Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Bài tiểu luận GIải pháp nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính sách kin tế và chính sách xã hội trong pháp luât việt nam SV thực hiện lê thị duyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.16 KB, 33 trang )

BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
HĐLĐ: Hợp đồng lao động

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam mới chuyển sang định hướng phát triển kinh tế thị trường vào cuối
những năm 80 của thế kỷ XX. Sau thời kỳ khuyến khích phát triển quan hệ lao
động hợp đồng lao động, Bộ luật lao động được ban hành năm 1994 đáp ứng được
những đòi hỏi cơ bản của vấn đề lao động, sủ dụng và quản lý lao động trong cơ
chế thị trường. Năm 2012 Bộ luật lao động đã được sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp
hơn với quá trình vận hành và phát triển của xã hội. Căn cứ vào hệ thống pháp luật
thực định thì Điều 1, Bộ luật lao động có quy định: “ Bộ luật lao động điều chỉnh
quan hệ lao động giữa người lao động (NLĐ) làm công ăn lương và người sử dụng
lao động (NSDLĐ)...”. Vậy, có thể khẳng định đối tượng điều chỉnh chủ yếu của
luật lao động Việt Nam là quan hệ lao động làm công ăn lương – quan hệ lao động
phát sinh trên cơ sở HĐLĐ, giữa NLĐ làm công và NSDLĐ.
Như vậy, khi xem xét đến mục tiêu và đối tượng điều chỉnh của luật lao động
Việt Nam ta thấy giữa luật lao động và các chính sách về kinh tế và chính sách xã
hội của nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhau. Các quan hệ lao động liên
quan trực tiếp đến lĩnh vực kinh tế và xã hội. Nói cách khác luật lao động điều
chỉnh các quan hệ lao động nảy sinh trong các hoạt động kinh tế và đời sống xã hội.
Giữa các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội cũng có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách kinh tế và chính
sách xã hội sẽ tạo điều kiện phát huy nội lực, gắn kết toàn dân, tạo động lực và
nguồn sức mạnh để phát triển đất nước nhanh, hiệu quả và bền vững.


Chính sách xã hội không thể thoát li khỏi chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô.
Song đi vào những chính sách xã hội cụ thể lại thường phát sinh những mâu thuẫn,
đặc biệt là trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành cơ chế thị trường ở nước ta. Do vậy luật lao động đã xây dựng các điều luật
dựa trên nguyên tắc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội, nhằm đảm

2


bảo sự kết hợp hài hòa, thống nhất giữa các chính sách này và hướng đến sự ổn
định, phát triển bền vững của đất nước.
Luật lao động phải kết hợp hai chính sách trên bởi yêu cầu phải phù hợp với
các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
Bởi vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải xác định cho được điểm giới hạn, ở đó
sự kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội là tối ưu nhất, có tác động
tích cực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội trong phạm vi điều chỉnh của luật
lao động. Đồng thời cũng đưa ra được các giải pháp nhằm đảm bảo sự kết hợp hài
hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Bởi những lý do trên đây mà tôi lựa chọn đề tài: “ giải pháp nhằm đảm bảo sự
kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong pháp luật Việt
Nam” làm bài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ mối quan hệ giữa luật lao động và các
chính sách kinh tế, chính sách xã hội. Chỉ ra được vai trò cần thiết phải kết hợp
chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam. Đồng
thời chỉ ra được các giải pháp nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính sách
kinh tế và chính sách xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là các quy định của pháp luật lao động có mối quan hệ liên
quan trực tiếp đến các chính sách kinh tế và chính sách xã hội.

Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về chính sách kinh tế,
chính sách xã hội và các điều luật lao động nằm trong mối quan hệ giữa luật lao
động và chính sách kinh tế, chính sách xã hội. Nghiên cứu về nguyên tắc kết hợp
chính sách kinh tế là chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam.
4. Lịch sử nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
3


Phương pháp tổng hợp phân tích thống kê: trên cơ sở các tài liệu sưu tầm
được, tiến hành chọn lọc, phân tích tổng hợp lại thành các mục đích cụ thể phục vu
cho việc trình bày, báo cáo nội dung của đề tài.
Phương pháp sư tầm lài liệu: sách , internet, các sách chuyên đề về chính sách
và pháp luật. Phương pháp đối chiếu so sánh,...
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục, đề tài có cấu trúc
gồm 3 chương:
Chương 1: chính sách kinh tế và chính sách xã hội
1.1 chính sách kinh tế
1.2 chính sách xã hội
1.3 Mối quan hệ giữa luật lao động và chính sách kinh tế, chính sách xã hội
Chương 2: Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã
hội
2.1 sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
2.2 sự cần thiết phải kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội
2.3 Các nguyên tắc kết hợp
Chương 3: giải pháp nhằm kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội
3.1 Thực trạng chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay
3.2


giải pháp nhằm kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội

trong pháp luật lao động Việt Nam

NỘI DUNG
Chương 1
CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1Chính sách kinh tế

4


chính sách kinh tế là chủ trương và biện pháp kinh tế mà Nhà nước áp dụng
trong một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử nhằm đạt được yêu cầu và những mục tiêu
kinh tế, chính trị nhất định. Chính sách kinh tế được xây dựng trên cơ sở những
phân tích, dự báo về các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước và những xu hướng
phát triển của xã hội.
Chính sách kinh tế của mỗi quốc gia được biểu hiện thông qua cơ sở hạ tầng
của quốc gia đó. Cơ sở hạ tầng được hiểu theo quan niệm triết học như sau:
Cơ sỏ hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội gồm những quan hệ sản xuất
thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của
một xã hội tương lai. Quan hệ sản xuất giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ
sản xuất khác. Nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế xã hội. Qua đó
cho thấy cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất
thống trị trong xã hội đó.
Các chính sách kinh tế khi xem xét trong phạm vi của luật lao động được thể
hiện trong các quy định đặc thù về lao động như: các quy định về việc làm, tiền
lương, chính sách về đào tạo nghề, các quy định về giờ làm việc, giờ làm thêm,...


