Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Công nghiệp hóa , hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.69 KB, 23 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
Khi cả thế giới hội nhập toàn cầu hóa – thời kì phát triển mới , đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa , Việt Nam cũng không ngoại
lệ.trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đại hội
Đảng cộng sản Việt nam đã khẳng định “ đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa , xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ , đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp “ và chỉ rõ “ đẩy mạnh công nghiệp hóa ,
hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm “. Bởi chỉ có con đường này nước ta
mới có thể thoát khỏi tình trạng nghèo khổ , lạc hậu , bần cùng. Hơn nữa
, sẽ là cơ hội để đắm mình vào dòng chảy chung của nhân loại.Vậy phải
thực hiện con đường hiện đại hóa, công nghiệp hóa bằng cách nào? Đây
chính là vấn đề cấp thiết mà đảng và nhà nước ta ngày đêm trăn trở.
Nghị quyết lần thứ 2 ban chấp hành trung ương khóa VIII đã xác định rõ
“ công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước phải dựa vào khoa học công
nghệ “ .“ Khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho
công nghiệp hóa , hiện đại hóa”. Đến đại hội IX của Đảng điều này lại
được khẳng định một lần nữa “ phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của con người Việt Nam , coi sự phát triển giáo dục và
đào tạo , khoa học và công nghệ là nền tảng động lực của sự nghiệp
công nghiệp hóa , hiện đâị hóa ”.
Từ đấy , chúng ta hãy tìm hiểu đề tài : “ Công nghiệp hóa , hiện đại
hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức “.

1


B. PHẦN NỘI DUNG.
I.KHÁI NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA VÀ
KINH TẾ TRI THỨC.
1.khái niệm về công nghiệp hóa- hiện đại hóa.(CNH-HĐH)
Công nghiệp hóa (industrialization) là quá trình biến đổi xã hội


và kinh tế từ một xã hội nông nghiệp (hay tiền công nghiệp), trong đó
tích lũy tư bản trên đầu người rất thấp, lên xã hội công nghiệp.Đó là một
bộ phận của quá trình hiện đại hóa rộng lớn hơn. Quá trình biến đổi xã
hội và kinh tế đó gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ, nhất là các
cuộc cách mạng kỹ thuật
Công nghiệp hóa ở Việt Nam là quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt
Nam từ dựa vào nông nghiệp và thủ công sang máy móc công nghiệp là
chính.
Lịch sử công nghiệp hóa
Anh là nước tiến hành công nghiệp hóa đầu tiên.Đây cũng là quê hương
của Cách mạng công nghiệp và thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế
giới là Manchester.
Nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba bắt đầu các chương trình công nghiệp
hóa dưới sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ hoặc Liên Xô trong Chiến tranh
Lạnh nửa cuối thế kỷ 20.Nỗ lực này ở một số nước Đông Á thành công
hơn ở các nơi khác trên thế giới (ngoại trừ các quốc gia tiến hành công
nghiệp hóa muộn mằn Châu Âu, dẫu vậy tiến trình của các nước này đã
bắt đầu từ trước Thế chiến thứ hai).

2


Theo báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế, Hoa Kỳ là quốc gia có sản lượng
công nghiệp đứng đầu thế giới năm 2005, tiếp sau nó là Nhật Bản và
Trung Quốc.
Cơ chế phát triển chủ đạo hiện nay theo các tổ chức tổ chức phát triển
quốc tế (Ngân hàng thế giới, OECD, các tổ chức của Liên hợp quốc và
các tổ chức tương tự quốc tế khác) là giảm nghèo. Cơ chế này vẫn nhấn
mạnh vào sự tăng trưởng kinh tế, nhưng tin rằng các chính sách công
nghiệp hóa truyền thống không mang lại hiệu quả dài hạn. Việc tạo ra và

