Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.18 KB, 58 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dùng pháp luật hoặc đạo đức để cai trị đã trở thành thuật trị nước, an dân từ
ngàn xưa của các nhà nước. Dưới mỗi triều đại, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội đặc thù của mình mà các giai cấp cầm quyền lựa chọn một phương thức
quản lý nhà nước thích hợp, hiệu quả, đó có thể là đức trị (quản lý xã hội bằng đạo
đức), là pháp trị (quản lý xã hội bằng pháp luật) hoặc kết hợp cả hai phương thức đó.
Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của các triều đại
phong kiến, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quan điểm Phật giáo, Nho giáo nên
phương thức cai trị xã hội bằng pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật còn bị
xem nhẹ. Chính vì vậy, đạo đức giữ vai trò to lớn trong điều chỉnh các quan hệ xã
hội (QHXH). Cùng với nền văn hóa lúa nước: tương thân, tương ái, đoàn kết, nhân
hòa, khoan dung, trọng nghĩa... hàng loạt QHXH đã được điều chỉnh bằng hệ thống
quy phạm đạo đức. Có thể nói, đạo đức đã len lỏi đến từng mối QHXH, thấm đẫm
trong tư tưởng đối nhân xử thế của người Phương Đông nói chung và người Việt
Nam nói riêng. Khi các QHXH ngày càng phát triển đa dạng và phong phú thì bên
cạnh việc sử dụng các chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh xã hội, các triều đại phong
kiến đã từng bước để ý đến việc xây dựng pháp luật nhằm thể chế hóa những chuẩn
mực đạo đức làm công cụ để điều chỉnh QHXH mang tính công quyền. Trong các
triều đại phong kiến Việt Nam, chúng ta đặc biệt ghi nhận vai trò của triều Lê (Tiền
Lê) với đại biểu Lê Thánh Tông (1442-1497) – Người đã kết hợp nhuần nhuyễn đạo
đức với pháp luật trong thuật trị nước của mình.
Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, sự tàn bạo và hà khắc của pháp luật đô hộ lại
càng làm nhân dân có chung tâm lý xa luật, sợ luật bởi sự bóc lột và khai thác kiệt
quệ sức người, sức của, bởi sự bất bình đẳng giữa địa vị của người mất nước và kẻ
cướp nước. Đó là thứ pháp luật thống trị, xa rời những giá trị nhân văn bảo vệ quyền
con người và tất yếu nó bị nhân dân phản đối.
Bước ngoặt có tính lịch sử của thuật dựng nước, giữ nước, xây dựng đất nước
phồn thịnh bằng pháp luật gắn liền với công lao và sự nghiệp giải phóng dân tộc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người, đi tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước,
cứu dân cũng đồng thời là quá trình nhận thức, khẳng định vai trò, giá trị của pháp


luật trong dựng nước và giữ nước. Song, chính Người cũng là điển hình mẫu mực

12


trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức. Quản lý nhà nước bằng
pháp luật, nhưng phát huy tối đa vai trò của đạo đức trong xây dựng đời sống mới.
Đạo đức công dân giúp cho mỗi người tự giác nhận thức, tôn trọng và thực hiện
pháp luật. Đạo đức công chức góp phần ngăn chặn sự thoái hóa của người thực thi
quyền lực nhà nước. Đặc biệt, đạo đức xã hội chủ nghĩa (XHCN) chính là cơ sở xây
dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phù hợp với bản sắc
văn hóa Việt Nam... Tư tưởng hiến trị, pháp trị kết hợp với đạo đức của Người là
yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển không ngừng của hệ thống pháp luật XHCN
ở Việt Nam hiện nay.
Tại Điều 2, Hiến pháp 2013 (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 2013) khẳng định:
"Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"
Xây dựng NNPQ là nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Song không nên đề cao
một chiều đến mức tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật, coi pháp luật là yếu tố duy
nhất để điều chỉnh các QHXH, mà bỏ qua vai trò hỗ trợ của các quy tắc xã hội khác
như đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp và các quy tắc tôn giáo tiến bộ... Bởi vì
pháp luật chỉ tập trung đáp ứng được trong điều chỉnh những QHXH cơ bản và quan
trọng liên quan tới lợi ích và vận mệnh của toàn bộ quốc gia. Đạo đức và các quy tắc
xã hội khác sẽ bổ sung và lấp vào các khoảng trống trong các QHXH mà pháp luật
chưa vươn tới được. Ở mối quan hệ này ta thấy, trong pháp luật phải có đạo đức,
thiếu đạo đức, pháp luật xơ cứng và khó có thể thực hiện trong đời sống thực tế bằng
sự tự giác, bằng niềm tin, khó có thể đạt tới chuẩn mực của "văn hóa pháp lý".
Trong đạo đức cũng phải có pháp luật, thiếu pháp luật đạo đức mất sự định hướng
để phát triển các giá trị bên trong của mình, mất đi sự bảo hộ cho các chuẩn mực đạo

đức tồn tại và phát triển lâu bền.
Những năm gần đây, hàng loạt các văn bản pháp luật của nhà nước đã thể
hiện sự pháp luật hóa những giá trị đạo đức thành chuẩn mực pháp luật để điều
chỉnh những quan hệ phát triển không ngừng của đời sống xã hội như Luật Hôn
nhân và gia đình (2000), Bộ luật Lao động (2002), Pháp lệnh cán bộ công chức
(2003), Bộ luật Dân sự (2005)... Bên cạnh đó, sự thừa nhận và khuyến khích của nhà
nước đối với xây dựng hương ước mới, xây dựng bảo tồn những phong tục tập quán
có ý nghĩa trong hình thành và phát triển nhân cách con người mới lại một lần nữa

12


thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá của nhà nước về vai trò của đạo đức trong đời sống
xã hội. Có thể thấy giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ chặt chẽ qua lại
với nhau.
Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Đẩy
mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới"
là một bằng chứng hết sức sâu sắc và rõ ràng trong việc Đảng và Nhà nước nhận
định vai trò to lớn của sự kết hợp giữa pháp luật với đạo đức khi xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn hiện
nay.
Tuy nhiên, việc xây dựng thành một hệ thống chuẩn mực các giá trị đạo đức
mới-đạo đức cách mạng còn là công việc phức tạp và nhạy cảm trong đời sống chính
trị hiện nay. Hiệu quả của sự kết hợp pháp luật và đạo đức trên từng lĩnh vực của đời
sống xã hội cũng là rất khác nhau, nó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách lâu
dài, thống nhất cả về lý luận và thực tiễn để có thể đưa ra một cái nhìn tổng quát và
hữu hiệu, đem lại lợi ích thiết thực cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ những lý do phân tích nêu trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài:
"Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay" để làm

luận văn tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Luật học.
2. Tính mới của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước, về pháp
luật, về đạo đức.
- Lý giải sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật với đạo đức trong QLNN
đặc biệt là trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân hiện nay.
- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng về sự kết hợp pháp luật
với đạo đức trong QLNN ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo kết hợp pháp luật với đạo đức trong
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở
Việt Nam hiện nay.