1.2Chính sách xã hội
Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành chính sách chung của nhà nước trong
việc quản lý và giải quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt
cuộc sống của các thành viên trong xã hội, từ điều kiện lao động cho đến sinh hoạt,
giáo dục và văn hóa đến quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp quan hệ xã hội.
Chính sách xã hội của một quốc gia được biểu hiện thông qua hệ thống kiền
trúc thượng tầng của quốc gia đó.
5


Theo quan niệm triết học, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,...cùng với những
thiết chế xã hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến
trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng
chúng có liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở
hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh
tế - xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lãn nhau. Như
vậy thông qua mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Vì chính sách xã hội bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có lao động,
sinh hoạt,... nên có mối liên hệ với luật lao động. Biểu hiện cụ thể ở các quy định
về an sinh xã hội: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm trách nhiệm, các quy
định về lao động nữ, bảo hộ lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ
hưu trí, chế độ nghỉ ngơi,...
1.3 Mối quan hệ giữa luật lao động và chính sách kinh tế, chính sách xã hội
Mối quan hệ giữa luật lao động và chính sách kinh tế, chính sách xã hội chủ
yếu xoay quanh quan hệ lao động trong pháp luật lao động.
Quan hệ lao động nói riêng và mối quan hệ xã hội nói chung luôn có sự gắn

bó mật thiết với các quan hệ xã hội khác. Chúng liên quan đến nhau trong quá trình
tồn tại, vận động và phát triển như những bộ phận cấu thành không thể tách rời
trong đời sống xã hội. Vì vậy các lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
đố cũng thường có mối quan hệ pháp lí với nhau. Trong quá trình điều chỉnh các
quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực lao động, luật lao đông có quan hệ với nhiều ngành,
lĩnh vực khác. Trong đó mối quan hệ với chính sách kinh tế và chính sách xã hội là
hai mặt quan trọng.

6


Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng
lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động( Điều 3, Bộ
luật lao động Việt Nam năm 2012).
Như vậy các chính sách kinh tế, chính sách xã hội được biểu hiện ( áp dụng)
trong luật lao động thông qua các chế định, quy định nhằm đảm bảo quan hệ lao
động giữa NLĐ và NSDLĐ. Luật lao động nhằm đảm bảo quyền lợi ích của 2 bên
trong quan hệ lao động, trong khi đó các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng
nhằm vào mục đích lợi nhuận, quyền lợi, lợi ích của cả NLĐ và NSDLĐ, nhằm
phát triển xã hội. NLĐ và NSDLĐ trực tiếp thực hiện, tiến hành các chính sách
kinh tế, đồng thời cũng là đối tượng của cách chính sách xã hội. Nói cách khác, các
chính sách kinh tế nhằm tạo ra lợi nhuận cho cả NLĐ và NSDLĐ. Các chính sách
xã hội cũng nhằm tạo điều kiện để đời sống xã hội tốt hơn, đồng thời trong phạm vi
của luật lao động, các chính sách xã hội nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng,
hợp pháp của NLĐ, kết hợp hài hòa lợi ích của NLĐ và NSDLĐ.
 Nguyên tắc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội
Người lao động là thành viên trong xã hội, tham gia quan hệ lao động để đảm
bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình mình, nên các chế độ lao động không chỉ
liên quan đến người lao động mà còn liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội, do đó
trong quá trình điều chỉnh các quan hệ lao động, Luật lao động phải kết hợp hài hòa

giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Quan hệ lao động vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội. Khi điều tiết quan hệ
lao động, Nhà nước phải chú ý đến các bên trong quan hệ này, nhất là người lao
động, về tất cả các phương diện như : lợi ích vật chất, tinh thần, nhu cầu xã hội v.
v... và đặt những vấn đề đó trong mối tương quan phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã
khẳng định: “ phải có chính sách xã hội là động lực để phát triển kinh tế, nhưng
7


đồng thời phải có chính sách kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện chính sách xã
hội”.
Kết hợp chính sách kinh tế là sự vận dụng đồng bộ, hài hòa các chính sách đó
để bổ sung cho nhau trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hộ thuộc lĩnh vực
lao động. Luật lao động phải kết hợp hai chính sách trên bởi yêu cầu phải phù hợp
với các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Trong các quan hệ thuộc lĩnh vực lao
động vừa có các nội dung kinh tế như tăng trưởng để có thu nhập, lợi nhuận,...vừa
có các yếu tố xã hội như việc làm, thất nghiệp, đảm bảo đời sống, phân phối công
bằng,..thực tế, các quy định của Nhà nước về lao động không chỉ liên quan đến
NLĐ vá NSDLĐ mà còn liên quan đến mức độ đầu tư, sự phát triển kinh tế và đời
sống toàn xã hội. Vì vậy khi điều tiết các quan hệ này, Nhà nước phải chú trọng hai
phương diện đó và đặt chúng trong sự phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội trong
từng thời kỳ, tương quan với các chính sách xã hội khác.
Như vậy, bên cạnh mục tiêu kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, sự tăng trưởng
trong sản xuất, kinh doanh, Luật lao động phải giải quyết các vấn đề xã hội như:
việc làm, công bằng, dân chủ, tương trợ cộng đồng ngay trong quá trình lao động,
ngay tại các doanh nghiệp. Nếu pháp luật lao động tách rời hoặc coi nhẹ chính sách
xã hội thì sẽ không hạn chế được những tiêu cực của cơ chế thị trường và ngược
lại, nếu coi trọng các vấn đề xã hội quá mức so với điều kiện kinh tế thì sẽ không
có tính khả thi.