hỗ trợ những ngành công nghiệp nội địa kém hiệu quả là vô ích trong
một thế giới tự do thương mại hiện nay.
Hơn nữa trong hai thế kỉ qua CNH gắn liền với sự phát triển chủ nghĩa
tư bản đã làm cho kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ.Khoa học và công
nghệ bùng nổ, lực lượng sản xuất loài người bước lên thang bậc mới ,
cải tạo ra tăng lên hàng trăm lần , đem lại sự cường thịnh cho nhiều quốc
gia , nhưng đồng thời cũng gây nên nhiều hậu quả nan giải cho loài
người cạn kiệt tài nguyên , suy thoái môi trường sống ,tăng khoảng cách
giàu nghèo …Công nghiệp hóa tư bản Chủ nghĩa đang khét sâu vào các
mâu thuẫn của thời đại nay chính chủ nghĩa tư bản cũng phải đại điều
chỉnh.
Hiện đại hóa (modernization)
HĐH là quá trình chuyển biến từ tính chất truyền thống cũ sang
trình độ tiên tiến, hiện đại. Về ý nghĩa kinh tế, HĐH được giải thích là
quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện
đại, bắt đầu từ thế kỷ XVII đến nay và vẫn còn chưa kết thúc. Có người
chia quá trình HĐH thành hai giai đoạn: Hiện đại hóa lần thứ nhất tương
ứng với thời kỳ CNH cổ điển, và HĐH lần thứ hai tương ứng với thời kỳ
tri thức hóa.

3


Các thuyết về hiện đại hóa thường đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của
các biến số xã hội đến sự phát triển và sự tiến bộ xã hội , họ không chỉ
chú trọng vào quá trình biến đổi mà còn cách biển đổi như thế nào , có
liên quan tới cấu trúc xã hội và văn hóa cũng như tính năng động và khả
năng thích nghi công nghệ mới.
Thuật ngữ hiện đại hóa xuất hiện từ thời đại khai sang với ý tưởng là bản
thân con người có thể làm thay đổi và phát triển xã hội của mình.Tiến

bộ công nghệ và biến đổi kinh tế sẽ làm thay đổi giá trị đạo đức và văn
hóa của xã hội sự gắn kết kinh tế - xã hội trong quá trình biến đổi không
ngừng của thế giới.
Những thập kỷ 70 , 80 của thể trước thịnh hành quan điểm nhấn mạnh
tầm quan trọng của xã hội mở để thay đón nhận sự thay đổi, coi khép kín
là kìm hãm sự phát triển , sự cố gắng duy trì truyền thống văn hóa sẽ làm
hư hại cho tiến bộ và sự phát triển.tuy nhiên đấy là những quan điểm
mang tính chất ‘ phương tây hóa’ và bị chỉ trích mạnh mẽ.Hiện nay hầu
hết các nước đang phát triển đều thực hiện chiến lược hiện đaiạ hoa để
hội nhập vào nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa nhưng vẫn giữ nguyên
bản sắc văn hóa của mình.
2.Nội dung và định hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
a. Nội dung.
“ chúng ta cần tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và
tiềm năng , lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa
,hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hóa , hiện đại hóa “ đại hội X của Đảng nêu.
Nội dung cơ bản của quá trình là:

4


- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao
dựa vào tri thức kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người việt
nam vói tri thức mới nhất của nhân loại.
- coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi
bước phát triển của đất nước , ở từng vùng , từng địa phương từng dự án
kinh tế -xã hội.

- xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành , lĩnh vực và
lãnh thổ.
- giảm chi phí trung gian , nâng cao năng suất lao động của tất cả các
ngành , lĩnh vực , nhất là các ngành , lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
b.Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp ,nông thôn , giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp nông dân , nông thôn.
Một là, về công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Vấn đề nông nghiệp nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá
trình công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa
trên thế giới .Quan tâm tới nông nghiệp , nông dân , nông thôn là vấn đề
quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa.trong những năm
tới , định hướng phát triển cho quá trình này là :
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng
tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường , đẩy nhanh tiến bộ khoa học – kĩ thuật và công nghệ sinh học
vào sản xuất , nâng cao năng suất ,chất lượng… phù hợp với đặc điểm
từng vùng từng địa phương.

