ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------
PHẠM ĐỨC NGHĨA
NGUYÊN TẮC ỨNG XỬ NGOẠI GIAO CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG VIỆC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
LÃNH THỔ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------
PHẠM ĐỨC NGHĨA
NGUYÊN TẮC ỨNG XỬ NGOẠI GIAO CỦA HỒ CHÍ
MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG VIỆC BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN LÃNH THỔ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số : 60 31 27
Người hướng dẫn: PGS. TS Trần Minh Trƣởng
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Trần Minh Trưởng
Hà Nội, ngày….. tháng…..năm 2015
Tác giả luận văn
Phạm Đức Nghĩa
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô trong Khoa Khoa
học Chính trị Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Hà Nội, gia đình và bạn bè – những ngƣời luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS Trần Minh
Trƣởng, ngƣời Thầy đã nhiệt tình định hƣớng và chỉ bảo tôi trong quá trình hoàn
thành đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2014
Học viên
Phạm Đức Nghĩa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 6
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 7
Chƣơng 1.NHỮNG NGUYÊN TẮC ỨNG XỬ NGOẠI GIAO CỦA HỒ CHÍ
MINH .............................................................................................................................. 8
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của ngoại giao trong việc bảo vệ độc
lập, chủ quyền dân tộc ................................................................................................. 8
1.2. Những nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh ................................... 26
1.2.1.1. Nguyên tắc đặt lợi ích chân chính của dân tộc, của nhân dân lên trên hết 24
1.2.1.2. Những nguyên tắc ứng xử mềm dẻo, linh hoạt và có sách lược ................. 26
1.2.2.3. Nguyên tắc đề cao đàm phán hòa bình, tránh xung đột vũ trang ............. 269
1.2.2.4. Nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ ...................... 326
1.2.2.5. Nguyên tắc ứng xử ngoại giao phải thể hiện quan điểm độc lập, chủ động,
không trông chờ, ỷ lại, không phụ thuộc bên ngoài................................................. 35
1.2.2.6. Nguyên tắc ứng xử tôn trọng luật pháp và thông lệ quốc tế........................ 38
1.2.2.7. Nguyên tắc ứng xử bình đẳng, cùng có lợi trong quan hệ ngoại giao. ....... 40
Chƣơng 2.VẬN DỤNG NHỮNG NGUYÊN TẮC ỨNG XỬ NGOẠI GIAO
CỦAHỒ CHÍ MINH ĐỂ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............................................................................. 45
2.1. Tình hình thế giới và trong nước tác động tới hoạt động ngoại giao bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam hiện nay. ..................................................................... 45
2.2. Vận dụng nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh để bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ............................................................. 55
2.2.1. Đối với các nước láng giềng có chung biên giới đất liền ............................... 55
2.2.2. Ứng xử đối với các nước tranh chấp, xâm phạm chủ quyền biển, đảo Việt
Nam hiện nay ............................................................................................................. 64
2.2.3. Ứng xử đối với các cường quốc trên thế giới ................................................. 69
2.2.4. Đối với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài ........................................................ 82
2.2.5. Đối với dư luận và các lực lượng dân chủ tiến bộ trên thế giới ..................... 85
2.3. Một số bài học kinh nghiệm trong trong ứng xử ngoại giao nhằm bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ Việt Nam hiện nay. ........................................................................... 87
2.3.1. Ngoại giao và đàm phán về chủ quyền lãnh thổ phải có nguyên tắc song cũng
phải linh hoạt, mềm dẻo ............................................................................................ 87
2.3.2. Phối hợp chặt chẽ giữa các mặt trận chính trị, kinh tế, quốc phòng, ngoại
giao, trong đó ngoại giao phải là một vũ khí tiến công để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
hiện nay...................................................................................................................... 88
2.3.3. Ngoại giao phải biết đánh giá đúng tình hình trong nước và quốc tế, đánh giá
đúng mục đích và động cơ của đối tác để đưa ra những ứng xử kịp thời đúng đắn,
đồng thời phải biết tranh thủ và chớp lấy thời cơ. ................................................... 90
2.3.4. Xây dựng đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tăng cường đoàn kết mở rộng
hợp tác quốc tế, phát huy tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung ......................... 92
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 94
KHUYẾN NGHỊ .......................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 97
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội lần VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1991) đã khẳng định:
“Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam hành động của toàn Đảng”. Đảng ta đã nhận thức được
những giá trị có ý nghĩa chiến lược, đúng đắn và phù hợp với thực tế cách
mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, trước yêu cầu của
tình hình mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội Chủ nghĩa trong xu thế toàn
cầu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, các mối quan hệ ngoại giao giữa các
quốc gia – dân tộc và vùng lãnh thổ ngày càng gia tăng; hoạt động ngoại giao,
hội nhập và mở cửa không chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
mà còn tạo ra thế và lực góp phần quan trọng trong việc bảo vệ toàn vẹn chủ
quyền lãnh thổ của đất nước. Thực tế đã cho thấy những luận điểm trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh về ngoại giao được Đảng ta vận dụng trong quan hệ
quốc tế hiện nay đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ càng chứng tỏ tính đúng
đắn trong tư tưởng ngoại giao của Người. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định
tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thực sự là kho tàng lý luận, là cẩm nang cho
hoạt động ngoại giao và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay, trước xu thế quốc tế hóa nền kinh tế xã hội
thế giới, các mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển đa dạng và phong phú,
mang nhiều sắc thái và nội dung mới. Giao lưu và hội nhập quốc tế vừa là
thời cơ, vừa là thách thức đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ
chính trị, giàu - nghèo, mạnh – yếu. Đối với Việt Nam, một nước nhỏ, tiềm
lực kinh tế và khoa học kĩ thuật còn thấp kém, muốn rút ngắn khoảng cách tụt
hậu so với thế giới để phát triển kinh tế xã hội của đất nước đòi hỏi phải phát
huy mạnh mẽ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp giữa sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của thời đại. Do vậy, Đảng ta xác định một trong những
định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta là “mở cửa và
hội nhập”, đẩy mạnh việc quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trong cộng
1
đồng quốc tế, với phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” các mối quan
hệ quốc tế. Trước bối cảnh hội nhập đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải có
những chính sách, chiến lược, phương pháp ngoại giao phù hợp với tình hình
mới để vừa có thể khẳng định được vị thế quốc gia trên trường quốc tế, vừa
ổn định được tình hình kinh tế - chính trị, tránh được sự thiệt thòi bất bình
đẳng trong các mối quan hệ quốc tế.