Thực hiện tư tưởng đó, luật lao động hiện hành không quy định chi tiết quyền
nghĩa vụ và lợi ích của các bên, để các bên được tự do thỏa thuận theo hướng có lợi
cho NLĐ, phù hợp với điều kiện và khả năng của từng đơn vị, từng thời kì,... cũng
là để thực hiện mục đích xã hội ngay trong từng bước phát triển kinh tế. Luật lao
động còn có nhiều quy định khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút
nhiều lao động, khuyến khích sử dụng lao động đạt hiệu quả cao; đồng thời cũng
khuyến khích quản lý lao động dân chủ, công bằng, văn minh trong các doanh
8


nghiệp, từng bước cải thiện điều kiện cho NLĐ, nâng cao thu nhập cho họ. Bên
cạnh quyền tự do thuê mướn lao động, các nhà đầu tư cũng phải thực hiện nghĩa vụ
để giải quyết việc làm đối với người tàn tật bằng những phương thức phù hợp, phải
ưu tiên tuyển chọn lao động nữ và đảm bảo điều kiện làm việc chi họ. Sự cải tiến kĩ
thuật, công nghệ của NSDLĐ phải được thực hiện đồng thời với đầu tư cải thiện
điều kiện lao động, đảm bảo việc làm và đào tạo nâng cao trình độ cho NLĐ. Các
mức đóng góp, chi trả của các bên như trợ cấp thôi việc, mất việc, bảo hiểm xã
hội,...đều phải trên cơ sở khả năng kinh tế của họ. với rủi ro trong tai nạn lao động
như thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn khách quan tại nơi làm việc, bị phá sản doanh
nghiệp...thì NSDLĐ phải có trách nhiệm chính nhưng NLĐ cũng phải gánh chịu ở
mức độ hợp lý...
Ở tầm vĩ mô, Chính phủ có sự hỗ trợ về tài chính cho những địa phương,
ngành có nhiều người thiếu việc làm, hoặc mất việc làm do thay đổi cơ cấu công
nghệ; phải có sự hỗ trợ cho các quỹ giải quyết việc làm, bảo trợ cho quỹ bảo hiểm
xã hội. Pháp luật lao động cũng có những ưu tiên về vay vốn, giảm thuế, hỗ trợ
trang thiết bị ban đầu,... cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tàn tật,
lao động nữ để giải quyết các vấn đề xã hội và đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Các quy định trên được thể hiện trong rất nhiều nội dung của luật lao động, rõ
nét nhất trong các chế định: việc làm, học nghề, HĐLĐ, bảo hộ lao động, bảo hiểm

xã hội, các chế độ dối với lao động đặc thù,...hệ thống các quy định đó đã góp phần
phát triển kinh tế trong từng đơn vị và trên toàn xã hội, đồng thời, bảo vệ được
NLĐ và đảm bảo công bằng xã hội trong lĩnh vực lao động.
Quán triệt nguyên tắc này, pháp luật lao động đã góp phần quan trọng bảo vệ
người lao động, khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp
nhằm tăng trưởng kinh tế đất nước, xây dựng xã hội công bằng và văn minh.

9


Chương 2
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ CHÍNH
SÁCH XÃ HỘI

2.1 Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội

10


Về bản chất và trong tổng thể chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải là
một thể thống nhất, và phụ thuộc lẫn nhau. Sự thống nhất, và phụ thuộc lẫn nhau
trong mối quan hệ hữu cơ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội biểu hiện:
- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tuy có mục tiêu riêng, mục tiêu tự
thân của nó, song lại có mục tiêu chung là nhằm phát triển xã hội. Vì vậy, mọi
chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều hướng vào mục tiêu trung tâm là phát
triển con người, phát huy nhân tố con người, đảm bảo công bằng về quyền lợi và
nghĩa vụ công dân. Công bằng xã hội là định hướng cơ bản của chủ nghĩa xã hội,
còn tăng trưởng kinh tế trong cơ chế thị trường là phương tiện để thực hiện nhanh
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thúc đẩy phát triển xã hội và tiến bộ xã hội. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã ghi “Chính sách xã

hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
- Chính sách xã hội là yếu tố của sự phát triển và nằm trong yếu tố phát triển,
vì vậy, đầu tư cho chính sách xã hội chính là đầu tư cho phát triển. Nếu có chính
sách phát triển kinh tế đúng đắn sẽ tạo ra điều kiện, tiền đề vật chất để giải quyết
các vấn đề xã hội, ngược lại giải quyết tốt các vấn đề xã hội bằng những chính sách
phù hợp sẽ tạo ra cái nền ổn định xã hội để phát triển kinh tế.
Rõ ràng bao giờ cũng phải xác lập quan hệ hợp lý giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, để không chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu
không sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, hạn chế, thậm chí thủ tiêu tăng
trưởng kinh tế, hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội. Chính sách xã hội còn tạo ra
động lực của sự phát triển, bởi vì giải quyết tốt các vấn đề xã hội chính là thực hiện
giải phóng sức sản xuất, tiềm năng lao động, hướng tới xây dựng con người làm

11


chủ xã hội. Vì vậy, không thể coi chính sách xã hội là “cái đuôi” và đi sau chính
sách kinh tế.
- Chính sách kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, trên cơ sở tạo việc
làm cho người dân, giảm bớt các khâu lao động thủ công, cải thiện điều kiện lao
động, tăng năng suất, tăng hiệu quả kinh tế, tăng số lượng và chất lượng hàng hóa
làm ra. Từ đó nguồn thu nhập của người dân lao động và nguồn phúc lợi vật chất
xã hội được gia tăng, tạo nên sự phồn vinh của cả cộng đồng. Nhưng hiệu quả của
sự tăng trưởng kinh tế rõ ràng phụ thuộc vào trình độ văn minh, trình độ tổ chức
của xã hội họ đang sống, vào trình độ văn hóa, hiểu biết của người lao động - tức là
chất lượng, kỹ năng lao động, tay nghề của họ. Đồng thời, năng suất, hiệu quả lao
động còn chịu ảnh hưởng của điều kiện sinh sống hàng ngày, sự hưởng thụ các
phúc lợi y tế, văn hóa, giáo dục. Những yếu tố này giúp người lao động nâng cao