12


3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, kiến giải vai trò của pháp luật, của đạo đức
trong xây dựng và quản lý xã hội, từ đó đưa ra phương thức kết hợp giữa pháp luật
và đạo đức để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quản lý nhà nước, đặc biệt là trong
giai đoạn chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện
nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam,
Xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
Đề xuất các quan điểm, giải pháp kết họp pháp luật và đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về lý luận
nhà nước, pháp luật và lý luận về QLNN.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là các phương pháp nghiên
cứu truyền thống của khoa học xã hội: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn,
phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống, phương
pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp tâm lý xã hội...
6. Bố cục đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đạo đức và pháp luật;
Chương 2: Thực trạng và giải pháp kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản
lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến quý Thầy, Cô khoa Luật - Trường Đại
Học Cần Thơ đã truyền đạt kiến thức cho tác giả trong suốt thời gian ngồi trên giảng

12


đường đại học, giúp tác giả có thể tiếp thu những kiến thức quý giá để hoàn thành
bài viết này.
Đặc biệt, tác giả xin chân thành cám ơn Ths Huỳnh Thị Sinh Hiền đã tận
tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện, quan tâm tốt nhất để giúp đỡ tác giả hoàn
thành tốt luận văn. Mặc dù trong quá trình nghiên cứu đã có sự cố gắng, nỗ lực của
bản thân cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn nhưng cũng
không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của quý Thầy, Cô để bài viết được hoàn thiện hơn.

12



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
1.1. Nguồn gốc của đạo đức và pháp luật
1.1.1. Nguồn gốc của đạo đức
* Quan điểm về nguồn gốc đạo đức của các nhà triết học trước Mác:
Các nhà triết học, đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo
đức hoặc ở ngay chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên
ngoài con người, bên ngoài xã hội. Nét chung của các lý thuyết này là không coi
đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực khách quan.
Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là những
hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó. Những chuẩn
mực đạo đức, do vậy là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con
người. Mọi biểu hiện đạo đức của con người do vậy đều là sự thể hiện cái thiện tối
cao từ đấng siêu nhiên; và tiêu chuẩn tối cao để thẩm định thiện - ác chính là sự
phán xét của đấng siêu nhiên đó.
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy
không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới "ý niệm" hoặc "ý niệm tuyệt đối", về
các lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như vậy.
Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực "tiên
thiên" của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là "thiện ý" theo cách gọi của
Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa
là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con người.
* Quan điểm mascxist về nguồn gốc của đạo đức:
Khác với tất cả các quan niệm trên, C. Mác, Ph. Ăngghen đã quan niệm đạo
đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Theo C. Mác, Ph. Ăngghen, con người khi sống phải có "quan hệ song
trùng". Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn
cuộc sống của mình. Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con người
phải xông vào tự nhiên để thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên,

con người không thể đơn độc, con người phải quan hệ với con người để tác động
vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người và người là hệ quả của hoạt động vật

12


chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận
thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển
của xã hội loài người, C. Mác, Ph. Ăngghen cho rằng "lao động là điều kiện cơ bản
đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người". Rằng "người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại
trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ thuật…". Xuất phát từ con người thực tiễn,
chứ không phải con người thuần túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến
quan niệm về phương thức sản xuất quyết định đối với toàn bộ các hoạt động của
con người, xã hội loài người. Trong "Lời tựa" của tác phẩm "Góp phần phê phán
chính trị - kinh tế học", Mác viết: "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết
định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức
của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ". Luận điểm này chính là chìa khóa để khám phá tất cả
các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên
ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự biểu hiện của
những năng lực "tiên thiên", nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là sự
phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, của cơ sở kinh tế. "Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ".
1.1.2. Nguồn gốc của pháp luật
Theo học thuyết Mác - Lênin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử
có cùng quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong, do đó những nguyên nhân làm
xuất hiện nhà nước cũng chính là nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật.

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có nhà nước bởi vậy không có
pháp luật, nhưng xã hội cộng sản nguyên thủy cần đến quy tắc để điều chỉnh hành vi
con người duy trì trật tự xã hội đó, bởi vậy đã xuất hiện các quy tắc xã hội bao
gồm tập quán, tín điều, tôn giáo. Tập quán này được mọi người thi hành một cách
tự nguyện theo thói quen không cần cưỡng chế, ép buộc.
Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời, xã hội phân chia thành
những giai cấp đối kháng, nhà nước xuất hiện, cùng với nó pháp luật cũng được
hình thành để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh trong quá trình quản lý nhà
nước. Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của xã hội có giai cấp. Pháp luật đầu tiên

12


của xã hội loài người là pháp luật của nhà nước chủ nô. Có thể nói pháp luật hình
thành từ các con đường:
Nhà nước thừa nhận những quy tắc vốn tồn tại trong xã hội và cải tạo
những quy tắc đó cho phù hợp với lợi ích của nhà nước (tập quán Pháp, án lệ) Thông
qua con đường hoạt động xã hội, nhà nước ban hành các văn bản pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội mới nảy sinh trong thực tế mà trước đó không có.
Bằng các con đường này, pháp luật được hình thành và thực hiện chức năng
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo sự quản lý của nhà nước. Dù được hình thành
bằng con đường nào thì pháp luật cũng thể hiện ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội,
thể hiện bản chất của nhà nước đó và phù hợp với cấu trúc của nhà nước đó. Cùng
với sự phát triển của kinh tế, xã hội, pháp luật ngày càng được chú trọng và hoàn
thiện. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thể hiện sự phát triển của một đất nước,
nó cũng là tiêu chí đánh giá một xã hội văn minh.
1.2. Khái niệm đạo đức và pháp luật
1.2.1. Khái niệm đạo đức
Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là
nói đến đạo đức. Đúng như thiên "Học Nhi" - sách Luận ngữ đã viết: "Làm người có

nết hiếu, đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích
làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì
đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân...". Trước thời Khổng Tử đã xuất
hiện khái niệm quân tử. "Nhưng thời đó nó trỏ cái địa vị trong xã hội, chứ không trỏ
cái phẩm tính con người. Người có phận cao (tối đại đa số ở trong giai cấp quý tộc)
cai trị dân, có đức hay không đều gọi là quân tử". Đến thời mình, Khổng Tử đã đề
ra những tiêu chuẩn về tài đức, về tư cách phẩm chất để thành người quân tử đáng
được nắm quyền trị dân, nhờ đó tiếng quân tử không còn thuần túy chỉ người cầm
quyền như trước nữa, mà chủ yếu là có nghĩa chỉ người có đức dù họ cầm quyền
hay không.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, khái niệm đạo đức cũng được đề cập
đến tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005: "Đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa
nhận và tôn trọng".
1.2.2. Khái niệm pháp luật