Đặc biệt, vấn đề “Biển Đông” và “Chủ quyền biển, đảo” hiện nay đã và
đang diễn ra trong bối cảnh ngày càng phức tạp và căng thẳng. Trung Quốc đã
tuyên bố chủ quyền của mình với quần đảo Hoàng sa của Việt Nam, không
những thế từ ngày 02/5/2014 đến 16/7/2014 Trung Quốc ngang nhiên bất
chấp luật pháp quốc tế đã đặt giàn khoan Hải dương 981 trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam...điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Đảng và
Nhà nước ta phải có phương pháp ứng xử ngoại giao đúng đắn để bảo vệ
vững chắc chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc nói chung và chủ quyền biển đảo
của đất nước nói riêng.
Như vậy, việc nghiên cứu và xây dựng đường lối, chiến lược, phương
pháp ngoại giao và nghệ thuật ứng xử ngoại giao được coi là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay để bảo vệ vững chắc
chủ quyền lãnh thổ quốc gia – dân tộc. Việt Nam cần phải có đường lối, chiến
lược, phương pháp ngoại giao đúng đắn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện
nay và phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực ngoại giao cụ thể, có như vậy
mới có thể đảm bảo cho sự phát triển và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, sự
khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì lẽ đó, việc
nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh và sự
vận dụng trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam giai đoạn hiện
nay” có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và mang tính thời sự sâu sắc.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu và luận bàn về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự
2
vận dụng của Đảng ta trong thời kì đổi mới” của TS. Đinh Xuân Lý, Nxb
CTQG, 2007, tác giả đã đi sâu vào việc tìm hiểu những nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về đối ngoại, thành tựu của hoạt động đối ngoại Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Hồ Chí Minh, quá trình Đảng ta nhận thức và vận dụng tư tưởng
đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kì đổi mới; cuốn sách “ Phương pháp và
phong cách Hồ Chí Minh” của GS. Đặng Xuân Kỳ, Nxb LLCT, 2004 cũng đã
trình bày một số vấn đề có liên quan đến khái niệm “phương pháp” và “phong
cách” Hồ Chí Minh, tác giả xây dựng hệ thống các phương pháp cách mạng
và hệ thống các phong cách đặc trưng tiêu biểu của Hồ Chí Minh, từ đó tác
giả cũng khẳng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu và vận dụng sáng
tạo phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh; cuốn sách “Tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh” của nguyên Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Dy Niên,
Nxb CTQG, 2002 đã đi sâu vào việc tìm hiểu một số vấn đề về nguồn gốc
hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, trình bày những luận điểm và
quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề thế giới, thời đại, quan hệ quốc tế,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ngoại giao Việt Nam,
đưa ra một số phương pháp, phong cách và nghệ thuật đặc sắc trong hoạt
động quốc tế và ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và sự vận dụng tư
tưởng, phong cách, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh nhằm
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc
tế của nước ta trong giai đoạn mới, tác giả còn khẳng định sự cần thiết phải
xây dựng một hệ thống lý luận ngoại giao và trường phái ngoại giao Việt Nam
đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đối ngoại ngày càng cao của đất nước; công
trình nghiên cứu: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - Một số nội dung cơ
bản, của Đỗ Đức Hinh, Nxb CTQG, 2005 nội dung cuốn sách phản ánh một
cách khái quát, có hệ thống những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
đối ngoại qua đó rút ra một số nhận xét ban đầu về tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh. Trong công trình nghiên cứu “Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc” của
GS. Song Thành cũng đã bàn tới “tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí
3
Minh” ở chương 12, tác giả đã tóm lược nguồn gốc hình thành, nội dung tư
tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh – nền tảng của đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước ta, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh - một phong cách văn
hóa, đồng thời tác giả còn đưa ra mấy vấn đề vận dụng và phát triển tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu như: Viện Quan hệ quốc tế:
Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1990;
Nguyễn Phúc Luân: Ngoại giao Hồ Chí Minh - Lấy chí nhân thay cường bạo.