5


Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Hai là , quy hoạch phát triển nông thôn, khẩn trương xây dựng các quy
hoạch phát triển nông thôn xây dựng nông thôn kiểu mới.hình thành các
khu đô thị với cơ cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ.phát huy dân chủ ở
nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân

trí , bài trừ tất cả các tệ nạn xã hội , hủ tục…
Ba là , giải quyết lao đông việc làm nông thôn.
- Phát triển nhanh hơn công nghiệp , xây dựng và dịch vụ.
Tính quy luật của CNH , HĐH là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn
công nghiệp dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy nước ta chủ trương phát triển
nhanh hơn công nghiệp , xây dựng , dịch vụ.
- Phát triển kinh tế vùng.
Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế
quốc dân.Xác định đúng đắn cơ cấu vùng có ý nghĩa quan trọng nó đòi
hỏi cần phải khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng , tạo
ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước.
- phát triển kinh tế biển.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện có
trọng tâm , trọng điểm.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động , cơ cấu công nghệ.
Cần phát triển nguồn nhân lực , phát triển khoa học kĩ thuật công nghệ
phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học công
nghệ.kết hợp chặt chẽ hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục
đào tạo để thực hiện vai trofquoocs sách hàng đầu , tạo động lực phát

6


triển nhanh CNH , HĐH và phát triển kinh tế tri thức.Đổi mới cơ bản cơ
chế quản lý khoa học và công nghệ .
- Bảo vệ sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia , cải thiện môi trường tự
nhiên.
II. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA , HIỆN ĐẠI HÓA VỪA QUA.
1. Những thành tựu đạt được.

Trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu kinh tế - xã hội quan trọng: nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao 7 8%/năm và là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
nhất thế giới. Trong 10 năm qua, GDP bình quân đầu người tăng gấp
hơn ba lần (năm 2000 là 390 USD, năm 2010 là 1.168 USD); đời sống
nhân dân được cải thiện đáng kể; nền kinh tế đang chuyển mạnh sang
kinh tế thị trường; thể chế kinh tế thị trường đã bắt đầu hình thành và
đang trong quá trình hoàn thiện. Nước ta là một trong những nước đứng
hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, cao su… và là một trong
những nước đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội, được các tổ chức quốc tế thừa nhận có thành tích xóa đói,
giảm nghèo nhanh nhất. Trong lĩnh vực Khoa học công nghệ, trình độ
công nghệ của một số lĩnh vực được nâng cao theo kịp trình độ chung
các nước trong khu vực; nhất là, công nghệ thông tin ( CNTT) và truyền
thông, điện tử… (năm 1996 nước ta mới bắt đầu sử dụng internet; đến
nay, số người sử dụng internet so với số dân đã đạt 31%, hơn mức bình
quân của thế giới). Nền khoa học công nghệ nước ta đạt được những tiến
bộ nhất định: tỷ lệ đầu tư cho KH&CN trong tổng chi ngân sách nhà
nước từ mức 0,78% năm (1996), đến nay đã tăng lên trên 2%; CNTT
được ứng dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế quốc dân, như: tài
chính, thống kê, điện lực, hàng không, y tế, giáo dục, quản lý doanh
nghiệp… để cải tiến tổ chức quản lý, mở rộng thị trường, nâng cao năng
7


lực cạnh tranh, bước đầu đạt kết quả tốt. Trong những năm đổi mới,
chúng ta đã từng bước tạo được nền tảng về cơ sở vật chất và nguồn
nhân lực, đủ điều kiện để thực hiện thành công đường lối phát triển
KTTT.
Công cuộc đổi mới tiến hành 25 năm đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử.Cụ thể, nhiệm kỳ Đại hội X (2006-2010) về kinh tế

đã đạt được những thành tựu to lớn để đưa nước ta ra khỏi nhóm kinh tế
kém phát triển.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%.
- Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm 2006-2010,
tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề
ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn
2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục
tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%.
- GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so
với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
- Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.
+ Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
+ Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về
chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng
cạnh tranh, đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong
nước và mở rộng thị trường xuất khẩu.