12


Hệ thống pháp luật của các nhà nước được hình thành dần dần từng bước phụ
thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhưng nói chung,
giai cấp thống trị đều tìm cách vận dụng các tập quán để phục vụ lợi ích của giai
cấp mình, dần dần thay đổi nội dung của các tập quán và bằng con đường nhà
nước nâng chúng thành các quy phạm pháp luật.
Hệ thống pháp luật của các nước còn được hình thành từ một nguồn khác, đó
là các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành. Việc chuyển hóa các tập quán để nâng
chúng thành luật chỉ là một bộ phận trong sự hình thành hệ thống pháp luật của các
nhà nước. Những mối quan hệ phức tạp mới phát sinh trong xã hội, đòi hỏi phải
có các quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật
của các nhà nước ra đời. Tuy nhiên, hoạt động này lúc đầu còn đơn giản, phiến

diện, nhiều quy định của các cơ quan tư pháp, tòa án đã có ý nghĩa như những
nguyên tắc chung, những quy định chung. Hệ thống pháp luật được hình thành dần
cùng với sự phát triển của nhà nước và hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ
quan trung ương.
Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
1.3. Bản chất của đạo đức và pháp luật
1.3.1. Bản chất của đạo đức
- Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang bản chất xã hội.
Bản chất xã hội của đạo đức được hiểu theo nghĩa:
Nội dung của đạo đức là do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội quyết định.
Nhận thức xã hội đem lại các hình thức cụ thể của phản ánh đạo đức, làm cho đạo
đức, tồn tại như một lĩnh vực độc lập về sản xuất tinh thần của xã hội.
Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được qui
định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con
người. Nói cách khác, nội dung khách quan của các quan niệm, quan điểm, các
nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của trạng thái, một trình độ
phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở
kinh tế.

12


- Tính thời đại:
Trong tác phẩm " Chống Đuy-rinh" Ph. Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ của
các thời đại đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức với tính cách là biểu
hiện về mặt đạo đức của các thời đại kinh tế.
- Tính dân tộc:
Cùng với tính thời đại, tính dân tộc là một trong những biểu hiện bản chất

xã hội của đạo đức. Có thể nhìn nhận tính dân tộc như là sự biểu hiện đặc thù tính
thời đại của đạo đức trong các dân tộc khác nhau. Coi đạo đức như là một hình thái
ý thức xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đặt cơ sở khoa học cho việc
luận chứng tính dân tộc của đạo đức. Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo
đức vừa chịu chi phối bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái ý
thức xã hội khác (chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo …). Tổng thể những nhân
tố ấy trong mỗi dân tộc là sự khác biệt nhau, tạo thành bản sắc dân tộc.
- Tính giai cấp:
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có vai trò, địa vị
khác nhau trong hệ thống kinh tế, xã hội và do đó mà họ có các lợi ích khác và đối
nghịch nhau. Đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội đã phản ảnh và khẳng
định lợi ích của mỗi giai cấp. Ý thức đạo đức giúp mỗi giai cấp hiểu được lợi ích
của nó, hiểu được những cách thức, biện pháp bảo vệ và khẳng định lợi ích giai
cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức của mình như là công cụ bảo vệ
lợi ích của mình. Như vậy, tính giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và sự thể hiện
lợi ích của các giai cấp thống trị.
- Tính nhân loại:
Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp là biểu hiện của
những quy tắc đơn giản, thông thường nhưng lại cần thiết để bảo đảm trật tự bình
thường cho cuộc sống hàng ngày của con người. Biểu hiện cao hơn trong tính
nhân loại của đạo đức lại ở những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai
đoạn phát triển của lịch sử những giá trị đạo đức này thường thường là những giá trị
đạt được ở giai cấp tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.
Đi đến tột đỉnh các giá trị đạo đức của giai cấp tiến bộ của từng thời kỳ lịch sử, nhân
loại sẽ bắt gặp đạo đức của mình tương ứng với các thời kỳ lịch sử đó.

12


1.3.2. bản chất của pháp luật

- Tính giai cấp của pháp luật:
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí
nhà nước của giai cấp thống trị. C.Mac và Ănghen khi nghiên cứu về pháp luật tư
sản đã đi đến kết luận: "Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí giai cấp tư sản được
đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó là điều kiện sinh hoạt vật chất của
giai cấp tư sản quyết định". Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kì kiểu
pháp luật nào nhưng mỗi kiểu pháp luật lại có những nét riêng và cách biểu hiện
riêng.
- Tính xã hội của pháp luật:
Như đã nói ở trên, pháp luật do nhà nước - đại diện chính thức của toàn xã
hội ban hành bởi vậy dù ít hay nhiều, pháp luật vẫn mang tính xã hội. Tính xã
hội của mỗi hệ thống pháp luật phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi
đất nước qua từng giai đoạn.
1.4. Vai trò của đạo đức và pháp luật đối với xã hội
1.4.1. Vai trò của đạo đức
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là
nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông
suối.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội mới xuất hiện
ngày càng nhiều, phong phú và nhanh chóng, tạo ra những lỗ hổng nằm ngoài sự
điều chỉnh của pháp luật. Hay nói cách khác là các quy định của pháp luật không
bao trùm, điều chỉnh hết các quan hệ xã hội. Để giải quyết vấn đề này, ngoài việc áp
dụng pháp luật tương tự và tương tự pháp luật thì đạo đức cũng là công cụ hữu hiệu
để quản lý xã hội. Có thể nói, đạo đức tồn tại song song với pháp luật, hỗ trợ cho
pháp luật và mang lại những hiệu quả to lớn trong việc quản lý xã hội.
1.4.2. Vai trò của pháp luật
- Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước:
Theo quan điểm triết học, pháp luật là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng,
yếu tố này chịu sự chi phối và phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội - yếu tố
thuộc về cơ sở hạ tầng. Pháp luật cần có quyền lực nhà nước mới có thể phát huy tác


12


dụng trong thực tế đời sống. Mặt khác, nhu cầu về pháp luật là nhu cầu tự thân của
bộ máy nhà nước, nhà nước cần pháp luật để làm công cụ quản lý xã hội. Như vậy,
để phát huy được hết vai trò và sức mạnh của mình pháp luật cần đến nhà nước và
ngược lại.
- Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế xã hội:
Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò to lớn. Bởi
vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức
tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ nhà nước cần xác lập, điều hành và
kiểm soát. Do vậy, nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào từng hoạt động mà
chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm vĩ mô và mang tính chất hành chính - kinh tế. Quá
trình quản lý kinh tế không thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật.
- Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới:
Bên cạnh chức năng phản ánh, pháp luật còn có tính tiên phong, định hướng
cho sự phát triển của các quan hệ xã hội. Có thể nói, pháp luật có vai trò quan trọng
trong việc tạo dựng ra những quan hệ mới. Trên cơ sở xác định thực trạng xã hội
với những tình huống cụ thể, điển hình, tồn tại và tái diễn thường xuyên ở những
thời điểm cụ thể trong xã hội nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và
phù hợp.
- Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang
giao giữa các quốc gia:
Có thể nói, pháp luật là công cụ hữu hiệu giúp nhà nước thực hiện tốt chức
năng đối nội và đối ngoại của mình. Hơn nữa, pháp luật cũng là một tiêu chí quan
trọng để đánh giá mức độ phát triển và văn minh của một quốc gia. Một hệ thống
pháp luật tiến bộ, hoàn thiện sẽ giúp nhà nước củng cố và nâng cao địa vị của mình
trên trường quốc tế.
1.5. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong nhà nước pháp quyền

1.5.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật:
Mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát
từ những định đề sau: Thứ nhất, hệ quy chiếu được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng
là cặp phạm trù lợi - hại. Thứ hai, trên cơ sở lấy lợi - hại làm hệ quy chiếu, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ ra quy luật chung của các kiểu pháp luật cũ là giai cấp thống

