Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

LẬP LUẬN SO SÁNH TRONG VĂN NGHỊ LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.88 KB, 12 trang )

LẬP LUẬN SO SÁNH TRONG VĂN NGHỊ LUẬN

SO SÁNH TRONG NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

Ngô Vưu
Trường THPT Chuyên Quốc Học
Muốn nhận biết rõ hơn đặc điểm và giá trị của một sự
vật, hiện tượng người ta thường dùng phép so sánh. Trong
phạm vi nghị luận văn học, so sánh là một thao tác quan
trọng được sử dụng rất rộng rãi. Thông thường, lập luận so
sánh trong bình luận văn học là đối chiếu hai hay nhiều tác
giả, văn bản, hình tượng, chi tiết nghệ thuật… để thấy được
những điểm giống và khác nhau; từ đó thấy rõ giá trị của các
đối tượng được phân tích, đánh giá. So sánh để làm nổi bật
những nét giống nhau gọi là so sánh tương đồng, so sánh để
chỉ ra sự khác biệt gọi là so sánh tương phản.
Để có được những phân tích, cảm nhận sâu sắc từ
việc so sánh, người viết phải có nền hiểu biết rộng về văn
chương, về đời sống xã hội; nhưng quan trọng hơn vẫn là
khả năng của tầm liên tưởng và nhạy bén phát hiện. Liên
tưởng là một hoạt động tâm lí của con người, là từ sự việc
nầy mà nghĩ đến sự việc kia, từ người nầy mà liên hệ đến
người nọ, đôi lúc chỉ là một hoạt động có tính trực giác. Liên
tưởng là nền tảng của thao tác lập luận so sánh trong bình


luận văn học; nó có mục đích rất rõ ràng, đó là tạo mối liên
hệ giữa các nhà văn, tác phẩm, hình tượng, chi tiết với nhau
nhằm nhận ra một ý nghĩa nào đó. Có nhiều cách liên tưởng:
liên tưởng tương cận, liên tưởng tương đồng, liên tưởng trái
ngược.


Trong hoạt động chuyên môn đọc văn, làm văn ở
chương thình phổ thông trung học, giáo viên và học sinh
thường sử dụng thao tác lập luận so sánh trong hai tường
hợp. Một là, liên tưởng, so sánh để làm nổi bật ý kiến đánh
giá trong quá trình phân tích, cảm nhận tác phẩm văn học;
hệ thống hóa kiến thức khi bàn về một vấn đề văn học. Hai
là, thực hiện theo yêu cầu, định hướng bắt buộc của đề bài
tập làm văn.
1/ So sánh để làm nổi bật, sâu sắc hơn vấn đề bàn
luận
a/ Trong phạm vi tìm hiểu về tác giả
- Có thể so sánh tác giả nầy và tác giả khác cùng thời để
làm nổi bật phong cách nhà văn. Ví dụ: Hồ Xuân Hương với
Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du với Nguyễn Gia Thiều,
Nguyễn Khuyến với Tú Xương, Xuân Diệu với Chế Lan Viên,
Nam Cao với Vũ Trọng Phụng.
- So sánh giữa các giai đoạn sáng tác để thấy được sự vận
động, thay đổi về đề tài, chủ đề tư tưởng trong sự nghiệp
sáng tác của một nhà văn. Ví dụ: Đánh giá về hai giai đoạn
sáng tác của các tác giả Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Xuân
Diệu, Tô Hoài trước và sau Cách mạng tháng Tám.
b/ Trong phạm vi tìm hiểu về tác phẩm


- So sánh các tác phẩm có điểm chung về đề tài nhưng khác
biệt về thời gian và không gian sáng tác để thấy được sự
gặp gỡ kì lạ về tình cảm, tư tưởng của con người trong văn
chương. Ví dụ:
+ Nhân vật Tấm và Lọ Lem trong truyện cổ tích Việt Nam và
truyện cổ tích phương Tây.

+ Hình tượng người nông dân trong hai tác phẩm AQ chính
truyện của Lỗ Tấn và Chí Phèo của Nam Cao.
+ Hình tượng người lính kháng chiến trong bài thơ Đồng
chí của Chính Hữu và người nghĩa binh trong bài Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
- So sánh sự tương đồng và khác biệt của các tác phẩm
được sáng tác cùng thời, cùng đề tài để thấy được sự đa
dạng, sáng tạo của các phương thức thể hiện và chiều sâu
của nhận thức, tình cảm con người. Ví dụ:
+ Hiện thực và lãng mạn trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
và Việt Bắc của Trần Dần.
+ Hình tượng đất nước trong bài thơ Đất nước của Nguyễn
Đình Thi và đoạn tríchĐất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
+ Hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
và bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy.
+ Tình cha con trong bài thơ Nói với con của Y Phương
và Với con của Thạch Qùy.
c/ Trong phạm vi một vấn đề về nhận thức, tư tưởng; một
đoạn văn, đoạn thơ