8


+ Đã chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công
nghệ cao.
+ Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
- Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực. Cụ thể
là: Tỉ trọng khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP từ 41% (năm 2005)
tăng lên 41,1% (năm 2010); khu vực dịch vụ từ 38% (năm 2005) tăng

lên 38,3% (năm 2010); khu vực nông nghiệp từ 21% (năm 2005) giảm
xuống 20,6% (năm 2010); Cơ cấu lao động trong nông nghiệp từ 57,1%
(năm 2005) giảm xuống 48,2% (năm 2010); trong công nghiệp và xây
dựng từ 18,2% (năm 2005) tăng lên 22,4% (năm 2010); dịch vụ từ
24,7% (năm 2005) tăng lên 29,4% (năm 2010).
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được
xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp
tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy
đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu
tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền
kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
- Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế
nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006-2010 doanh nghiệp nước ta
tăng hơn 2,3 lần về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm
trước. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh phổ biến.
Như vậy, trong nhiệm kỳ vừa qua, nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì tốc độ tăng trưởng khá,
tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Chính sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá, tạo cơ sở
9


vững chắc để thực hiện kế hoạch 5 năm 2011- 2015 đạt kết quả vững
chắc hơn.
2. Hạn chế và nguyên nhân.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa , hiện đại
hóa ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế , nổi bật là:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn còn quá thấp so với khả năng và thấp
hơn nhiều nước trong khu vực thời kì đầu công nghiệp hóa.Quy mô nền

kinh tế còn nhỏ ,thu nhập bình quân đầu người thấp.Tăng trưởng kinh tế
theo chiều rộng , tập trung vào các ngành công nghệ thấp , tiêu hao vật
chất cao , sử dụng nhiều tài nguyên , vốn và lao động. Năng suất lao
động còn thấp so vói nhiều nước trong khu vực.chỉ số ICOR ngày càng
cao , cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực ở vào thời điểm có
trình độ phát triển như nước ta.
- Nguồn lực của đát nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên
đất đai và các nguồn lực vốn của nhà nước còn bị lãng phí , thất thoát
nghiêm trọng.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm.trong công nghiệp các sản phẩm
có hàm lượng tri thúc cao còn ít.trong nông nghiệp sản suất chưa gắn kết
chặt chẽ với thi trường.Nôi dung công nghiệp hóa , hiên đại hóa nông
nghiệp nông thôn còn thiếu cụ thể.Chất lượng nguồn nhân lực của đất
nước còn thấp.tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn cao , tỷ trọng
qua đào tạo công nghiệp còn thấp , lao động thiếu việc làm và không
việc làm còn nhiều.
- Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được các thế mạnh để di
nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại.kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt
chẽ , hiệu quả thấp và chưa quan tâm đúng mức.
- Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tài năng ,
chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác , cạnh tranh bình đẳng và khả
năng phát triển của các thành phần kinh tế .

10


- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý . Công tác quy hoạch chất lượng thấp , quản
lý kém chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
- Nhìn chung , mặc dù đẫ cố gắng đầu tư nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng dược yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.

- Những hạn chế trên do nhiều nguyên ngân nhưng chủ yếu là nguyên
nhân chủ quan như :
- Công tác lãnh đạo , chỉ đạo của bộ chính trị , ban bí thư và quản lý , điều
hành của nhà nước trong xử lý mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng
tăng trưởng , giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ,
bảo vệ môi trường còn hạn chế , công tác dự báo chưa tốt.
- Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng
được tốt nhất các nguồn lực , cả nôi lực và ngoại lực vào công cuộc phát
triển kinh tế xã hội.
- Sự yếu kém của kết cấu hạ tầng giao thông , điện của chất lượng nguồn
nhân lực kéo dài đã trở thành điểm nghẽn cản trở sự phát triển.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.Chức năng , quyền hạn , trách
nhiệm của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được phân định rõ
rang, rành mạch.bộ máy cồng kềnh ,kém hiệu lực , gây phiền hà cho
dân.
- Tư duy , nhận thưc chậm đổi mới nhất là tư duy phát triển nhận thúc về
bói cảnh quốc tế mới , chưa thong nhất quan điểm về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.về quan hệ giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa còn nặng giáo điều, duy ý chí , bảo thủ ,trì trệ…
III. PHƯƠNG HƯỚNG , QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI
HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