12


trị bao giờ cũng sử dụng đồng thời pháp luật và đạo đức (kết hợp pháp luật và đạo
đức) trong quản lý xã hội nhằm đem lại quyền và lợi ích nhiều hơn cho giai cấp
thống trị, đồng thời tăng nghĩa vụ và rút bớt lợi ích của giai cấp bị trị. Thứ ba, từ
nhận thức, nắm bắt được quy luật chung, trên cơ sở nghiên cứu đường lối trị nước
bằng pháp luật (pháp trị) và bằng đạo đức (đức trị, nhân trị) phương Đông và
phương Tây, đối chiếu với thực tiễn Việt Nam. Thứ tư, nhận thức về pháp luật và
đạo đức cũng như mối quan hệ, sự kết hợp giữa chúng, chính là nhận thức về con
người và quan hệ giữa con người với nhau trong việc phân bổ lợi ích.
- Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật:
+ Đạo đức là cơ sở của pháp luật.
+ Đạo đức và pháp luật gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau.
+ Pháp luật là chuẩn của đạo đức.
+ Đạo đức là động lực thúc đẩy các chủ thể tôn trọng và thực thi pháp luật.
+Pháp luật là hình thức ghi nhận, đảm bảo thực hành đạo đức trong xã hội.
1.5.2. Kết hợp đạo đức và pháp luật trong việc quản lý nhà nước
Từ việc tìm hiểu và phân tích những điểm tương đồng và khác biệt trên đây
giữa đạo đức và pháp luật ta thấy, pháp luật và đạo đức có rất nhiều điểm tương
đồng với nhau khi chúng cùng tham gia quản lý xã hội với tư cách là những công cụ
quản lý. Chúng cùng mang tính giai cấp, tính xã hội, cùng có chung mục đích giữ
gìn và ổn định trật tự xã hội, hướng con người trong xã hội vươn đến các giá trị

Chân-Thiện-Mỹ. Pháp luật và đạo đức cũng có một số điểm khác biệt, song đó
không phải là sự đối lập, mâu thuẫn xung đột với nhau mà sự khác biệt đó thể hiện
điểm mạnh, điểm yếu khác nhau giữa pháp luật và đạo đức khi cùng thực hiện chức
năng điều chỉnh các QHXH.
Thế mạnh của pháp luật là khả năng điều chỉnh rõ ràng, dứt khoát, theo ý chí
của giai cấp cầm quyền đối với các QHXH cơ bản của đất nước. Sự điều chỉnh này
thống nhất trên một phạm vi rộng theo những trình tự, cơ chế luật định, đặc biệt là sự
đảm bảo thực hiện pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước với hệ thống cơ quan
bảo vệ pháp luật: Tòa án, Quân đội, Cảnh sát, Nhà tù…
Trong khi đó, thế mạnh của đạo đức lại là khả năng tham gia điều chỉnh tất cả
mọi mối quan hệ xã hội, mọi góc độ tình cảm trong đời sống giữa cá nhân và nhà

12


nước, cá nhân với cá nhân và cá nhân với chính bản thân mình. Bằng cơ chế điều
chỉnh từ bên trong, đạo đức tác động đến đời sống tình cảm, danh dự, uy tín của con
người để từ đó hình thành nhiều cách xử sự phù hợp với chuẩn mực chung của xã
hội, thực hiện chúng bằng niềm tin nội tâm, sự tự giác và sức ép của dư luận xã hội.
Trong QLNN, phương pháp quản lý có hiệu quả nhất là biết kết hợp các phương
thức quản lý khác nhau trên cùng một đối tượng nhằm bổ sung, lấp đầy khoảng
trống trong nhau. Tuy pháp luật và đạo đức không phải là hai công cụ duy nhất được
dùng trong QLNN, song đây là hai công cụ cơ bản đem lại hiệu quả tối ưu và lâu
bền.
Vì vậy, tìm ra một phương thức kết hợp cả hai loại công cụ trên là một công
việc vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật trong QLNN. Điều này là
vô cùng cần thiết với Việt Nam hiện nay, khi Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Một mô hình QLNN bằng pháp luật. Tuy nhiên hệ thống pháp luật của ta vẫn chưa
thực sự đầy đủ và đồng bộ, ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn chưa
cao, chưa đồng đều. Mặt khác, từng là một nước thuộc địa nửa phong kiến, người

dân Việt Nam có chung một tâm lý là "xa luật"; "sợ luật", bởi pháp luật phong kiến
thì hà khắc với hệ thống hình phạt dã man như: lăng trì, tùng xẻo, voi giầy, ngựa
xéo..., bởi pháp luật thực dân đô hộ lại bóc lột sức lao động đến nghẹt thở, người
dân bất bình đẳng, tự do, bị chà đạp lên nhân phẩm, danh dự, thậm chí cả tính mạng.
Chính trong những đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử đặc thù ấy, nền văn hóa Phương
Đông - văn hóa làng xã với hệ thống các quy phạm đạo đức có điều kiện phát huy
vai trò điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người trong cộng đồng xã hội. Từ
tinh thần yêu độc lập, tự do; yêu quê hương, làng xã; yêu người, yêu ta... đã hình
thành nên hàng loạt các quy phạm đạo đức để tham gia vào điều chỉnh hầu hết các
mối quan hệ trong xã hội Việt Nam. Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Nho giáo, Phật giáo, vì vậy mà phương châm sống luôn là "đoàn kết hòa hảo";
"thương người như thể thương thân"; "uống nước nhớ nguồn";... Quản lý nhà nước
đối với một quốc gia có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc như Việt Nam thì
không thể xem nhẹ yếu tố văn hóa mà cốt lõi là đạo đức. Cùng với pháp luật, đạo
đức sẽ đóng vai trò quan trọng, lâu bền đối với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là
trong giai đoạn chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở đâu còn có con người, còn có lương tri thì ở
đó sẽ luôn có sự hiện diện của đạo đức, có sự tham gia điều chỉnh với tư cách là

12


công cụ quản lý xã hội hữu hiệu và không thể thiếu. Đây chính là lý do lý giải cho
việc tất yếu kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN ở Việt Nam hiện nay.
Điều 2, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đây là lần đầu tiên trong
văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia, chúng ta khẳng định quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn hiện

nay. Đây cũng là sự thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng NNPQ trong
thời kỳ đổi mới được bắt đầu đề cập đến từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII, trong
phần “Những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới” đã nêu rõ nhiệm vụ thứ bảy của
chúng ta là “xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”. Nội dung
chủ yếu của nhiệm vụ này là: Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện NNPQ
Việt Nam, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt
trong đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng
XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo. Tiếp đến là các văn kiện của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX đều nhất quán và làm rõ hơn về mặt
nội dung của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đó là tăng cường pháp
chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời
coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức. Đặc biệt Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X lần
đầu tiên đã đưa ra 5 đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN trong đó nhấn
mạnh đến đặc trưng QLNN bằng Hiến pháp, pháp luật “Đảm bảo cho Hiến pháp và
các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội”. Như vậy, có thể thấy quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN đã từng bước được ghi nhận và hiện thực hóa bởi tính ưu việt vốn có của nó, đã
trở thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
quá độ đi lên CNXH.
Nhà nước pháp quyền được các độc giả, các nhà lý luận chính trị nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng dù có nghiên cứu để nhận diện dưới bất kỳ góc
độ nào thì đặc trưng cơ bản và hàng đầu của NNPQ đó là Nhà nước quản lý xã hội