kiến thức và sức khỏe. Được nghỉ ngơi giải trí, có khả năng nhanh chóng hồi phục
sức lao động đã bị hao phí.
Những chính sách xã hội nhằm thúc đẩy những tiến bộ về các mặt văn hóa,
chính trị, xã hội, thỏa mãn những nhu cầu trí tuệ, tinh thần, tình cảm, thẩm mỹ của
con người, kể cả những nhu cầu giao tiếp xã hội, thông tin rộng rãi giữa cá nhân và
cộng đồng, thông qua việc mở rộng sinh hoạt dân chủ, tự do, tăng cường các phúc
lợi công cộng y tế, văn hóa, giáo dục, giao thông, bưu điện. Những nhu cầu trên
đây của con người được thỏa mãn ngày càng cao thì càng tạo cho con người năng
lực và nhiệt tình lao động để phát triển kinh tế, tạo nên những của cải vật chất ngày
càng dồi dào. Đồng thời, sự tăng trưởng kinh tế rõ ràng tạo cơ sở vật chất và điều
kiện thuận lợi cho việc thỏa mãn những nhu cầu văn hóa, chính trị, tinh thần.
- Tăng trưởng kinh tế không tự nó giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội,
mặc dù các chương trình phát triển kinh tế sẽ được lồng ghép, kết hợp để giải quyết
những vấn đề xã hội rất cơ bản, như vấn đề việc làm, chống đói nghèo, tệ nạn xã
12


hội. Vì vậy, đòi hỏi phải có các chính sách, chương trình xã hội riêng biệt để giải
quyết các đối tượng, các địa bàn và các loại vấn đề xã hội cụ thể nổi lên gay gắt
trong từng thời điểm nhất định do hậu quả hoặc do khiếm khuyết của cơ chế thị
trường gây ra. Các chính sách xã hội và chương trình xã hội phải được thực hiện
đồng thời với các chính sách kinh tế để tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế cũng không tự nó dẫn tới tiến bộ xã hội, mặc dù tăng
trưởng kinh tế có thể thúc đẩy phát triển xã hội. Điều này thấy rất rõ trong các nước
tư bản, khi lấy kinh tế thị trường tự do làm mục tiêu và mô hình phát triển.
Chính sách kinh tế và chính sách xã hội có những đặc trưng cơ bản rất khác
nhau về mục tiêu, đối tượng, phạm vi tác động, nhu cầu vốn và đầu tư, cơ chế vận
hành và hệ thống tổ chức thực hiện.
- Về mục tiêu, các chính sách kinh tế phải lấy tăng trưởng làm chính, tất nhiên
là có tính đến những hậu quả về mặt xã hội. Song mục tiêu chính sách xã hội

thường tổng hợp hơn, phải kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội, thông qua các biện
pháp kinh tế.
- Đối tượng tác động chủ yếu của chính sách kinh tế là phải hướng vào các
chủ thể kinh tế. Đó là các đơn vị, cá nhân làm kinh tế. Chính sách đó chủ yếu là tạo
ra môi trường, hành lang để các chủ thể đó hoạt động một cách tự chủ, Nhà nước
cũng có chính sách khuyến khích hoặc trợ giúp khi cần thiết. Còn đối tượng tác
động của các chính sách xã hội là cộng đồng, là các tầng lớp dân cư trên quy mô cả
nước hoặc trong từng khu vực, lĩnh vực hoạt động cụ thể, đặc biệt là các đối tượng
thiếu những điều kiện thuận lợi để hòa nhập vào cộng đồng cùng phát triển.
- Chính sách kinh tế thường phân ra chính sách chung cho mọi đối tượng,
chính sách ngành và lĩnh vực, chính sách vùng và khu vực. Còn chính sách xã hội
thường lại phân theo từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng cần phải giải quyết.
13


- Nhu cầu về vốn và phương thức huy động vốn để thực hiện chính sách kinh
tế chủ yếu là vốn tự có sản xuất kinh doanh của người kinh doanh, ngoài ra có thể
huy động bằng vay ngân hàng, vốn liên doanh, liên kết hoặc vốn cổ phần. Ngược
lại, nhu cầu về tài chính của chính sách xã hội thường lấy từ ngân sách, một phần
từ trợ giúp nhân đạo quốc tế và đóng góp của cộng đồng. Thông thường nhu cầu
này được huy động để hình thành các quỹ.
- Phương thức đầu tư trong chính sách kinh tế là đầu tư theo chiều sâu và đồng
bộ hóa, đối với kỹ thuật và công nghệ để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ chất lượng
cao, có sức cạnh tranh lớn, nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Còn phương thức đầu
tư của chính sách xã hội có thể không hoàn lại hoặc trợ giúp để các nhóm đối tượng
có điều kiện hòa nhập vào cộng đồng, cũng có thể thông qua hình thức tín dụng với
lãi suất nâng đỡ để giải quyết một vấn đề xã hội.
- Về cơ chế vận hành một chính sách kinh tế chủ yếu là theo cơ chế vận hành
trong phạm vi chính sách quy định để đến mục tiêu đã định. Song để vận hành
chính sách xã hội bao giờ cũng phải có một cơ quan chủ trì chỉ đạo thực hiện. Xu

hướng chung là chính sách giải quyết các vấn đề xã hội được thực hiện thông qua
hàng loạt các chương trình, dự án cụ thể.
- Trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế trong cơ chế thị trường sẽ
dẫn đến hình thành các tổ chức của giới người kinh doanh và giới thợ, các hội và
hiệp hội nghề nghiệp. Trong quá trình thực hiện một chính sách xã hội để phát huy
vai trò của cộng đồng tất yếu sẽ hình thành các hội có tính chất phi chính phủ với
hai hình thức cơ bản là hội của bản thân đối tượng và hội trợ giúp đối tượng.
- Hiệu quả của một chính sách kinh tế đúng sẽ được đánh giá chủ yếu thông
qua chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Song hiệu quả của một chính sách xã hội chủ yếu
được thể hiện ở ổn định xã hội, giảm thất nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống.
14


