn phải có kỹ năng
về tin học, kỹ năng sắp xếp, phân loại dữ liệu, phân tích đánh giá rủi
ro, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cập nhật kịp thời các tiêu chí lựa
chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế.
Mô hình này thích ứng với mọi sự thay đổi về người nộp
thuế và tạo ra sự kiểm tra chéo giữa các cán bộ thuể ở các bộ phận
khác nhau, hạn chế tiêu cực nên giảm nguy cơ gian lận thuế, thất thu
thuế bởi bất kỳ sự thông đồng nào giữa người nộp thuế và cán bộ
thuế. Đồng thời khắc phục được sự trùng lắp về chức năng thanh

tra, kiểm tra giữa các phòng ban theo mô hình quản lý thu theo sắc
thuế và góp phần nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán
bộ thanh tra, kiểm tra thuế. Tuy nhiên, theo mô hình này, thông tin
về người nộp thuế bị phân tán nên khi cần thông tin đầy đủ về người
nộp thuế để tiến hành thanh tra, kiểm tra phải mất nhiều thời gian để
tổng hợp thông tin từ các phòng chức năng khác nhau làm ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả thanh tra, kiểm tra.
- Mô hình quản lý theo người nộp thuế
Đây là mô hình đang được áp dụng tại một số nước phát
triển. Theo mô hình này, người nộp thuế được phân loại để quản lý


theo nhóm trên cơ sở đặc điểm và mức độ tuân thủ pháp luật thuế.
Mỗi phòng, ban trong cơ quan thuế sẽ chịu trách nhiệm quản lý một
hoặc một vài nhóm đối tượng cụ thể.
Do có sự chuyên môn hóa theo đối tượng, kết hợp với
chuyên môn hóa theo sắc thuế nên thông tin về người nộp thuế được
tập trung khá đầy đủ tại các phòng, ban tương ứng và trình độ, năng
lực của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế tương đối phù hợp với yêu
cầu quản lý, nâng cao được hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra
người nộp thuế. Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi phải có một đội ngũ
cán bộ thanh tra, kiểm tra có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao vì
họ phải tiếp xúc và xử lý các vấn đề có liên quan đến tất cả các sắc
thuế của người nộp thuế. Ngoài ra, mô hình còn có nhược điểm là
người nộp thuế chịu sự quản lý của một phòng, ban cụ thể nên vẫn
có khả năng xảy ra tiêu cực trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế.
Cán bộ thuế do phải thực hiện công tác quản lý thuế, nếu
thực hiện thanh tra, kiểm tra tại cơ sở người nộp thuế sẽ không đảm
bảo thời gian và hiệu quả của công tác quản lý khác. Đối với phòng
thanh tra phải kiêm nhiệm các chức năng: thanh tra người nộp thuế,

thanh tra nội bộ, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phối hợp, cộng tác với
các ban ngành như Công an, hải quan, quản lý thị trường, dẫn đến
công tác thanh tra, kiểm tra chưa được chuyên môn hóa cao.
Trên cơ sở các mô hình quản lý thuế cơ bản này, mỗi quốc
gia sẽ lựa chọn mô hình quản lý thuế phù hợp theo đặc điểm chính
trị - kinh tê – xã hội và trình độ quản lý của mình, có thể là một


×