NXB. Công an Nhân dân. H. 2003; Đinh Xuân Lý: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đối ngoại và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, NXB.CTQG.
2007; Vũ Dương Huân: Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, NXB. Thanh
niên 2005; Phan Ngọc Liên (chủ biên): Hồ Chí Minh – Những hoạt động quốc
tế. NXB.QĐND. Hà Nội 1994; Đặng Văn Thái: Hoạt động đối ngoại của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp. NXB.CTQG.Hà Nội 2004;
Trần Minh Trưởng: Hoạt động Ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1954
đến 1969, NXB. CANN.Hà Nội 2005; Nxb Hà Nội: Việt Nam hội nhập
ASEAN: hợp tác và phát triển. H. 1997; Nguyễn Minh Tú: Kinh tế Việt Nam
trước thế kỉ 21: Cơ hội và thử thách. NXB Chính trị quốc gia, H.1998; Vụ
chính sách thương mại (Bộ Thương mại): Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, NXB Chính trị quốc gia, 1998; Ủy ban quốc gia về hợp tác
kinh tế quốc tế: Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế. NXB Chính trị quốc
gia, H.2000; Võ Thanh Thu (chủ biên): Quan hệ thương mại- đầu tư giữa Việt
Nam và các nước thành viên ASEAN, NXB Tài Chính, 1998; Phạm Đức
Thành – Trương Duy Hòa: Kinh tế các nước Đông Nam Á, thực trạng và triển
vọng. NXB khoa học xã hội, H. 2002...
Cùng với các tác giả trong nước, một số cuốn sách của các học giả nước
ngoài viết về Hồ Chí Minh với quan hệ quốc tế và ngoại giao như: Hoàng
Tranh (1990): Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Sao mới, Bắc Kinh; N.
Khơrútsốp (1971): Hồi ký, NXB. Robert Lafont Paris; Jean - Bapmisme du
4
roselle (1994) Lịch sử ngoại giao từ 1919 đến nay, Học viện Quan hệ quốc
tế, Hà Nội…
Các kết quả nghiên cứu nói trên là những công trình nghiên cứu công
phu, nhiều công trình có giá trị tin cậy về mặt tư liệu, đề cập đến tư tưởng
ngoại giao của Hồ Chí Minh ở từng khía cạnh và sự vận dụng cũng ở những
góc độ khác nhau. Những công trình nghiên cứu đó đã gợi mở cho tác giả
hướng nghiên cứu mới về các nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh
với sự vận dụng trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Hiện tại,
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp và hệ thống quan
điểm của Hồ Chí Minh về các nguyên tắc ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh và
vận dụng những nguyên tắc đó dưới góc độ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của
nước ta giai đoạn hiện nay. Do vậy, đề tài: “Nguyên tắc ứng xử ngoại giao của
Hồ Chí Minh và sự vận dụng trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam
giai đoạn hiện nay” là một đề tài mới, vấn đề mà đề tài nêu ra hiện nay vẫn là
một khoảng trống trong nghiên cứu khoa học về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu:
+ Nhằm đề xuất và làm rõ hệ thống những luận điểm về nguyên tắc
ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh.
+ Vận dụng những nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh để
đưa ra cách thức ứng xử ngoại giao với một số chủ thể trong quan hệ quốc tế,
nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Qua đó nêu lên
một số kinh nghiệm mang tính chất giải pháp về chính sách ngoại giao trong
việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Viện Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành và nội dung những nguyên tắc
ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh.
5
+ Làm rõ vai trò của hoạt động ngoại giao đối với việc bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của tổ quốc trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
+ Đề xuất một số nguyên tắc, cách thức ứng xử ngoại giao đối với một
số chủ thể trong quan hệ quốc tế để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam.
+ Rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc ngoại giao bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề “Những nguyên tắc ứng xử ngoại giao
của Hồ Chí Minh và sự vận dụng trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ
quốc giai đoạn hiện nay”
Phạm vi nghiên cứu:
+ Chỉ nghiên cứu ở phạm vi tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh
+ Chỉ vận dụng nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh vào
lĩnh vực bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc trong giai đoạn hội nhập hiện
nay (thời kỳ đổi mới 1986 - nay)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng một số phương pháp chủ
yếu: phương pháp lịch sử - lôgíc; các phương pháp nghiên cứu liên ngành
khác: tổng hợp, so sánh, thống kê, chứng minh…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về các nguyên tắc ứng
xử ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của
đất nước trong giai đoạn hiện nay. Qua đó cũng đề xuất một số kinh nghiệm
trong hoạt động ngoại bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam hiện nay.
6
Luận văn là một công trình khoa học, có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao; là tài liệu
cho sinh viên chuyên ngành ngoại giao và quan hệ quốc tế.