11


1.Hội nhập vào nền kinh tế tri thức toàn cầu phát triển kinh tế tri
thức ngay trong quá trình công nghiệp hóa là đòi hỏi thiết yếu để
nước ta đi nhanh tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

a. Nền kinh tế toàn cầu đang hình thành và phát triển là thách thúc và cơ
hội to lớn đối với nước ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội.Chần chừ , khong kịp thời cơ nắm bắt cơ hội , hội nhập vào xu thế
phát triển kinh tế tri thức để đấy nhanh CNH , HĐH , nước ta sẽ tụt hậu
ngày càng xa hơn , như trước đây nước ta đã từng bỏ lỡ công nghiệp hóa
đầu thế kỉ XIX. Phải gắn CNH , HĐH với phát triển kinh tế tri thức để
nhanh chóng đuổi kịp các nước , thực hiện mục xây dựng chủ nghĩa xã
hôi đó là yêu cầu cấp bách , là sự chuyển hướng chiến lược quan trọng.
b. nhiệm vụ cấp bách hiện nay là phải đổi mới mạnh mẽ , toàn diện , sâu
sắc hơn nữa về cả chinhs trị ,hệ thống quản lí , cách thức phát triển kinh
tế , hệ thống doanh nghiệp , hệ thống giáo dục đào tạo… mở đường kinh
tế tri thưc phát triển , tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng tăng trưởng
và hiệu quả kinh tế , tạo những bước bứt phá mạnh mẽ trên con đường
công nghiệp hóa , hiện đại hóa.
c. tiếp tục đổi mới tư duy , thống nhất nhận thức trong toàn đảng về tính
chất thời đại ,con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.khắc phục
bệnh giáo điều , duy ý chí , bệnh hình thúc …cần có tư duy toàn cầu ,
đặt đất nươc trong cuộc đua của thế giới đi vào kinh tế tri thức , kịp thời
điều chỉnh chiến lược , chính sách để thích nghi với sự phát triển nhanh
của thế giới đương đại.
2.Mộtsố quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn
liền vói phát triển kinh tế tri thức.
Quán triệt quan điểm của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với tri
thức và phát triển bền vững, nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi
chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
12


- Một là, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng

cuộc sống của nhân dân.
Trong vấn đề này cần coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền
vững hơn, gắn với phát triển con người; từng bước thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, nâng cao chất lượng sống và bảo đảm ngày càng tốt
hơn nhu cầu về văn hóa, giáo dục cho con người. Xây dựng cơ cấu kinh
tế hiện đại, hợp lý theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ. Phát triển
mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều
vào tri thức. Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát
huy năng lực sáng tạo ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội
tiếp thu tri thức của thế giới.
- Hai là, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 khẳng định: Phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh
tranh dài hạn, bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững... Phát triển
nguồn nhân lực cần phải quan tâm cả phát triển con người và hiện đại
hóa hoạt động giáo dục, đào tạo.
Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là
trung tâm.Trong những năm tới, Nhà nước phải đầu tư hơn nữa để phát
triển giáo dục.Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất
lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Trong đó cần:
Từng bước ứng dụng những công nghệ mới, hiện đại vào giảng dạy,
không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Chú trọng đào tạo
13


theo hướng tăng cường ứng dụng, thực hành. Huy động mọi nguồn lực

cho phát triển giáo dục - đào tạo.Tiến hành cải tiến công tác quản lý giáo
dục - đào tạo.Cải cách giáo dục phổ thông. Tăng cường giáo dục trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề. Gắn kết quá trình đào tạo ở nhà trường
với đào tạo tại các doanh nghiệp. Đổi mới giáo dục đại học và cao đẳng
theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo và gắn kết giữa giảng dạy,
nghiên cứu và sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội. Tăng nhanh đào tạo đội
ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ đại học, trên đại học và đội
ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh nhân. Mở
rộng quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ với nước
ngoài. Tuyển chọn đưa đi đào tạo ở các nước tiên tiến số lượng lớn cán
bộ khoa học - kỹ thuật thuộc các lĩnh vực ưu tiên chiến lược.
- Ba là, phát triển mạnh về khoa học công nghệ, tăng cường năng lực khoa
học công nghệ quốc gia.
Cương lĩnh của Đảng nêu rõ: Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm
động lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức; góp
phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Trong đó cần tập
trung: Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin, chuyển
hướng phát triển các lĩnh vực trọng yếu sang chủ yếu dựa vào tri thức.
Phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công
nghệ cao. Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển mạnh một số khu công
nghệ cao đã và đang hình thành ở nước ta như: Công viên phần mềm Sài
Gòn, Quang Trung, Khu công nghệ cao Láng - Hoà Lạc, trung tâm phần
mềm Hải Phòng, công viên phần mềm Đà Nẵng, Trung tâm phần mềm
Huế… coi đây là những hình mẫu, đầu tàu của khoa học công nghệ công nghiệp quốc gia.