Đồng thời, việc thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã hội, vẫn còn có
khả năng xuất hiện những mâu thuẫn nhất định:
- Việc thực hiện chính sách kinh tế trong khi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy
luật của kinh tế thị trường, phải đảm bảo tính hiệu quả kinh tế, phải chấp nhận cạnh
tranh, có thể sẽ dẫn đến phá sản, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã
hội và tạo ra môi trường thuận lợi cho tệ nạn xã hội phát triển, nguy cơ làm chệch
hướng xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn với chính sách xã hội, chính sách đảm bảo sự
phát triển hài hòa lợi ích xã hội với tư cách một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
- Mặc dù trong chính sách kinh tế đã hàm chứa những giải pháp xã hội, nhưng
nhiệm vụ chủ yếu của nó là giải quyết những vấn đề kinh tế. Do vậy, chính sách
kinh tế, dù tối ưu đến đâu cũng không thể bao quát và giải quyết được tất cả những
khía cạnh phức tạp của lĩnh vực xã hội rộng lớn. Theo đó, những giải pháp kinh tế,
nếu không đi kèm theo các giải pháp xã hội nhất định có thể sẽ làm nảy sinh nhiều
vấn đề xã hội nhức nhối.
Cũng có những chính sách kinh tế đưa ra còn có kẽ hở, khiến một số kẻ đã lợi
dụng, làm giàu bất hợp pháp, còn người làm ăn chân chính lại thiệt hại. Vì thế, cần
phải có những chính sách xã hội nhất định để bổ sung cho chính sách kinh tế và

giải quyết những vấn để xã hội xuất hiện trong quá trình tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội.
- Ngược lại, việc thực hiện các chính sách xã hội cũng có thể mâu thuẫn với
chính sách kinh tế. Bởi vì, việc thực hiện các chính sách này vượt quá khả năng cho
phép của nền kinh tế, hoặc vi phạm những nguyên tắc công bằng trong kinh tế sẽ
có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
2.2 Sự cần thiết phải kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội

15


Trong xã hội hiện nay, phát triển kinh tế dù được thực hiện bằng cách nào,
cũng đều phải thông qua những chính sách kinh tế nhất định. Những tiến bộ trong
lĩnh vực xã hội không diễn ra một cách tự động, mà phụ thuộc vào những chính
sách xã hội của Nhà nước.
Chính sách xã hội không thể thoát ly khỏi chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô.
Song đi vào những chính sách cụ thể lại thường phát sinh những mâu thuẫn, đặc
biệt là trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường ở nước ta. Vì vậy, phải kết hợp hài hòa giữa chính sách xã
hội và chính sách kinh tế để vừa tránh chủ quan duy ý chí, vừa khắc phục được xu
hướng chạy theo thị trường tự do đơn thuần. Nói cách khác, sự kết hợp hai loại
chính sách đó nhằm mục đích vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo thực
hiện các mục tiêu xã hội.
Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, đòi hỏi các nhà hoạch định
và thực thi chính sách, phải phân tích mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội để vừa khai thác tính thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.
Đồng thời, xác định được những sự khác nhau giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội, để kết hợp và có những biện pháp xử lý thật hợp lý mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Tác động của sự kết hợp giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế nhằm

tạo ra sự cân bằng rất cần thiết cho đời sống xã hội, giữa các mặt hoạt động cơ bản
của nó, giữa kinh tế và văn hóa, kinh tế và chính trị, pháp luật, kinh tế và quốc
phòng an ninh. Đó là những yếu tố cần thiết cho sự phát triển ổn định, vững chắc
của một cộng đồng xã hội.
Hoạt động kinh tế chỉ có hiệu quả thực sự khi nó tác động trực tiếp đến những
lợi ích khác nhau (cả vật chất, tinh thần, văn hóa, chính trị, quốc phòng an ninh)
của các thành viên trong xã hội. Cho nên, việc bảo đảm các chính sách xã hội trong
16


các hoạt động kinh tế là điều không thể xem nhẹ. Nó là một đòi hỏi tất yếu được
xuất phát từ quy luật phát triển kinh tế đồng thời với tiến bộ xã hội.
2.3 Các nguyên tắc kết hợp
Trong quá trình kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, cần chú
ý một số vấn đề có tính chất nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, trong hoạch định chính sách phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy luật
của nền kinh tế hàng hóa để phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế, đồng thời
phải lường trước những mặt khiếm khuyết để chủ động điều chỉnh thông qua cơ
chế và chính sách phù hợp và kịp thời.
Thứ hai, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình hoạt động sản xuất
- kinh doanh của các chủ thể kinh tế, mà bằng cách tạo ra môi trường pháp lý cho
họ. Nhà nước phải tăng cường can thiệp đến mức tối đa vào giải quyết các vấn đề
xã hội, đặc biệt là các vấn đề chương trình mục tiêu.
Thứ ba, cần phải hết sức coi trọng việc xã hội hóa cả trong nhận thức và
hành động về mối quan hệ quốc gia giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội;
phải quán triệt trong tất cả các ngành, các cấp và mọi người, đặc biệt là trong các
cơ quan và cán bộ hoạch định và triển khai thực hiện chính sách.
Thứ tư, trong việc kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải
biết lựa chọn ra những chính sách gốc, xác định những vấn đề xã hội cần ưu tiên
giải quyết.