Luận văn là tài liệu tham mưu cho hoạt động ngoại giao của các cá
nhân chức trách và các tổ chức làm công tác ngoại giao của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo luận
văn bố cục gồm 02 chương:
Chương 1: Những nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh
Chương 2: Vận dụng những nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí
Minh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
7
Chƣơng 1
NHỮNG NGUYÊN TẮC ỨNG XỬ NGOẠI GIAO
CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của ngoại giao trong việc bảo
vệ độc lập, chủ quyền dân tộc
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
“Nguyên tắc” là thuật ngữ chỉ “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải
tuân theo trong một loạt việc làm”[40,694]. Những vấn đề mang tính nguyên
tắc là không thể thay đổi, bất di bất dịch, đã được quốc tế thừa nhận, hoặc đó
là những giá trị pháp lý không có sự thay đổi trong bất kỳ tình huống, điều
kiện nào. Ví dụ: Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn độc lập dân tộc là
vấn đề mang tính nguyên tắc, không thể đưa ra bất cứ lý do gì để vi phạm, đổi
chác, dù đối tác đó là ai.
“Ngoại giao”: Là thuật ngữ chỉ sự giao thiệp với nước ngoài để bảo vệ
quyền lợi quốc gia mình và để góp phần vào việc giải quyết những vấn đề
quốc tế chung; Chỉ sự giao thiệp với bên ngoài, người ngoài. “Hoạt động
ngoại giao”: “Là thuật ngữ để chỉ việc làm cụ thể của các vị lãnh đạo, các
chính khách, các nhà ngoại giao chuyên nghiệp để thực hiện công tác ngoại
giao” [9,7]
“Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh”: nguyên Bộ Trưởng Bộ Ngoại
Giao Nguyễn Dy Niên đã đưa ra khái niệm: “tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh là một hệ thống những nguyên lý, quan điểm quan niệm về các vấn đề
thế giới và thời đại, về đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách
đối ngoại và ngoại giao Việt Nam thời kì hiện đại. Tư tưởng này còn được thể
hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà
nước Việt Nam”[32,89].
Vậy, nguyên tắc ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh là gì? Cần phải hiểu
khái niệm này như thế nào? Để xây dựng khái niệm này, trên cơ sở khái niệm,
“nguyên tắc” và khái niệm “ngoại giao”, “tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh”
8
chúng tôi bước đầu đưa ra khái niệm “nguyên tắc ứng xử ngoại giao Hồ Chí
Minh” như sau:
“Nguyên tắc ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh”: là một hệ thống
những luận điểm mà Hồ Chí Minh sử dụng để ứng xử với các chủ thể trong
hoạt động ngoại giao và quan hệ quốc tế nhằm thực hiện các mục tiêu và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, bảo vệ lợi ích và chủ quyền của nhân dân
và dân tộc đồng thời góp phần tích cực vào phong trào vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Khái niệm về “chủ quyền quốc gia dân tộc”: Chủ quyền quốc gia ở
đây được hiểu là chủ quyền Nhà nước dân tộc, được biểu hiện dưới dạng một
lượng quyền xác định, là tập hợp các quyền mà Nhà nước dân tộc có. Chủ
quyền quốc gia là một thuộc tính cố hữu, không tách rời Nhà nước dân tộc,
dưới dạng các quyền của Nhà nước.
Chủ quyền quốc gia dân tộc thông thường được biểu hiện trên hai mặt
chủ yếu chủ quyền trong đối nội và chủ quyền trong đối ngoại. Chủ quyền
trong đối nội như: quyền của quốc gia - dân tộc trên địa bàn lãnh thổ, thể chế
chính trị … chủ quyền trong đối ngoại như: quyền của quốc gia – dân tộc trên
chính trường quốc tế, trong các tổ chức quốc tế mà quốc gia đó là thành viên
(được tham gia hay bị hạn chế bởi các thể chế, chế định, luật pháp quốc tế)
Chủ quyền quốc gia được xem xét trên hai bình diện:
Một là: Thẩm quyền cai trị tuyệt đối của Nhà nước trong phạm vi lãnh
thổ Nhà nước dân tộc (Nhà nước dân tộc là Chủ thể trực tiếp thực hiện quyền
lực)
Hai là: Tập hợp những quy định hạn chế của xã hội công dân (của dân
tộc) đối với Nhà nước (Nhà nước dân tộc là chủ thể gián tiếp thực hiện quyền
lực, là vật mang quyền lực)
Khái niệm lãnh thổ quốc gia: Lãnh thổ quốc gia xuất hiện cùng với sự
ra đời của nhà nước. Ban đầu lãnh thổ quốc gia chỉ được xác định trên đất liền
dần dần mở rộng ra trên biển, trên trời và trong lòng đất. Lãnh thổ quốc gia:
9
Là một phần của trái đất. Bao gồm: vùng đất, vùng nước, vùng trời trên vùng
đất và vùng nước, cũng như lòng đất dưới chúng thuộc chủ quyền hoàn toàn
và riêng biệt của một quốc gia nhất định.
Các bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia.
- Vùng đất: Gồm phần đất lục địa, các đảo và các quần đảo thuộc chủ
quyền quốc gia.
- Vùng nước: Vùng nước quốc gia là toàn bộ các phần nước nằm trong
đường biên giới quốc gia.