14


Cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công nghệ

thông tin, nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá, công nghệ
năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học... Thu hút các tập
đoàn xuyên quốc gia, có tiềm lực khoa học-công nghệ và tài chính mạnh
đầu tư vào Việt Nam, khuyến khích xây dựng các trung tâm nghiên cứuphát triển, tạo sự lan toả ra toàn bộ nền kinh tế.
- Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong điều kiện khan hiếm các nguồn tài nguyên hiện nay, CNH, HĐH
tác động không thuận đến môi trường tự nhiên. Do đó văn kiện Đại hội
XI xác định: “Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự
án đầu tư… Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi
trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng
sạch”(2). Để cụ thể hóa quan điểm đó cần: Tăng cường quản lý tài
nguyên đất, nước, khoáng sản, rừng, bầu trời. Ngăn chặn các hành vi
huỷ hoại môi trường, khắc phục sự xuống cấp, tích cực phục hồi môi
trường, xử lý phế thải. Từng bước sử dụng công nghệ sạch, năng lượng
sạch.Phủ xanh đất trống, đồi trọc. Hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự
báo, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ. Tăng
cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, bảo vệ và cải thiện môi trường
tự nhiên.
Như vậy, hướng tới các mục tiêu của phát triển kinh tế bền vững trong
quá trình CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức đã được Đại hội Đảng XI
quan tâm một cách đặc biệt. Đây đã trở thành một phần quan trọng của
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến
lược phát triển của các ngành, lĩnh vực, bộ phận của nền kinh tế ở nước
ta. Đây chính là kết quả của quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta trong
15


Đại hội XI. Ngày nay, trước yêu cầu cao hơn của sự nghiệp đổi mới và

phát triển đất nước, hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn vào đời sống kinh tế
quốc tế, cuộc cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu sẽ rất gay gắt, chúng ta
cần tập trung nhiều hơn để thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm bảo
đảm cho thành công của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức, phát triển nhanh và bền vững của nước ta.
3.Phương hướng , nhiệm vụ phát triển kinh tế tri thức trong quá
trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa .
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định:
“phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Đây
là một trong những chủ trương có vai trò định hướng rất quan trọng
trong thời kỳ mới đến năm 2020. Ngay từ Đại hội lần thứ IX (năm
2001), lần đầu tiên Đảng ta xác định: "Kinh tế tri thức có vai trò ngày
càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất" và đề ra định
hướng "từng bước phát triển kinh tế tri thức". Đến Đại hội lần thứ X
(năm 2006) Đảng ta lại nhấn mạnh "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hóa gắn với từng bước phát triển kinh tế tri thức". Văn kiện Đại hội
lần thứ XI của Đảng có sự phát triển mới về nhận thức lý luận và thực
tiễn, đề ra định hướng: “phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên
tiến của thế giới”.
Sự đánh giá đúng đắn vị trí vai trò của kinh tế tri thức còn thể hiện trong
việc coi phát triển kinh tế tri thức là phương hướng số một trong 8
phương hướng cơ bản xây dựng nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một trong những định hướng lớn về khoa học công nghệ;
là một nội dung, nhiệm vụ chủ yếu trong sự nghiệp đổi mới trong nhiệm
kỳ 5 năm tới của Đảng. Có thể coi đây là một trong những chủ trương có
tính đột phá trong các giải pháp để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hóa ở nước ta so với các nước đi trước, và là nhân tố bảo đảm