Chương 3
GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO SỰ KẾT HỢP HÀI HÒA GIỮA
CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1. Thực trạng chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay

17


Ở Việt Nam, chính sách kinh tế của Nhà nước là xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động, phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có với cơ cấu công nghiệp nông nghiệp - dịch vụ hợp lý, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và phát triển nền
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chính sách kinh tế và chính sách xã hội là những công cụ điều tiết và quản lý
vĩ mô của Nhà nước, có tác động đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội cảu mỗi
quốc gia. Thông qua các chính sách kinh tế, chính sách xã hội, Nhà nước có thể
thực hiện được các chức năng chủ yếu của mình như: nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội, giữ ổn định kinh tế - xã hội.
Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy, sự phát triển kinh tế cũng đồng thời kéo
theo hàng loạt các vấn đề xã hội như nạn thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo, mất
cân bằng sinh thái, các chứng bệnh nan y và cả sự thay đổi về các giá trị đạo đức,
giá trị tinh thần,... Theo quan điểm hiện đại, mục tiêu phát triển bền vững không chỉ
dựa trên những thành quả của phát triển kinh tế mà còn bao hàm cả các chỉ tiêu về
phát triển giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, các chỉ tiêu về phát triển con người,
phát triển khoa học, công nghệ và các chỉ tiêu về bảo vệ môi trường,... Chính vì
vậy, bên cạnh các chính sách kinh tế, chính sách xã hội đống vai trò như một cán
cân điều tiết, đem lại đời sống tốt đẹp, sự công bằng, dân chủ cho mỗi thành viên
trong xã hội.
Thực tiễn ở Việt Nam từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay cho thấy, hông
qua đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực
hiện các chính sách kinh tế, chính sách xã hội đã đạt được nhiều thành tựu. Nhờ

nhận thức rõ vai trò của chính sách xã hội và sự cần thiết phải tăng cường đầu tư
cho phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam đã chú trọng giải quyết những tiền đề và
điều kiện cho phát triển con người và cộng đồng bằng cải cách tiền lương, nâng cao
thu nhập, cải thiện điều kiện lao động, ăn ở, đẩy mạnh dạy nghề, đào tạo, bồi
dưỡng nghề, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho lao động, giải quyết có
18


hiệu quả việc làm cho lao động, kể cả xuất khẩu lao động, chú trọng phát triển
mạnh mẽ kinh tế tư nhân, đang triển khai mạnh mẽ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, sửa đổi và hoàn thiện các bộ luật quan trọng về kinh tế, trong đó có Luật Đầu
tư, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp... Nền kinh tế đã có bước phát
triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế, tổng
sản phẩm trong nước (GDP) tăng; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt, văn hóa – xã hội không ngừng tiến bộ, khả năng độc lập, tự chủ
tăng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên phương diện xã hội, hàng loạt chính sách nhằm bảo đảm an sinh xã hội, an
ninh trong cuộc sống, an toàn trong lao động, chăm sóc các đối tượng yếu thế, các
đối tượng được hưởng ưu đãi, các chính sách phát triển ở vùng dân tộc thiểu số,
chăm sóc trẻ em, người già, phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trong phát triển...
được thực hiện có hiệu quả. Đó là sự kết hợp kinh tế - xã hội trong phát triển, thực
hiện tăng trưởng kinh tế để chăm lo cải thiện cuộc sống cho mọi đối tượng người
dân, bảo đảm công bằng xã hội để kích thích tăng trưởng kinh tế...
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, còn tồn tại nhiều bất cập, điển
hình là:
Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích lũy nội bộ và sức
mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công
nghiệp háo, hiện đại hóa, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Đầu tư của nhà nước
còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài thiếu ổn
định, quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển

lực lượng sản xuất.
Các vấn đề như giáo dục , đào tạo, y tế,... còn yếu về chất lượng, còn nhiều bất
cập. Cơ sở vật chất còn hạn chế.
Đời sống của đại bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng núi,
vùng sâu và vùng thường xuyên bi thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và
không có việc làm (thất nghiệp) còn lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi,
19


nạn ma túy, mại dâm,...có chiều hướng lan rộng. Tai nạn giao thông ngày càng tăng.
Môi trường sống bị ô nhiễm nhiều...
Những yếu kém bất cập nói trên có phần do điều kiện khách quan, nhưng chủ
yếu là do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành mà trước
hết là sự thiếu ăn khớp, thiếu hài hòa, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội trong hệ thống công cụ quản lý thống nhất (luật lao động) của Nhà
nước.
Để hướng tới việc tạo lập một nước Việt Nam thịnh vượng, công bằng, dân chủ,
văn minh, hướng tới phát triển kinh tế - xã hội bền vững cần kết hợp, lồng ghép các
chính sách kinh tế và chính sách xã hội vào các chế định của pháp luật (luật lao
động) nhằm đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của các chính sách. Thực hiện tốt
vấn đề này đồng thời cũng là thực hiện tốt chủ trương mà Đảng ta đã đề ra nhằm
đạt mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực, ở mọi mặt của
đời sống xã hội. Trong phạm vi của luật lao động, việc kết hợp hài hòa hai chính
sách trên sẽ giúp cân bằng được lợi ích của các bên trong quan hệ lao động, đảm
bảo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, nhiệm vụ thiết
yếu là cần đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hòa chính sách kinh tế
và chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam hiện nay.
2. Giải pháp nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam
Bằng kiến thức, hiểu biết và nhìn nhận vấn đề dưới góc nhìn của một sinh

viên, tôi xin đề cập đến một số giải pháp như sau:
• Cần đưa ra các chế định về chính sách học nghề, việc làm phù hợp cho NLĐ.
Nhằm tạo việc làm, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp và nâng cao trình độ chuyên
môn cho NLĐ.
Xét về phương diện kinh tế - xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo
ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận.
20


Đi liền với khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp bởi việc làm và thất
nghiệp là hai phạm trù luôn đi liền với nhau. Đối với cá nhân NLĐcó việc làm có
nghĩa là không thất nghiệp và ngược lại. Đối với quốc gia, việc làm và thất nghiệp
là những phản ánh quan trọng về trạng thái kinh tế xã hội của quốc gia đó. Ngày
nay, để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của quốc gia người ta thường căn cứ vào
các chỉ số như chỉ số tăng trưởng GDP (chỉ số tăng trưởng tổng sản phẩm quốc
nội), HDI (chỉ số phát triển con người), chỉ số lạm phát, chỉ số thất nghiệp. Vì vậy,
giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ hạn chế được số lượng lao động thất nghiệp, kiểm
soát được thất nghiệp.
Nói về việc làm, Bộ luật lao động đã quy định: “ mọi hoạt động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” (Điều 13, Bộ luật
lao động).
Như vậy, việc làm (vấn đề việc làm là vấn đề về kinh tế) đã được chú trọng
trong pháp luật của Nhà nước mà cụ thể là trong luật lao động Việt Nam. Khái
niệm việc làm trong bộ luật lao động phản ánh nội dung kinh tế - xã hội của việc
làm và phản ánh tính chất pháp lí của việc làm.
Đối với bản thân NLĐ, có việc làm sẽ tạo điều kiện và cơ hội để NLĐ có thu
nhập, đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình đồng thời đóng góp cho xã hội.
Đối với mỗi quốc gia, giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ là điều kiện và cơ sở để
triển khai các chính sách xã hội khác như phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,... góp
phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Như vậy, trên cả hai bình diện