Gồm:
+ Vùng nước nội địa: gồm biển nội địa, các ao hồ, sông suối...(kể cả tự
nhiên hay nhân tạo).
+ Vùng nước biên giới: gồm biển nội địa, các ao hồ, sông suối... trên
khu vực biên giới giữa các quốc gia .
+ Vùng nước nội thuỷ: được xác định một bên là bởi biển và một bên
khác là đường cơ sở của quốc gia ven biển.
+ Vùng nước lãnh hải: là vùng biển nằm ngoài và tiếp liền với vùng nội
thuỷ của quốc gia. Bề rộng của lãnh hải theo công ước luật biển năm 1982 do
quốc gia tự quy định nhưng không vươt quá 12 hải lí tính từ đường cơ sở.
- Vùng lòng đất: là toàn bộ phần nằm dưới vùng đất và vùng
nước thuộc chủ quyền quốc gia. Theo nguyên tắc chung được mặc nhiên thừa
nhận thì vùng lòng đất được kéo dài tới tận tâm trái đất.
-Vùng trời: là khoảng không bao trùm lên vùng đất và vùng nước của
quốc gia.
-Vùng lãnh thổ đặc biệt: Tàu thuyền, máy bay, các phương tiện mang
cờ dấu hiệu riêng biệt và hợp pháp của quốc gia ..., hoạt động trên vùng biển
quốc tế, vùng Nam cực, khoảng không vũ trụ... ngoài phạm vi lãnh thổ quốc
gia mình được thừa nhận như một phần lãnh thổ quốc gia.
Chủ quyền lãnh thổ quốc gia: Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là quyền
tối cao, tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên
10
lãnh thổ của mình. Đó là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, quốc gia có
quyền đặt ra quy chế pháp lý đối với lãnh thổ. Nhà nước có quyền chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt động của nhà nước như
lập pháp và tư pháp.
Nội dung chủ quyền lãnh thổ quốc gia: Lãnh thổ quốc gia thuộc chủ
quyền hoàn toàn riêng biệt của một quốc gia.
- Quốc gia có quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội phù hợp với cộng đồng cư dân sống trên lãnh thổ mà không có sự can
thiệp áp đặt dưới bất kì hình thức nào từ bên ngoài.
- Quốc gia có quyền tự do lựa chọn phương hướng phát triển đất nước,
thực hiện những cải cách kinh tế, xã hội phù hợp với đặc điểm quốc gia.Các
quốc gia khác các tổ chức quốc tế phải có nghĩa vụ tôn trọng sự lựa chọn đó.
- Quốc gia tự quy định chế độ pháp lí đối với từng vùng lãnh thổ.
- Quốc gia có quyền sở hữu hoàn toàn tài nguyên thiên nhiên trên lãnh
thổ của mình.
- Quốc gia thực hiện quyền tài phán (xét xử) đối với những người thuộc
phạm vi lãnh thổ của mình (trừ những trường hợp pháp luật quốc gia , hoặc
điều ước quốc tế mà quốc gia đó tham gia là thành viên có quy định khác).
- Quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp đối với
những Công ty đầu tư trên lãnh thổ mình.
- Quốc gia có quyền và nghĩa vụ bảo vệ, cải tạo lãnh tổ quốc gia theo
nguyên tắc chung quốc tế, có quyền thay đổi lãnh thổ phù hợp với pháp luật
và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó.
1.1.2. Vai trò của ngoại giao trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhìn lại chặng đường lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc dưới thời đại
Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy Người rất quan tâm và chú trọng tới hoạt
động ngoại giao trong quá trình đấu tranh cách mạng giành độc lập của nước
nhà. Chính vì lẽ đó mà hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh góp phần
11
không nhỏ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc bảo vệ chủ quyền độc lập
dân tộc.
Tăng cường ngoại giao và quan hệ quốc tế sẽ góp phần tranh thủ sự
ủng hộ của thế giới đối với cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam.
Hợp tác quốc tế là một nhiệm vụ chiến lược trong đấu tranh cách mạng
của giai cấp vô sản. Ngay từ 1930 trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định “cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng
khít của cách mạng thế giới” cho nên cách mạng nước ta muốn được giành
thắng lợi cần có sự đoàn kết, hợp tác, và sự giúp đỡ của các lực lượng cách
mạng trên thế giới.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra được vai trò của sự đoàn kết, hợp tác
quốc tế bằng khẩu hiệu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “ vô sản các
nước đoàn kết lại”. Đồng thời chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh hợp tác
quốc tế vừa là nhu cầu, vừa là nghĩa vụ của mỗi quốc gia. Để giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội tiến lên chủ nghĩa cộng sản tất yếu phải có sự hợp tác,
quan hệ giữa các lực lượng cách mạng, lực lượng tiến bộ trên thế giới. Thông
qua đó và các dân tộc bị áp bức và vô sản quốc tế sẽ đoàn kết bên nhau, ủng
hộ nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược và chủ nghĩa
tư bản ở chính quốc.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh “Nước ta là một bộ phận của thế giới.
Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng
có quan hệ đến nước ta”, những hoạt động của nước ta có muôn nghìn sợi dây
liên hệ với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ; nhưng phải độc lập, tự
chủ, phải khôn khéo, phải vạch rừ những phương pháp và những biện pháp
của riêng mình, để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ lớn nhất của nhân dân tiến
bộ trên thế giới; nhưng “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp
lấy mình đã” . Phải thực hành chính sách đối ngoại rộng mở, chính sách mở
12
cửa và hợp tác, chính sách hoà bình và quan hệ tốt; tránh đối đầu, và không
gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần
tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp
lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều cấp độ. Trong hoạt động đối
ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế,
ngoại giao văn hoá...
Ngoại giao và quan hệ quốc tế của cách mạng Việt Nam là một trong
những nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
cuộc chiến chống thực dân xâm lược và thống trị.
Trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc câu kết với nhau, kẻ thù của các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc có tính chất quốc tế cao, chúng bắt tay hợp tác với
nhau cùng thống trị bóc lột các dân tộc thuộc địa và lệ thuộc, đòi hỏi các dân
tộc thuộc địa phải đoàn kết huy động mọi lực lượng vào cuộc đấu tranh chống
kẻ thù chung, không những thế các dân tộc thuộc địa phải biết đoàn kết và có
mối liên hệ với phong trào công nhân ở chính quốc. Bởi vì “ chủ nghĩa đế
quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào
thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt bỏ cả hai cái
vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng vô sản ở thuộc địa
như là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” [21,267]. Nhận thức
được vai trò của vũ khí đối ngoại trong giai đoạn chiến tranh hiện đại, Hồ Chí
Minh cho rằng “ngày nay ngoại giao ai thuận hơn thì thắng” [22,514]. Thông
qua hợp tác và quan hệ quốc tế, sẽ phát huy được thế mạnh, hạn chế được khó
khăn, quan hệ quốc tế là phương thức để kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại, phát huy sức mạnh của mỗi quốc gia, thông qua đó
bảo vệ vững chắc được chủ quyền của dân tộc, bảo vệ và đem lại lợi ích cho
dân tộc
Bác tiếp tục khẳng định vai trò của ngoại giao, chủ quyền ngoại giao là
chuẩn mực, là biểu hiện của một nhà nước độc lập. Giai đoạn 1945 – 1946
13
trong thương lượng đàm phán với Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì
phấn đấu giữ vững chủ quyền ngoại giao coi vấn đề “có ngoại giao riêng” là
một nhân tố quan trọng để hoàn chỉnh nền độc lập, Người nói “nếu như quân
đội và ngoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa độc lập
hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp”. Theo Người thì chủ quyền ngoại giao là
một bộ phận quan trọng của chủ quyền quốc gia, nó còn là một thuộc tính của
một nhà nước tự do độc lập không ai có thể tước đoạt được. Chủ quyền ngoại
giao còn có nghĩa là nhân dân, chính phủ ta có toàn quyền điều hành nền
ngoại giao và định ra chính sách đối ngoại của mình, không phụ thuộc, ràng
buộc vào chính sách đối ngoại và một thể chế của nước khác.
Ngoại giao theo Hồ Chí Minh còn là một vũ khí cách mạng tiến công
cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh: “ngoại giao có vai trò quan trọng trong việc chủ
động vận dụng sách lược lợi dụng sự khác nhau về lợi ích để phân hóa thế lực
kẻ thù, làm suy yếu từng bộ phận, đi đến cô lập và đánh thắng kẻ thù chính
trong từng thời kì cách mạng”. Từ 1945 – 1969 các đợt chỉ đạo tiến công địch
của Chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều đợt tiến công bằng ngoại giao nhằm
kìm chế xung lực địch, phân hóa kẻ thù, thể hiện thiện chí của ta muốn giải
quyết cuộc xung đột thông qua hòa bình đàm phán, buộc địch phải xuống
thang và luôn tạo ra một cục diện kết hợp giữa “đánh và đàm”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nói: “Dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh
bằng ngoại giao. Thứ ba mới là đánh bằng binh”[25,3]
1.2. Những nguyên tắc ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh
1.2.1. Cơ sở hình thành nguyên tắc ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh
1.2.1.1 Truyền thống ứng xử văn hóa và ngoại giao Việt Nam
Việt Nam, nằm ở vị trí trung tâm của Đông Nam Á, lại giáp biển Đông
có vị trí địa - chính trị quan trọng trong giao lưu và quan hệ quốc tế. Trong
lịch sử, để tồn tại và khẳng định chủ quyền của mình, dân tộc ta phải thường
xuyên đối phó với các thế lực xâm lăng như chống lại các thế lực xâm lược
14
phương Bắc hàng ngàn năm, nhờ đó mà ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước
trải qua hàng ngàn năm lịch sử đã hình thành nên chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Qua những minh chứng lịch sử dựng nước và giữ nước chúng ta có thể
tự hào về những trang sử vẻ vang của dân tộc thời đại Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung. Các thế hệ ông cha của dân tộc đã để
lại những tư tưởng yêu nước, bài học kinh nghiệm và phương pháp ngoại giao
là cơ sở nền tảng cho quá trình dựng nước và giữ nước sau này. Ngay từ thời
Bắc thuộc mặc dù sau những trận đánh thắng quân xâm lược phương Bắc
nhưng ông cha ta vẫn mở rộng quan hệ “bang giao” và luôn coi trọng “hòa
khí” giữa Đại Việt và triều đình phong kiến phương Bắc, “tuy thể hiện sự
thuần phục nhưng vẫn giữ thế độc lập tự chủ của nước mình” hàng năm vẫn
cho sứ giả sang chầu và cống nạp triều đình phong kiến phương Bắc đó là để
giữ “hòa khí, hòa bình” trong quan hệ với nước lớn Trung Quốc.