- So sánh để thấy được sự khác biệt, đối lập về tư tưởng tình
cảm của tác giả ngay trong một tác phẩm. Ví dụ: Mâu thuẫn
tư tưởng nhà văn trong cùng một tác phẩm được bộc lộ qua
tâm sự của tác giả, qua nhân vật.
+ Truyện Kiều của Nguyễn Du mang tư tưởng thiên
mệnh: Cho hay muôn sự tại trời/ Trời kia đã bắt làm người có
thân; nhưng cũng có lúc nhà thơ tỏ ra hoài nghi qua chiêm
nghiệm của nhân vật: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng
nhiều. Thái độ của Nguyễn Du với triều đình phong kiến chủ

đạo là trung thành: Trên vì nước, dưới vì nhà/ Một là đắc
hiếu, hai là đắc trung; nhưng cũng có lúc tác giả ca ngợi
nhân vật anh hùng Từ Hải và đã bước qua giới hạn trung
quân: Chọc trời, khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết
trên đầu có ai.
+ Vội vàng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diêu thể
hiện tâm trạng, thái độ rất mâu thuẫn của tác giả giữa cuộc
đời sôi động: vừa thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống; vừa bi
quan, chán nản, hoài nghi và cô đơn. Mở đầu bài thơ là mơ
ước kì lạ, khát vọng siêu phàm muốn điều chỉnh tự nhiên,
thay đổi tạo hóa để giữ gìn và tận hưởng hương sắc của
cuộc đời:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi…
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;


Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Nhưng ngay sau đó là cảm nhận đầy bi quan, chán
nản; mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, là một
phần vô cùng quý giá của tuổi trẻ mình mất đi vĩnh viễn.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
- So sánh để thấy được sự khác biệt trong tình cảm,
nhận thức của các nhà văn về cùng một đối tượng phản ánh.
Ví dụ:

+ Cảm nhận về vai trò của nhân dân trong đời sống
cá nhân và lịch sử qua hai đoạn thơ của Chế Lan Viên và
Nguyễn Khoa Điềm:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Như cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
(Chế Lan Viên – Tiếng hát con
tàu)
Không ai nhớ mặt đặt tên


Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than
qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi
chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người đời sau trồng
cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước nầy là Đất Nước Nhân Dân
(Nguyễn Khoa Điềm – Mặt
đường khát vọng)
Cả hai đoạn đoạn thơ đều lấy nhân dân làm đối tượng
để miêu tả nhận thức, nhưng sự gặp gỡ nhân dân trong
đoạn thơ Chế Lan Viên là sự thức tỉnh, thay đổi của lối sống
và cả quan niệm sáng tác. Gặp lại nhân dân là được trở về

với cội nguồn tuổi thơ của sự sáng tạo nghệ thuật (nai về
suối cũ); gặp lại nhân dân như một cơ hội tự nhiên thuận lợi
để phát triển tài năng (cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa);
gặp lại nhân dân như một nguồn nuôi dưỡng, động viên kịp
thời không thể thiếu (đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa/ Chiếc nôi
ngừng bỗng gặp cánh tay đưa).


Đối tượng Nhân Dân được đề cập trong đoạn thơ Nguyễn
Khoa Điềm là để khẳng định, ca ngợi vai trò sáng tạo và làm
nên lịch sử của những con người lao động bình
thường. Không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là những
người đã làm nên sự kì vĩ nhất không gì có thể so sánh: Đất
Nước. Họ đã tạo dựng được một nền văn minh lúa nước từ
hàng nghìn năm trước (giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng).
Họ đã làm ra và giữ gìn ngọn lửa đoàn kết, ngọn lửa nuôi
sống con người theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng (chuyền
lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi). Họ sáng tạo và
truyền lại ngôn ngữ của chính mình, của bản sắc văn hóa
Việt, mà cả ngàn năm dân tộc bị nô lệ, kẻ thù phương bắc
không thể đồng hóa (truyền giọng điệu mình cho con tập
nói). Họ di dân về phương nam để kiếm sống, lập nghiệp; để
mở mang bờ cõi nhưng vẫngánh theo tên xã tên làng cho
con cháu đời sau không quên nguồn cội. Họ luôn đánh thắng
giặc ngoại xâm cho quê hương bờ cõi trường tồn... Vì tất cả
những lí do đó mà nhà thơ đã vinh danh họ: Đất Nước Nhân
Dân.
+ Cảm nhận, so sánh về các đoạn thơ được sáng tác cùng
thời.
*/ Hai bức tranh hiện thực về sản xuất, xây dựng:

Ngày mỗi ngày từng chiếc lá tre xanh
Đã mọc lên quanh những làng kháng chiến
Ngày mỗi ngày từng miếng đất cỏ tranh
Đã lật lên dưới lưỡi cày mới luyện


(Tố Hữu - Mùa thu mới)
Tôi đã đi qua những xóm làng chiến tranh
vừa chấm dứt
Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu cháy ròng
Bới đồn giặc để trồng ngô tỉa lúa
(Phùng Quán – Chống tham ô
lãng phí)
*/ Hai bức tranh về đời sống trẻ thơ:
Miền Bắc thiên đường của các con tôi
(Tố Hữu – Bài ca xuân 61)
Tôi đã gặp những đứa em còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu
Cơm thòm thèm độn cám và rau
Mới tháng ba đã ngóng mong đến tết
Để được ăn cơm no có thịt
(Phùng Quán – Chống tham ô
lãng phí)


Những trích dẫn trên được lấy từ hai bài thơ, một của
Tố Hữu và một của Phùng Quán viết sau năm 1954, thời kì
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tố Hữu nhìn cuộc

sống bằng đôi mắt lạc quan của một người làm công tác
chính trị, luôn hướng về tương lai tươi sáng và chỉ miêu tả
những gì gợi sự phấn chấn, tin tưởng. Thơ Tố Hữu thời kì
nầy luôn ca ngợi cái phải có bằng những vần điệu vui tươi
ngọt ngào. Trái lại, Phùng Quán quan sát và miêu tả cuộc
sống từ những hình ảnh thực đang diễn ra hằng ngày, trước
mắt. Người nghệ sĩ nghèo cùng ăn ở, cùng sống với quần
chúng nhân dân đã có những đồng cảm sâu sắc và đã viết
được những câu thơ lay động lòng người. Khác với Tố Hữu
thơ Phùng Quán luôn trăn trở, day dứt về những cái đang
có (mượn cách nói của nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc
Hiến: Văn học Việt Nam hiện đại chỉ chủ yếu miêu tả cái phải
có và không miêu tả cái đang có).
2/ Lập luận so sánh theo yêu cầu của đề bài làm
văn
Những năm gần đây, trong các kì thi tuyển sinh đại
học, thi học sinh giỏi quốc gia, đề thi môn Văn thường có
những câu yêu cầu cảm thụ, phân tích theo hướng đối sánh.
Với dạng đề bài nầy, học sinh phải nắm được phương pháp
cơ bản là:
- Cảm nhận, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của
từng văn bản (hoặc vấn đề).
- So sánh để tìm ra nét tương đồng và khác biệt của
hai văn bản (hoặc vấn đề). Có thể tham khảo một số đề bài
sau đây.


a/ Đề thi Tuyển sinh đại học khối D năm 2010:
Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân
vật thị Nở mang cho Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và chi

tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ
dành sẵn cho Hộ (Đời Thừa – Nam Cao).
b/ Đề thi Tuyển sinh đại học khối C năm 2010:
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau :
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử,
Ngữ văn 11)
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang – Huy Cận, Ngữ văn
11)
c/ Đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2010:
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:


(…) Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu
mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gấm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu

về (…)
(Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ
văn 12 Nâng cao)

(…) Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của
Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc
Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa
hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao
đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó,
người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa,
với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi.
Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều
màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả (…)
(Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Ngữ văn 12 Nâng cao)
d/ Đề thi Tuyển sinh đại học khối D năm 2012:


Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng
hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2011, tr.155)
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình
ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ
bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt

Nam, 2011, tr.32)
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc
trên.
Trên đây là một số vấn đề về thao tác lập luận so
sánh trong văn nghị luận và rèn luyện kĩ năng phân tích, cảm
thụ văn học bằng phương pháp đối sánh có thể vận dụng
trong chương trình dạy chuyên bậc phổ thông trung học.
Người viết chỉ đưa ra một số định hướng có được từ thực
tiễn giảng dạy với mục đích gợi ý, xác lập phương hướng.
Những vấn đề có tham gia bình luận, đánh giá cũng xuất
phát từ cảm nhận rất chủ quan của người viết để đồng
nghiệp tham khảo. Có điểm nào chưa phù hợp, chưa đúng,
mong quý đồng nghiệp góp ý, trao đổi.



×