16



sự phát triển nhanh, cân bằng và bền vững của nền kinh tế nước nhà
trong tương lai.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển Kinh tế tri thức
( KTTT) đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình
CNH,HĐH ở các nước đang phát triển. Nó đòi hỏi CNH,HĐH ở những
nước đi sau (như Việt Nam) phải đồng thời thực hiện hai quá trình: một
là, xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại; hai là, phát triển
KTTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là hai nội dung của
một quá trình diễn ra song hành và phải được thực hiện đồng thời. Đảng
ta xác định: CNH,HĐH ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường
đi tắt, rút ngắn. CNH,HĐH phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ:
chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một
nền kinh tế công nghiệp sang KTTT. Từ một trình độ thấp về kinh tế và
kỹ thuật, muốn đi nhanh và phát triển theo hướng hiện đại cần kết hợp
phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt. Theo đó, nền kinh tế nước ta
phải phát triển theo mô hình “lồng ghép”: một mặt, phải phát triển nông
nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản; mặt khác, phải phát triển
những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao. Vì thế, mạnh
dạn đi ngay vào phát triển KTTT thì chúng ta mới có khả năng thay đổi
phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH,HĐH, thực hiện được các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 mà Đảng ta đã đề ra. Do
vậy, gắn liền CNH,HĐH với phát triển KTTT là con đường để giải quyết
những vấn đề đó. Bởi, KTTT vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển bền
vững do nó không dựa chủ yếu vào việc khai thác các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển nhanh vì nó tạo ra sự
bùng nổ về thông tin và sức sáng tạo của nguồn nhân lực.
3. Liên hệ và một số giải pháp chủ yếu.

17



Từ thực tiễn trên cho thấy, để đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển
KTTT, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn ninh”, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản
sau:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Để
thực hiện tốt vấn đề đó, cần tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi
luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đổi mới công tác quy hoạch, kế
hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường; đồng thời,
thực hiện tốt chính sách xã hội. Cùng với đó, cần có hệ thống cơ chế và
chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ nhằm
nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành
mạnh của nền kinh tế; bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế; tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các
loại thị trường.
-

Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh. Trong quá trình đó, phải đặc biệt coi trọng
việc phát triển KTTT, bảo đảm tăng hàm lượng khoa học công nghệ và
tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; phát triển có chọn lọc công
nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng
lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất, công nghiệp quốc phòng. Cùng
với đó, cần ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản
phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; phát
triển mạnh công nghiệp hỗ trợ; từng bước phát triển công nghiệp sinh
học và công nghiệp môi trường. Đồng thời, cần chú ý phát huy hiệu quả

các khu, cụm công nghiệp (Khu công nghệ cao Hoà Lạc - Hà Nội, Khu
công nghệ phần mềm Quang Trung - thành phố Hồ Chí Minh...) và đẩy
18


mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo
thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn và hiệu quả cao.
-

Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao,
tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh. Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ
tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là
một hướng quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần tập trung
phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công
nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ
thông tin, y tế...; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ
khu vực và quốc tế. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia
tăng cao, như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, lô-gi-stíc và
các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác; phát triển mạnh dịch vụ KH&CN,
giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm và an
sinh xã hội.

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển
nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một đột phá chiến
lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng KH&CN, cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững. Trong quá trình đó, cần đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp

giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Chú ý
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ
và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề; thực hiện liên kết
chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo
và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Đồng
thời, thực hiện tốt các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng
cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn; chú trọng phát hiện,
19


bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển KTTT.
Theo đó, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách đồng bộ trong thực hiện
Nghị quyết số 27, ngày 06-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7, khoá X
về xây dựng đội ngũ tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước.
-

Tập trung phát triển Khoa học công nghệ, đảm bảo thực sự là động lực
then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, cần
hướng trọng tâm hoạt động Khoa học công nghệ vào phục vụ
CNH,HĐH, nhất là công nghệ thong tin, bảo đảm phát triển theo chiều
sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng
cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng KH&CN,
tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ.