Những tư tưởng khẳng định ý thức dân tộc, chủ quyền dân tộc cũng là
sự thể hiện một quan điểm, nguyên tắc và phương pháp ngoại giao trong quan
hệ với nước ngoài. Bài Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt nêu rõ:
“Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Hay trong “Bình Ngô Đại Cáo” Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định tư
tưởng yêu nước và chủ quyền dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương”
15
Tư tưởng đó tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam không chịu sự
thống trị của ngoại bang, sẵn sàng vùng lên chống lại giặc ngoại xâm để bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Trong các cuộc chiến tranh chống phong
kiến phương Bắc nước ta luôn quan tâm đặc biệt tới đấu tranh ngoại giao,
đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với mặt trận quân sự.
Với phương pháp và phương châm “ vừa đánh vừa mở đường đàm phán với
giặc”, “đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, thực hiện “ ngoại giao tâm công”
đánh vào lòng người “không chiến mà thắng”; với đối sách khéo léo linh hoạt,
tùy lúc, tùy thời điểm, lúc ta giảng hòa lúc ta tiến hành kiên quyết đánh cho
chúng “kinh hồn, bạt vía” rồi lại mở đường cho giặc rút quân trong danh dự
nước lớn.
Từ thời họ Khúc đến Dương Đình Nghệ (931 -937) trong khi thế lực
còn yếu đã biết khôn ngoan dùng danh nghĩa (Tiết độ sứ) với bộ máy cai trị
của bọn đô hộ phương Bắc vờ thuần phục Trung Hoa để có thể vừa củng cố
chuẩn bị lực lượng vừa có thể tự trị khẳng định chủ quyền dân tộc. Tới thời
Trần (thế kỉ XIII, XIV), trong quan hệ với Chămpa ở phía Nam vua Trần đã
biết sử dụng chính sách “ki mi” gả Huyền Chân Công chúa cho vua Chămpa
cũng nhờ đó mà ổn định được tình hình phía nam và mở rộng thêm bờ cõi Đại
Việt (vua Chămpa đã dâng hai châu, châu Ô và châu Lý cho nhà Trần). Ngoài
ra dưới thời Lê Lợi (thế kỉ XV) ngoại giao cũng đã trở thành công cụ sắc bén
để củng cố tăng cường thực lực khi nghĩa quân còn yếu cũng như khi nghĩa
quân đang trên đà thắng lợi”, đặc biệt có thể nói tới “thư dụ Vương Thông”
của Nguyễn Trãi là một biểu hiện của phương pháp ngoại giao “tâm công”
nhằm tránh sử dụng binh đao. Đây chính là biểu hiện của tư tưởng ngoại giao
lấy hòa hiếu và hòa bình làm trọng và làm nguyên tắc trong quan hệ bang giao
với các nước khác của ông cha ta ngày xưa
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thấm
đượm những yếu tố của chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, truyền
16
thống ngoại giao Việt Nam để hình thành nên những nguyên tắc ứng xử ngoại
giao của mình trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước là hạt nhân cơ sở đảm bảo cho tư tưởng ngoại
giao vì dân vì nước, là cơ sở ban đầu, là động lực thúc đẩy quá trình tư duy và
hình thành nên quan điểm, phương pháp, nguyên tắc ứng xử ngoại giao Hồ
Chí Minh
Truyền thống văn hóa Việt Nam như truyền thống đoàn kết, hòa hợp và
dung hòa, tính cộng đồng, truyền thống nhân văn nhân đạo, tinh thần thủy
chung, tinh thần tự tôn dân tộc, tự chủ chủ quyền, sự linh hoạt mềm dẻo của
con người Việt Nam bởi yều tố văn hóa sông nước và nhiệt đới, đã tạo nên
những đặc điểm về tư tưởng ngoại giao còn in đậm dấu ấn trong nhà ngoại
giao thiên tài Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã kề thừa phát huy những truyền
thống, yếu tố văn hóa đó lên tầm cao mới đối với vấn đề ngoại giao. Chính
Hồ Chí Minh là hiện thân của tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng thủy
chung, là người đặt nền móng cho ngoại giao đoàn kết giữa ba nước Đông
Dương, và cũng là người hiện thân cho sự ngoại giao nhân nghĩa bởi chính
sách đối sử với tù binh Mỹ “máu của người Việt hay máu của Người Mỹ đổ
xuống cũng đều là máu”.