12


bằng pháp luật. Pháp luật là tối thượng, là chuẩn mực cao nhất để điều chỉnh hành vi

xử sự của con người.
Tuy nhiên, khi vận dụng học thuyết về NNPQ để xây dựng vào các mô hình
nhà nước khác nhau trên thế giới, phải tính các đặc điểm của đất nước, của dân tộc,
của khu vực và phù hợp xu thế tiến bộ chung của thời đại. Đối với riêng Việt Nam,
xây dựng NNPQ phải tính đến các yếu tố truyền thống, văn hóa dân tộc, trình độ dân
trí, dân chủ, trình độ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Sẽ là hợp lý và hợp
logic khi đặt vấn đề “mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện đại”, từ những
luận giải về “ mô hình lý luận chung về Nhà nước pháp quyền”, “mô hình Nhà
nước pháp quyền theo kiểu Phương Đông”, “mô hình Nhà nước pháp quyền
XHCN”, “Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”.
Có thể nói NNPQ Việt Nam mà chúng ta đang xây dựng phải là một Nhà
nước có tính toàn cầu (mang đầy đủ những giá trị phổ biến của tư tưởng NNPQ đã
được nhân loại tích lũy trong quá trình lịch sử, đấu tranh đầy gian khổ), vừa mang
tính khu vực (mang bản sắc văn hóa Phương Đông), lại vừa mang tính dân tộc (tức
là phản ánh được truyền thống Việt Nam, phong tục, tâm linh của con người Việt
Nam). Nói cách khác, NNPQ Việt Nam phải tiếp thu một cách sáng tạo có chọn lọc
những giá trị như: sự thống trị tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội, tính dân
chủ, nhân văn, nhân đạo… của mô hình lý luận chung về NNPQ đã được loài người
trải nghiệm để ứng dụng có sáng tạo vào Việt Nam phù hợp với nhu cầu phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nhà nước Việt Nam là một bộ phận của nền văn hóa Phương Đông, vì vậy
bên cạnh việc đề cao vai trò và tác dụng pháp luật (theo quan điểm của các Nhà
nước Phương Tây), NNPQ Việt Nam còn phải phát huy tác dụng của các quy tắc xã
hội khác như truyền thống, tôn giáo, tập quán tốt đẹp, phù hợp với thuần phong mỹ
tục của dân tộc Việt Nam. Không thể có một NNPQ ở Phương Đông mà trong đó lại
không có lễ giáo hoạt động, xã hội Phương Đông mà không có lễ nghĩa sẽ là một xã
hội đơn điệu, buồn tẻ. Vấn đề là ở chỗ chúng ta phải có định hướng loại bỏ các lễ
giáo, phong tục lạc hậu, phản tiến bộ, phát huy và củng cố những lễ giáo mang tính
giá trị cao như tự do, độc lập, lẽ phải, công bằng và bác ái.
Lý luận và thực tiễn đã cho thấy, không có pháp luật, không có đạo đức tồn

tại độc lập mà chúng tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ gắn bó, tương trợ lẫn nhau.
Đã qua rồi cái thời nhân loại “mò mẫm” nghiên cứu nên theo “Đức trị” hay theo

12


“Pháp trị”, vấn đề bây giờ là đưa ra một phương thức kết hợp hài hòa giữa pháp
luật và đạo đức để đạt hiệu quả điều chỉnh cao nhất. Chỉ có dựa trên nền tảng các giá
trị đạo đức, truyền thống tiến bộ của dân tộc, pháp luật mới dễ triển khai thực hiện
và có sức sống lâu bền, dẻo dai trong cuộc sống. Chỉ có kết hợp hài hòa các giá trị
của pháp luật và của đạo đức, mới có thể tác động tích cực nhất định tới con người,
nhằm xây dựng con người có văn hóa pháp lý cao, có phẩm chất đạo đạo đức lành
mạnh, có ý thức chấp hành tốt pháp luật và các quy tắc, chuẩn mực khác của cộng
đồng xã hội.
Đặc biệt, trong hoạt động xét xử của tòa án, của các cơ quan bảo vệ pháp
luật... sự gắn bó, kết hợp giữa pháp luật và đạo đức càng đóng vai trò quan trọng.
Khi giải quyết những vụ án cụ thể, các hành vi VPPL phải xem xét cả nhân phẩm
của người vi phạm pháp luật pháp luật. Nhiều trường hợp, tình huống cụ thể, thực tế
của vụ án phải được đánh giá bằng cả các tiêu chí pháp luật và đạo đức, nếu không
chúng ta rất khó xác định tính chất hành vi, mục đích tội phạm như thói lưu manh,
côn đồ, trục lợi, vô liêm sỉ, tư lợi, đê hèn, bất nhân. Đặc biệt đối với việc ly hôn,
nuôi dạy con cái, cấp dưỡng sau khi bố mẹ ly hôn… là những trường hợp không chỉ
đòi hỏi ở các chủ thể về mặt trách nhiệm pháp lý mà cả về mặt đạo đức, trách nhiệm,
lương tâm đối với con cái, xã hội.
Trong thực tế, ít khi có sự VPPL mà lại không vi phạm quy tắc đạo đức, vì
vậy khi xét xử, ngoài việc căn cứ vào pháp luật là cán cân công lý, người làm công
tác áp dụng pháp luật còn phải dựa vào đạo đức để xét xử đúng người, đúng tội.
Chính vì vậy, một trong những yêu cầu đòi hỏi quan trọng về tiêu chuẩn của người
làm công tác xét xử là đạo đức phải trong sáng, vô tư, nhân ái, bao dung, nhưng
cũng hết sức lý trí và nguyên tắc. Luật pháp phải được xây dựng trên cơ sở đạo đức,

song chính luật pháp lại là phương tiện duy trì và bảo vệ những giá trị đạo đức tốt
đẹp, ngăn chặn, hạn chế, loại bỏ tập tục lạc hậu và bảo thủ. Đáp ứng những đòi hỏi
đó chính là nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong
QLNN. Sự kết hợp hài hòa yếu tố pháp luật và đạo đức chính là đã và đang tạo ra
một hệ thống quy phạm thống nhất điều chỉnh có hiệu quả các QHXH.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn xây dựng NNPQ ở Việt Nam hiện nay,
chúng ta thấy rằng sự kết hợp pháp luật và đạo đức phải được thể hiện, được chứa
đựng trong một hình thức tồn tại hợp pháp để cả pháp luật và đạo đức phát huy được
vai trò trong điều chỉnh các QHXH, song lại không được vi phạm nguyên tắc pháp