- Cần sớm xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển KTTT, coi đây là
khâu đột phá để thực hiện chiến lược phát triển KT-XH.
- Cần đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức toàn dân về thời cơ và thách
thức đối với dân tộc ta khi nhân loại đang có một bước chuyển quan

trọng, quyết định từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí
tuệ- tương ứng với thời kỳ quá độ lên CNXH, để bắt nhịp với nền KTTT
đang hình thành trên thế giới. Đây cũng là cơ hội để thực hiện đường lối
mà Đảng ta đã vạch ra là "đi tắt, đón đầu" trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
- Thứ ba, cần coi trọng phát triển khoa học - công nghệ trên cơ sở dẫn dắt
và hỗ trợ của doanh nghiệp, được khuyến khích bởi động lực cạnh tranh
thị trường bình đẳng và lành mạnh. Chú trọng phát triển thị trường công
nghệ coi đây là môi trường kích thích quan trọng của nền khoa học công
nghệ quốc gia. Điều quan trọng để tạo lợi thế cạnh tranh trong thời đại
toàn cầu hoá và KTTT là phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao, cùng với việc tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới hệ thống hành
20


chính. Cạnh tranh trong nền KTTT thực sự là cuộc cạnh tranh gay gắt về
giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ. Vì thế, Nhà nước cần tạo
môi trường pháp lý để các pháp nhân hoạt động trên thị trường khoa học
- công nghệ được cạnh tranh bình đẳng.
- Thứ tư, cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như:
công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá,
công nghệ năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học... Tập trung
ưu tiên đầu tư phát triển mạnh một số khu công nghệ cao đã và đang
hình thành ở nước ta, coi đây là những hình mẫu, đầu tàu của khoa học công nghệ - công nghiệp quốc gia...
5. Một số giải pháp cụ thể , sát thực.
- Thứ nhất, khẩn trương xây dựng một Chương trình phát triển kinh tế
tri thức mang tầm cỡ chiến lược quốc gia, coi đây là “trục” của Chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
hiện đại.
- Thứ hai, tập trung ưu tiên xây dựng hai Trung tâm Quốc gia về Công

nghệ cao ở Hà Nội và ở TP Hồ Chí Minh, coi đây là mẫu hình, là đầu
tàu phát triển khoa học- công nghệ- cộng nghiệp của cả nước.
- Thứ ba, phát triển các Khu công nghiệp- công nghệ cao cấp vùng, với
hạt nhân là các Vườn ươm công nghệ- Vườn ươm doanh nghiệp hiện
đại, thay thế các Khu Công nghiệp kiểu cũ, đang tỏ ra kém hiệu quả,
thậm chí cản trở sự phát triển.
- Thứ tư, coi trọng nguyên tắc phát triển khoa học công nghệ với sự dẫn
dắt, hỗ trợ của thị trường- doanh nghiệp, được khuyến khích, nuôi
dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh thị trường lành mạnh. Đặc biệt chú
trọng phát triển thị trường công nghệ, coi đây là sức kích thích quan
trọng nhất của nền khoa học.

21


- Thứ năm, Nhà nước thực sự đóng vai trò bà đỡ, tạo khung khổ pháp lý
và hỗ trợ các điều kiện cần thiết để phát triển khoa học- công nghệ và
cho hoạt động nghiên cứu, nghiên cứu - triển khai.
- Thứ sáu, thực hiện một chiến lược phát triển khoa học có lộ trình phù
hợp với năng lực nội sinh và có khả năng tranh thủ các thành tựu của thế
giới. Trong giai đoạn đầu tiên, chiến lược đó cần dành sự ưu tiên cho
việc khuyến khích hoạt động tiếp nhận, học hỏi và ứng dụng thành tựu
khoa học- công nghệ của thế giới; trên nền tảng đó, tạo ra và làm mạnh
lên năng lực nghiên cứu nội sinh, từ đó, xây dựng nền khoa học- công
nghệ mạnh của Việt Nam, sánh vai với thế giới.
- Thứ bảy, thu hút các tập đoàn xuyên quốc gia, có tiềm lực khoa họccông nghệ và tài chính mạnh đầu tư vào Việt Nam, khuyến khích họ xây
dựng các trung tâm nghiên cứu- phát triển, tạo kênh để từ đó, tri thức
công nghệ lan toả rộng rãi ra toàn bộ nền kinh tế./.

22



C. PHỤ LỤC

23



×