Trong khi nhìn nhận và đánh giá những tư tưởng của ngoại giao truyền
thống Việt Nam so với tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh chúng ta nhận thấy,
tư tưởng ngoại giao của Người thấm nhuần tư tưởng ngoại giao truyền thống
dân tộc. Đó là sự thấm nhuần tư tưởng luôn có ý thức bảo vệ độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ; tư tưởng yêu hòa bình và sự hòa hiếu; đó còn là sự
phát triển kế thừa tinh thần nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn, tinh thần tự tôn
dân tộc của ngoại giao truyền thống.
Như vậy, có thể khẳng định truyền thống ngoại giao Việt Nam với tư
tưởng đặc trưng là một nền ngoại giao yêu “hòa bình, hòa hiếu” mang bản
chất chủ nghĩa nhân văn, thấm đượm chính nghĩa, với mục tiêu đối ngoại nhất
quán là kiên quyết bảo vệ đất nước bảo vệ tôn vinh danh dự của quốc gia văn
17
hiến, một nền ngoại giao ứng xử khôn ngoan, linh hoạt, hài hòa, giữa tính
nguyên tắc và sách lược mềm dẻo… đó là một trong những cơ sở quan trọng
góp phần hình thành nên nguyên tắc ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh.
1.2.1.2 Lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc tế, đoàn kết
quốc tế vô sản.
Mác, Ăng ghen và Lênin là những lãnh tụ của giai cấp vô sản, các ông
đã nhận thức một cách rất sâu sắc về mối quan hệ quốc tế giữa các nước tư
bản và yêu cầu đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân trên phạm vi toàn thế
giới. Mác và Ăngghen cho rằng: chủ nghĩa tư bản có tính chất quốc tế hóa
ngày càng cao, song chúng vừa bắt tay hợp tác với nhau, lại vừa mâu thuẫn
với nhau. Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” (2/1848) Mác và Ăngghen đã
kêu gọi “vô sản các nước đoàn kết lại” và khẳng định “vô sản giai cấp toàn
thế giới đều là anh em”. Đến thời Lênin khẩu hiệu đó của Mác và Ăngghen
tiến tục được phát triển thành “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức, đoàn kết lại”, Lênin còn cho rằng: “cách mạng ở phương Tây muốn
thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào chống chủ nghĩa đế quốc
ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch…và vấn đề dân tộc chỉ là một bộ
phận chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản” [28,78]. Đặc biệt
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, các ông luôn luôn chủ trương
thành lập ra tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân (Quốc tế I; II; III) để lãnh
đạo và đoàn kết phong trào công nhân, ủng hộ phong trào cách mạng thế giới.
Mặt khác, Lênin cũng đã từng nói: các nước xã hội chủ nghĩa ra đời trước có
nghĩa vụ quốc tế giúp các nước thuộc địa và phụ thuộc đi theo con đường
cách mạng vô sản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, đây chính là biểu hiện của
tư tưởng đối ngoại mang tinh thần quốc tế vô sản.
Khi Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, lý luận cách mạng
khoa học và tiến bộ của giai cấp vô sản, cũng từ đó Người trở thành một nhà
Mácxít chân chính. Người đã thấm nhuần quan điểm giai cấp và thế giới
18
quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với nó là những
quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ quốc tế.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã thấm nhuần tinh thần đoàn
kết quốc tế vô sản, chủ nghĩa quốc tế vô sản, cũng vì lẽ đó mà Người luôn
luôn đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Người
nhận thức một cách sâu sắc rằng “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức, đoàn kết lại”, Người cho rằng cách mạng Việt Nam cần sự ủng hộ của
bạn bè thế giới và Người quan niệm “bốn phương vô sản đều là anh em”. Đó
chính là biểu hiện của sự thống nhất với tư tưởng của Lênin: “ cách mạng ở
phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải
phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch”.
Không ai khác, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em đối với Việt
Nam và tranh thủ sự ủng hộ của thế giới đối với Việt Nam.
Hồ Chí Minh luôn căn cứ vào điều kiện cụ thể của cách mạng ở từng
giai đoạn và căn cứ vào bối cảnh thế giới để tiến hành các hoạt động ngọai
giao phù hợp. Người luôn đặt vấn đề cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ
với cách mạng thế giới và những vấn đề thế giới, Người xác định “cách mạng
Việt Nam phải là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, phải đứng
về phía vô sản giai cấp và các dân tộc bị áp bức”. Người đã vận dụng, kế
thừa và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin để xem xét và giải quyết các vấn đề về đối ngoại,
ngoại giao cho cách mạng Việt Nam. Ví dụ như trong giai đoạn cách mạng
1945 -1946 trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, căn cứ vào điều kiện cách
mạng và nắm vững tình hình của Pháp và Tưởng, trước 6/3/1946 Người chủ
trương hòa với Tưởng để kiên quyết chống Pháp ở Nam Bộ để bảo vệ chính
quyền cách mạng còn non trẻ, nhưng sau 6/3/1946 Người lại kí Hiệp định sơ
bộ để hòa hoãn với Pháp đuổi Tưởng về nước điều đó tránh được nguy cơ
phải đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Như vậy, Hồ Chí Minh đã căn cứ
19