12


chế, vi phạm nguyên tắc hiến định là nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật. Nguyên tắc này vừa đảm bảo tính minh bạch, công bằng, vừa tránh được
sự lạm quyền, tùy tiện trong hoạt động áp dụng pháp luật. Để làm được điều đó, sự
kết hợp pháp luật và đạo đức phải được triển khai ngay từ khâu đầu tiên của hoạt
động QLNN, đó là hoạt động xây dựng pháp luật. Khi các quan niệm, quan điểm, tư
tưởng đạo đức, các phong tục, tập quán được “luật hóa”, chúng sẽ có sức mạnh kết
hợp của cả pháp luật và đạo đức trong điều chỉnh các mối QHXH. Chúng thuận với
ý dân, hợp với lòng dân, dần dần đi vào tiềm thức, thói quen xử sự hàng ngày của
mọi người và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Nội dung kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN ở Việt Nam được thể
hiện ở những khía cạnh cơ bản sau đây:
Một là, hoạt động xây dựng pháp luật luôn đặt trên nền tảng những giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thực tiễn đã cho thấy, đạo đức có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành các
quy định trong pháp luật. Đạo đức như là môi trường cho sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của pháp luật, là chất liệu làm nên các quy định của pháp luật. Có thể nói,
bất kỳ một hệ thống pháp luật nào bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên một

nền tảng đạo đức nhất định. Những quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức đóng
vai trò là tiền đề tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng lên các quy định cụ thể của pháp
luật.
Trong bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những quan niệm, quan điểm và các quy
tắc nhất định, chúng luôn gắn bó chặt chẽ đối với đời sống con người. Đạo đức hình
thành từ trong cuộc sống hàng ngày của con người, trên cơ sở thừa nhận của cộng
đồng. Khi cộng đồng thừa nhận một quan điểm, quan niệm nào đó, họ thực hiện nó
một cách tự giác bằng lương tâm và tình cảm của họ. Chính vì vậy, khi pháp luật
được xây dựng phù hợp với đạo đức, nó không chỉ được đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp nhà nước mà còn được đảm bảo bằng dư luận xã hội và quan trọng hơn,
nó đã được đảm bảo bằng chính lương tâm, tình cảm của chủ thể. Ngược lại, nếu
không được xây dựng trên cơ sở đạo đức, không phù hợp với đạo đức xã hội, pháp
luật sẽ rất khó đi vào đời sống. Trong trường hợp đó, pháp luật khó có thể được thực
hiện nhờ sự tự nguyện, tự giác của các thành viên trong xã hội. Ngược lại, có khi họ
còn tìm cách chống đối, vi phạm pháp luật đặc biệt là trong các lĩnh vực nhạy cảm
như hôn nhân, gia đình, dân số, sinh sản...

12


Sự tác động của đạo đức đến hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện ở chỗ:
Trên cơ sở các quan điểm, tư tưởng đạo đức, nhà làm luật đặt ra các quy phạm pháp
luật không trái với đạo đức xã hội, phù hợp với những quan điểm, tư tưởng đạo đức
ấy và cao nhất là thể chế hóa chúng thành các QPPL. Nó cũng được thể hiện qua
việc nhà làm luật thừa nhận một phong tục, tập quán đạo đức nào đó, biến chúng
thành tập quán pháp, thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể trên thực tế là tiền
lệ pháp để áp dụng giải quyết các vụ việc tương tự về sau. Điều chỉnh hành vi con
người bằng pháp luật, nhà nước không mong muốn gì hơn khi hành vi ấy trở thành
thói quen trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày của họ. Chính vì vậy, pháp luật- công
cụ để tổ chức quản lý xã hội phải được xây dựng trên cơ sở truyền thống đạo đức,

phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc. Khi pháp luật phù hợp với đạo lý,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chẳng những nó được thực hiện nghiêm chỉnh trong
cuộc sống mà còn góp phần to lớn trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống đạo lý,
hiệu quả điều chỉnh bằng pháp luật cũng nhờ đó mà được củng cố và mở rộng hơn.
Hai là, pháp luật ghi nhận, củng cố, bảo vệ những quan niệm, quan điểm, tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức truyền thống tiến bộ.
Là hệ thống quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, pháp
luật tác động mạnh mẽ đến đạo đức, nó củng cố, bảo vệ và phát huy những quan
niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức. Khi pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo
đức, nó góp phần bổ sung, hỗ trợ cho đạo đức, nó đảm bảo cho các quan niệm, quan
điểm, chuẩn mực đạo đức trở nên phổ biến trong toàn xã hội. Pháp luật chính là sự
thừa nhận một cách chính thức của Nhà nước đối với đạo đức. Nhờ đó, chúng được
tôn trọng, bảo vệ và phát huy bằng các biện pháp Nhà nước. Khi những hành vi vi
phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội xẩy ra, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước sẽ áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Vì
thế, đạo đức có thể được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh hơn, phát huy tính tích
cực của mình trong việc điều chỉnh các QHXH, bảo đảm ổn định trật tự xã hội.
Việc pháp luật ghi nhận, củng cố, bảo vệ những quan niệm, quan điểm, tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức có thể diễn ra theo hai cách: Hoặc là ghi nhận trực tiếp,
nâng lên và thể chế hóa thành pháp luật; Hoặc ghi nhận gián tiếp thông qua việc
pháp luật quy định “ nghiêm cấm các hành vi trái đạo đức xã hội”. Với kỹ thuật lập
pháp này các quan điểm, quan niệm, tư tưởng đạo đức được Nhà nước thừa nhận và
đảm bảo thực hiện trên thực tế.

12


Ba là, QPPL loại trừ những quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức lạc
hậu, không còn phù hợp với những lợi ích chung của cộng đồng xã hội.
Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cùng với việc ghi

nhận, củng cố, bảo vệ các giá trị đạo đức tiến bộ, pháp luật giữ vai trò quan trọng
trong việc loại trừ những quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức lạc hậu, phản tiến
bộ ra khỏi đời sống xã hội.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có tính bảo thủ tương đối mạnh mẽ, nó
ăn sâu bám rễ trong tâm lý của mỗi người dân, nó trở thành thói quen xử sự lặp đi, lặp
lại trong từng thành viên của cộng đồng cũng như cả cộng đồng. Có những quan
niệm, quy tắc đạo đức đã từng tồn tại hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm, vì
vậy không đơn giản mà trong một sớm một chiều người dân có thể từ bỏ nó, thay đổi
nó mặc dù điều kiện thực tế cho sự tồn tại của nó đã mất đi.
Trong những trường hợp này, pháp luật là phương tiện hữu hiệu để loại bỏ
chúng, bằng các quy định cụ thể, pháp luật cấm thực hiện những hành vi theo các
quan niệm, quan điểm, đạo đức lạc hậu. Pháp luật quy định các biện pháp tuyên
truyền, vận động các chủ thể trong xã hội, không thực hiện các hành vi theo các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức cũ. Pháp luật quy định các biện pháp chế tài nghiêm
khắc đối với các chủ thể thực hiện những hành vi theo quan niệm, tư tưởng đạo đức
cũ, lạc hậu. Đồng thời, pháp luật khuyến khích, kể cả bắt buộc các chủ thể trong xã
hội phải thực hiện những hành vi theo quan điểm đạo đức mới thậm chí có trường
hợp “trái ngược” với quan điểm đạo đức cũ. Tuy nhiên, quá trình xây dựng pháp luật
này, phải lưu ý quan điểm phủ định biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, để kế
thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, tránh tư tưởng cực
đoan, phủ định sạch trơn quá khứ.
Bốn là, kết hợp pháp luật với đạo đức phải góp phần ngăn chặn sự thoái hóa
xuống cấp đạo đức, ngăn chặn việc hình thành những quan niệm, quan điểm đạo
đức trái thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội, định hướng thúc đẩy việc
hình thành những quan niệm đạo đức mới.
Pháp luật giữ vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp
của đạo đức. Khi các giá trị đạo đức truyền thống không được nhận thức đúng mức,
công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức trong gia đình, nhà trường bị coi nhẹ, khi
những quan niệm, quan điểm đạo đức bên ngoài có điều kiện ảnh hưởng mạnh mẽ đến
quan niệm sống, lối sống của người dân trong nước thì các giá trị đạo đức truyền