đối với cá nhân NLĐ và xã hội, việc làm luôn có vai trò hết sức quan trọng.
Về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu quả của việc
giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả của sản xuất. Kinh tế phát
triển sẽ tạo điều kiện để giải quyết tốt các vấn đề việc làm và ngược lại, nếu không
giải quyết tốt vấn đề việc làm và thất nghiệp thì đó sẽ là những yếu tố kìm hãm sự
tăng trưởng của kinh tế. Do vậy, các chính sách kinh tế có mối quan hệ trực tiếp đối
với các chế định về việc làm của bộ luật lao động.
21


Về mặt xã hội, giải quyết việc làm có mục tiêu hướng toàn dụng lao động,
chống thất nghiệp và khắc phục tình trạng thiếu việc làm, bảo đảm thu nhập. Bảo
đảm việc làm là chính sách xã hội có hiệu quả to lớn trong vấn đề phòng, chống
hạn chế các tiêu cực xã hội, giữ vững được kỷ cương, nề nếp xã hội. Vấn đề việc
làm không ổn định, thất nghiệp, thiếu việc làm, thu nhập thấp là tiền đề của xã hội
đối nghèo, chậm phát triển, tiêu cực và các tệ nạn xã hội. Các chỉ số việc làm cũng
phản ánh mức độ lành mạnh, ổn định của xã hội và là những yếu tố quan trọng để
bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội.
Do vậy, việc xây dựng các chính sách về việc làm trong pháp luật lao động
Việt Nam là vấn đề cần thiết, mang tính tất yếu nhằm phát triển xã hội. Cần đưa ra
các quy định cụ thể, sát thực nhằm bảo vệ NLĐ, đảm bảo việc làm của NLĐ, tạo
việc làm, giữ ổn định công việc cho những NLĐ đang có việc làm.
Từ góc độ pháp luật, trong bối cảnh toàn cầu hóa, ngoài cơ sở luật pháp quốc
gia, vấn đề lao động - việc làm còn được điều chỉnh hoặc chịu sự ảnh hưởng chi
phối của các công ước quốc tế về lao động. Các nước dù muốn hay không cũng
phải áp dụng hoặc tiếp cận với những “luật chơi chung” và “sân chơi chung” ngày
càng khó khăn và quy mô hơn. Nhằm tạo điều kiện tối đa để NLĐ có cơ hội việc
làm, ổn định thu nhập bảo đảm cho cuộc sống.
Các chương trình việc làm cho NLĐ cũng là một biện pháp nhằm giải quyết
tốt vấn đề việc làm. Cần quy định cụ thể hơn về số lượng và quy mô các chương

trình việc làm. Nhất là phải đưa các chương trình này về đến vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn và phải có hiệu quả. Nhằm giải quyết việc làm cho số
lượng lớn NLĐ thất nghiệp tập trung ở các vùng này.
Quỹ giải quyết việc làm phải được chú trọng; dạy nghề cần gắn với việc làm.
Cần quy định cụ thể hơn về dạy nghề, đào tạo, đặc biệt là vấn đề đầu ra sau đào tạo.
Các quy định về xuất khẩu lao động cần cụ thể và nhằm bảo vệ NLĐ tuyệt đối để
tạo điều kiện khuyến khích NLĐ đi xuất khẩu lao động. Các thủ tục giải quyết trợ
cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp và bảo hiểm (BHXH, BHYT,...) cần đơn giản hóa,
nhanh gọn, tạo điều kiện để NLĐ hưởng đúng quyền lợi của họ.
22


• Xây dựng các quy định, chính sách về tiền lương:
Vấn đề tiền lương luôn là vấn đề quan trọng của mọi thời đại, tiền lương chính
là giá cả của sức lao động vì vậy mà nó gắn liền với mọi phương thức sản xuất và
các hình thức kinh tế.
Tiền lương là nguồn thu nhập, nguồn sống chủ yếu của đại bộ phận NLĐ và
gia đình họ. Lương thực, thực phẩm và các dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống sinh
hoạt hàng ngày của bản thân và gia đình NLĐ phần ớn được đáp ứng từ nguồn tiền
lương của họ. Điều đó cho thấy mức độ duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống
của NLĐ đến đâu sẽ phụ thuộc rất nhiều vào số tiền lương mà họ nhận được khi
tham gia quan hệ lao động.
Tiền lương là cơ sở định hướng nghề nghiệp cho NLĐ, là mục tiêu phấn đấu
trong suốt cuộc đời lao động của họ, kích thích NLĐ tăng năng suất lao động, phát
huy tài năng, sáng tạo, tích lũy kinh nghiệm... Ở mức độ nhất định, tiền lương còn
khẳng định địa vị của NLĐ trong gia đình và ngoài xã hội...
Đối với NSDLĐ, tiền lương là bộ phận quan trọng của chi phí sản xuất. Vì
vậy tiền lương là một trong những căn cứ để NSDLĐ hoạch định chiến lược sản
xuất kinh doanh, tổ chức và quản lý lao động trong đơn vị.
Thông qua vai trò kích thích NLĐ phát huy tài năng, sáng tạo, tích lũy kinh

nghiệm...tiền lương chính là đòn bẩy kinh tế, thúc đẩy tiết kiệm nguyên vật liệu,
tăng năng xuất lao động và tăng trưởng kinh tế trong doanh nghiệp.
Đối với Nhà nước, xã hội, tiền lương chính là bộ phận cấu thành thu nhập
quốc dân, nằm trong chính sách phân phối tổng sản phẩm xã hội của Nhà nước. Vì
vậy trực tiếp hay gián tiếp, tiền lương tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế xã
hội.
Xét từ vai trò của tiền lương trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Luật lao động
Việt Nam cần có những quy định chặt chẽ về tiền lương của NLĐ. Nhằm triệt tiêu
tình trạng NSDLĐ chèn ép NLĐ, thêu lao động với mức giá rẻ mạt, bóc lột sức lao
động của NLĐ và “ bớt xén” tiền lương của NLĐ.