12


thống của dân tộc dễ bị coi thường. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của các yếu tố khác
như nền kinh tế thị trường cạnh tranh và sòng phẳng, sự mở cửa thông thương dẫn
đến du nhập ồ ạt các luồng văn hóa Đông-Tây-Kim-Cổ, sự bành trướng, mở rộng địa
bàn hoạt động của các tổ chức tín điều tôn giáo đã đẩy đạo đức xã hội đứng trước
những khó khăn, thử thách để tồn tại và phát triển, các mới, cái cũ đan xen, trong đó
nhiều cái mới chưa hẳn đã tốt, nhiều cái cũ không hẳn đã xấu... Trong nhiều trường
hợp, chính pháp luật là công cụ hữu hiệu để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại
của đạo đức. Bằng việc ghi nhận thành pháp luật các quan niệm, quan điểm đạo đức,
nhà nước bảo đảm cho các quan niệm, quan điểm đạo đức đó được thực hiện nghiêm
chỉnh trên thực tế. Đặc biệt, bằng việc xử lý nghiêm minh những kẻ có hành vi đi
ngược với các giá trị đạo đức xã hội, trừng trị nghiêm khắc những kẻ có hành vi phi
nhân cách, pháp luật góp phần bảo vệ và giữ gìn các giá trị đạo đức của xã hội, ngăn
chặn sự tha hóa xuống cấp của đạo đức.
Pháp luật cũng đóng góp vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự hình
thành những quan niệm, chuẩn mực đạo đức mới trái với thuần phong mỹ tục, trái
với giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiến bộ xã hội. Khi trong đời
sống xã hội xuất hiện và có chiều hướng phát triển một cách phổ biến những hành vi
trái thuần phong mỹ tục, trái truyền thống tốt đẹp của dân tộc thì các nhà làm luật
phải lập tức đặt ra các quy định cụ thể để ngăn chặn sự phát triển của nó, không cho
nó có điều kiện lan rộng và dần dần lọai bỏ nó sựra khỏi đời sống xã hội. Qua đó,
những quan niệm, quan điểm đạo đức sai lầm, lệch lạc, trái thuần phong mỹ tục, trái
với các giá trị đạo đức xã hội không có điều kiện để hình thành và phát triển trong
đời sống xã hội.
Pháp luật cũng có vai trò quan trọng trong việc góp phần làm hình thành
những quan niệm, quan điểm đạo đức mới. Khi pháp luật phù hợp với đời sống hiện
thực, phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của các thành viên trong xã hội sẽ được

cộng đồng thừa nhận và được thực hiện nghiêm chỉnh, tự nguyện, tự giác tích cực
với niềm tin nội tâm. Trong trường hợp này, pháp luật đã mang tính đạo đức, các
quan điểm, quan niệm về pháp luật vì thế cũng trở thành các quan niệm, tư tưởng
đạo đức. Khi đó cộng đồng đánh giá một con người không chỉ dựa trên các tiêu chí
đạo đức mà còn dựa trên thái độ, ý thức của họ đối với pháp luật, hành vi thực hiện
pháp luật của họ. Sẽ không được đánh giá là một con người hoàn hảo từ góc nhìn của
đạo đức, nếu người đó có các hành vi VPPL. Như vậy, có thể thấy pháp luật trong

12


những trường hợp này đã định hướng và góp phần hình thành những quan niệm, quan
điểm đạo đức mới.
Trong điều kiện hiện nay, rất nhiều quan niệm, quan điểm đạo đức mới đang
hình thành, cần được cổ vũ và thừa nhận. Bằng việc thừa nhận, khuyến khích các
hành vi thể hiện những quan điểm đạo đức mới, pháp luật góp phần khẳng định một
cách chính thức những quan niệm, quan điểm đạo đức đó. Khi ấy, những quan niệm,
quan điểm đạo đức mới tồn tại một cách chính thức và không thể đảo ngược. Việc
làm hình thành những quan niệm, quan điểm đạo đức mới cũng thể hiện ngay trong
việc pháp luật loại trừ những quan điểm, quan niệm đạo đức cũ lạc hậu. Như trên đã
trình bày, một trong những cách loại bỏ những quan niệm đạo đức cũ là cấm chỉ và
trừng trị nghiêm các hành vi theo đạo đức cũ, đồng thời khuyến khích thậm chí bắt
buộc thực hiện những hành vi theo quan điểm đạo đức mới. Bằng cách đó, pháp luật
góp phần khẳng định quan điểm đạo đức mới, tạo cơ sở cho nó tồn tại, phát triển
một cách hợp pháp lâu bền.

12


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Kết hợp đạo đức và pháp luật vào công tác quản lý nhà nước đã và đang là
nội dung quan trọng và ngày càng mang tính cấp thiết trong tình hình kinh tế, chính
trị hiện nay.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng có những chủ trương,
đường lối chính sách và được cụ thể hóa bằng pháp luật nhằm đẩy mạnh việc kết
hợp đạo đức và pháp luật trong quá trình quản lý nhà nước hiện nay ở nước ta.
2.1.1. Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Ra đời vào những thời điểm khác nhau của lịch sử, pháp luật và đạo đức luôn
là phương tiện điều chỉnh phổ biến và cơ bản nhất đối với hành vi và các mối
QHXH của con người. Vị trí, vai trò, tính chất của sự kết hợp giữa pháp luật và đạo
đức được nhận thức, khai thác, sử dụng không hoàn toàn giống nhau, chúng luôn có
sự biến đổi qua từng thời kỳ lịch sử.
Trong xã hội cổ truyền Việt Nam, pháp luật phát triển chậm chạp, mờ nhạt
hơn đạo đức và các quy tắc xã hội khác. Nhu cầu về pháp luật và vai trò của pháp
luật ở Phương Đông nói chung, ở Việt Nam nói riêng không cao như ở Phương Tây
cổ đại. Những đặc thù lịch sử, văn hóa, khí hậu địa lý, những đặc trưng của chế độ
sở hữu ruộng đất làng xã đã tạo điều kiện cho sự tồn tại thuận lợi và phát huy sức
mạnh của đạo đức, của phong tục tập quán, hương ước, tín điều tôn giáo. Đồng thời
chính các quy phạm xã hội này lại là lực cản cho sự phát triển của pháp luật. Một
căn nguyên khác cũng phải kể đến là các cuộc chiến tranh liên miên của Phương
Bắc đối với Việt Nam đã khiến các triều đại phong kiến nước ta phải thường xuyên
tập trung vào công việc tổ chức chống ngoại xâm, xây dựng nền độc lập dân tộc. Do
vậy, tư duy pháp lý của người Việt Nam còn thấp mà nặng về tư duy đạo đức, tư duy
luân lý. Lối sống có nghĩa, có tình và cách nghĩ, cách ứng xử “bụng bảo dạ”, "lòng
vả cũng như lòng sung" đã chi phối hầu hết các mối quan hệ cơ bản trong xã hội. Từ


12


khi xã hội Việt cổ bước vào thời kỳ có nhà nước cho đến khi chính thức có pháp luật
thành văn là một khoảng cách quá dài so với nhiều quốc gia khác. Mãi đến thời nhà
Lý, nước ta mới chính thức có pháp luật thành văn (Bộ Hình thư ban hành năm
1042). Luật pháp Việt Nam ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của Nho giáo,
mang đậm dấu ấn Nho giáo.
Trong số bốn bộ luật của thời kỳ phong kiến Việt Nam, bộ luật Hồng Đức
(Quốc Triều Hình luật) dưới thời Lê Thánh Tông được coi là tiêu biểu nhất. Bộ luật
được xây dựng trên cơ sở đạo đức Nho giáo là cơ bản, ngoài ra cũng thể hiện các giá
trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Việc ghi nhận đó xét đến cùng chính là nghệ
thuật cai trị xã hội của Nhà nước, là điều kiện đảm bảo sự tồn tại của chính bản thân
pháp luật, là chính sách thông minh, dũng cảm của các nhà làm luật Triều Lê.
Do những điều kiện khách quan về địa lý, khí hậu, đặc trưng của nền sản xuất
nông nghiệp, đấu tranh liên miên... nên trong giai đoạn này, đạo đức chiếm ưu thế
hơn trong việc điều chỉnh các QHXH. Lối sống tình nghĩa “thương người như thể
thương thân” là triết lý phát triển đạo đức Việt Nam. Truyền thống đấu tranh dựng
nước và giữ nước, ý thức cộng đồng dân tộc là nền tảng cho sự hình thành và phát
triển những nhân tố tích cực trong pháp luật của Nhà nước phong kiến Việt Nam qua
nhiều thế kỷ.
Nhìn từ một góc độ khác, với ưu thế điều chỉnh của đạo đức, con người
dường như hòa tan vào cộng đồng, vai trò cá nhân ít được thể hiện. Sự cấu kết của cá
nhân với cộng đồng trở thành yêu cầu đạo đức, chính nó quy định ý nghĩa cuộc đời mỗi
cá nhân. Người ta coi thực hiện bổn phận đạo đức đối với người khác, với xã hội là
niềm vui, là nhu cầu cuộc sống. Đức hy sinh, sự cam chịu, phục tùng thụ động đã được
coi là những phẩm chất nổi trội của cá nhân con người trong xã hội cổ truyền. Con
người hầu như không có khái niệm về quyền pháp lý mà chủ yếu là bổn phận, đạo đức.
Pháp luật đối với người dân quá xa lạ và đồng nghĩa với trừng phạt nên họ thường thờ

ơ, chống đối, không có thói quen sống theo pháp luật, coi trọng tục lệ hơn pháp luật.
Cuộc sống với những QHXH thuần nhất, giản đơn về cơ bản được điều chỉnh bằng đạo
đức và tập tục.
Trong xã hội cổ truyền Việt Nam, luật và lệ luôn song hành. Các Nhà nước
phong kiến và các chính quyền đô hộ đều phải thừa nhận sự tồn tại của hệ thống luật
tục người Việt. Tính buộc phải thích ứng với tục lệ là một đặc điểm to lớn của lịch sử

12


pháp luật phong kiến Việt Nam. Phạm vi can thiệp của pháp luật không rộng lớn, chủ
yếu trong các lĩnh vực quốc gia như: Quân sự, an toàn hoàng tộc, sưu thuế, binh dịch...
Trong tiến trình lịch sử, nhà nước vừa hạn chế sự phát triển của hương ước vừa
phải sử dụng hương ước như một nguồn luật của Nhà nước để thực thi ở làng xã. Đầu
thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp thực hiện cuộc “cải cách hương chính” nhưng
do sự cố kết bền vững của hương ước nên cuộc cải biến đó đã không thu được kết quả,
chính quyền thực dân buộc phải chấp nhận sử dụng một bộ phận hương ước song song
với pháp luật của chính quốc để điều chỉnh các QHXH trong thời điểm bấy giờ.
Trong thời kỳ cơ chế quản lý tập trung bao cấp, do nhận thức về Chủ nghĩa xã
hội còn có nhiều hạn chế nên mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức cũng chưa
được nhận thức một cách đầy đủ. Do vậy, chúng chưa được sử dụng có hiệu quả cao
trong QLNN. Ở thời kỳ này, nhận thức về pháp luật là hai khuynh hướng: Hoặc quá
đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một
thành phần kinh tế nào đó, sử dụng mệnh lệnh hành chính thay cho pháp luật; hoặc
đề cao quá mức một số quan niệm, quan điểm đạo đức mới như tinh thần làm chủ
tập thể, tinh thần mỗi người vì mọi người… Quá nhấn mạnh cái “chúng ta” mà quên
mất “cái tôi”, có sự ảo tưởng, nhầm lẫn cơ bản khi cho rằng chỉ cần “ mo cơm quả
cà, tấm lòng cộng sản” là có thể xây dựng thành công CNXH. Trong khi đó, một số
quan niệm đạo đức truyền thống của dân tộc có phần bị coi nhẹ, xem thường, thậm
chí bị coi là tàn dư của chế độ cũ cần phải bị loại bỏ.

Khuynh hướng chung của việc điều chỉnh pháp luật thời kỳ này là tập trung
khẳng định và củng cố nền kinh tế hiện vật, phương pháp lãnh đạo hành chính bao
cấp, mệnh lệnh, là việc đề ra vô số những cấm đoán và hạn chế, tiêu diệt tính năng
động, tự chủ, sáng tạo của con người. Con người từ phương diện pháp lý và đạo đức
chủ yếu được quan tâm, đánh giá với tư cách là một thực thể xã hội, nặng về nghĩa
vụ, bổn phận, trách nhiệm với tập thể. Nhìn chung, các văn bản pháp luật không tạo
được động lực cho sự phát triển xã hội, phát triển cá nhân một cách toàn diện. Công
tác xây dựng pháp luật chủ yếu mang tính giải pháp tình thế và áp đặt chủ quan,
nhiều khi thoát ly thực tế. Thực trạng kinh tế, xã hội và pháp luật đó đã dẫn đến một
hệ quả về mặt ý thức là sự coi thường, thờ ơ, bất chấp pháp luật, tâm lý ngại ra pháp
luật, ra pháp luật đồng nghĩa là xấu, là liên lụy, phạm pháp.
Bước sang thời kỳ đổi mới đất nước, dưới tác động của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, pháp luật và đạo đức đều có sự biến đổi mạnh mẽ. Phạm vi điều

12


×