23


Các quy định này cần đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả thực hiện tối đa ở tất
cả các cơ sở sản xuất kinh doanh, ở mọi nơi, mọi lĩnh vực có tồn tại mối quan hệ
lao động.
Cũng cần xây dựng hệ thống thang, bảng lương cụ thể cho từng nấc sức lao
động của người lao động (mức sức lao động mà NLĐ bỏ ra trong quá trình lao
động). Nên chú trọng đến các ngành độc hại, các ngành công nghệ cao (đòi hỏi
chuyên môn và chất xám cao), đặc biết là đối với nhóm NLĐ sử dụng sức lao động
chất xám. Nhằm đảm bảo tiền lương, thưởng phù hợp, xứng đáng với công sức mà
NLĐ bỏ ra.
Đối với chính sách kinh tế thì đây là biện pháp nhằm thu hút nguồn nhân lực,
phát triển kinh tế.
Đối với chính sách xã hội sẽ giúp nâng cao mức thu nhập, ổn định và nâng cao
chất lượng đời sống, đồng thời các chế độ phúc lợi cũng được quan tâm hơn.
Xây dựng thang, bảng lương trong lao động cũng cần xem xét các yếu tố về
thời giờ làm việc, đặc biệt là trong các giờ làm thêm, tăng ca, các giờ làm đêm hay
các ngành nặng nhọc, độc hại...

Cũng cần quy định chặt chẽ hơn trong việc trả lương cho NLĐ khi giải quyết
thôi việc. Để đảm bảo NSDLĐ sẽ trả lương đúng mức quy định cho NLĐ trong
thời gian nhanh nhất, thủ tục đơn giản nhất, tránh tình trạng gây khó dễ khiến NLĐ
phải “từ bỏ ý định” nhận lương và các khoản trợ cấp sau khi thôi việc (thôi việc
trong các trường hợp Luật quy định).
• Cần nâng cao các quy định, quy tắc nghiêm ngặt về bảo hộ lao động:
Hiện nay hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp ít quan tâm đến vấn đề bảo hộ lao
động cho NLĐ mà đa phần họ muốn tiết kiệm các chi phí cho vấn đề bảo hộ lao
động vì mục đích lợi nhuận. Do vậy NSDLĐ thường sử dụng các biện pháp lách
luật để tránh các vấn đề bảo hộ cho NLĐ.
Trong khi đó bảo hộ lao động có vai trò vô cung quan trọng đối với NLĐ. Nó
là điều kiện để bảo đảm an toàn và bảo vệ sức lao động trong quá trình lao động.
Bởi vì trong thực tế có rất nhiều ngành nghề độc hại, ảnh hưởng trực tiếp đến sức
24


khẻo của NLĐ, cũng như các thế hệ trong tương lai. Vậy đảm bảo các quy định về
bảo hộ lao động là điều quan trọng và cần thiết nhất. Không chỉ ảnh hưởng đến cá
nhân NLĐ mà còn ảnh hưởng đến doanh nghiệp, sự phát triển của nền kinh tế, ảnh
hưởng đến toàn xã hội.
• Cần xây dựng các chính sách nhằm nâng cao hơn nữa quyền của NLĐ:
Vì trong mối quan hệ lao động NLĐ bao giờ cũng là người yếu thế hơn, họ bị
lệ thuộc vào NSDLĐ ở rất nhiều vấn đề. NSDLĐ là người nắm giữ mọi thứ từ công
việc (tạo công việc cho NLĐ), tư liệu sản xuất họ cũng là người quyết định có tiêp
tục thuê NLĐ hay không, cũng như các vấn đề về tiền lương, thưởng,...hầu như có
thể xem NSDLĐ nắm giữ các điều kiện vật chất để đảm bảo cuộc sỗng của NLĐ.
Do đó, việc xây dựng hệ thống các chính sách nhằm nâng cao quyền lợi của
NLĐ là điều đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên các chính sách đó cũng cần đảm bảo
kết hợp hài hoà giữa lợi ích của NLĐ và NSDLĐ nhằm đảm bảo tính công bằng
trong pháp luật lao động Việt Nam.

Một số chính sách nhằm nâng cao quyền của NLĐ như: tổ chức đối thoại nơi
làm việc. Quy định cụ thể hơn về cách thức tổ chức các cuộc đối thoại tại nơi làm
việc, các chính sách về thương lượng tập thể, ký kết thỏa ước lao động tập thể, đình
công, tranh chấp lao động,...
Việc xây dựng các chính sách về thương lượng tập thể và thỏa ước lao động là
yếu tố quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ cũng nhưu cân bằng lợi ích
của hai bên. Vì:
Thỏa ước tập thể có ưu điểm là rất uyển chuyển và dễ thích ứng với thực tại xã
hội bởi nó có bản chất pháp lý song hợp. Sự song hợp này được thể hiện ở việc
thỏa ước tập thể vừa mang tính chất hợp đồng vừa mang tính chất quy phạm.
Nếu tập thể lao động hoặc NSDLĐ thấy rằng cần phải có thỏa ước tập thể để
ràng buộc trách nhiệm đối với phía bên kia thì các bên có quyền yêu cầu ký kết
thỏa ước và cùng nhau ngồi vào bàn đàm phán thương lượng. Trong quá trình
thương lượng, mỗi bên đều được quyền đưa ra ý kiến của mình và các ý kiến đó
được coi trọng ngang nhau.
25


×