Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích luận điểm của hồ chí minh “nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì, dân chỉ hiểu giá trị của tự do độc lập khi dân được ăn no mặc đủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.89 KB, 17 trang )

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nếu nước được độc lập mà
dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa
gì, dân chỉ hiểu giá trị của tự do độc lập khi dân được ăn no mặc đủ”.
Đề cương:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin
1.1 Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế,
văn hóa, đối ngoại; độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, bình đẳng
1.2 Mâu thuẫn của việc đề giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc
theo lập trường phong kiến và tư sản
1.3 Bản chất của chủ nghĩa xã shội là thực hiện triệt để giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người
1.4 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức,
bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn
minh.
2. Kinh nghiệm của Liên Xô
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga 1917
2.1 Cách mạng tháng Mười Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản, đội tiên phong của giai cấp vô sản; trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác Lênin

1


2.2 Đây là cuộc cách mạng đến nơi, đã giải phóng được giai cấp
công nhân và toàn thể nhân dân khỏi áp bức, bóc lột của xã hội tư bản
chủ nghĩa. Chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
được thiết lập.


2.3 Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh và đáp ứng khát
vọng giải phóng của hàng triệu, hàng triệu người dân bị áp bức, bóc lột
trên thế giới
3. Thực tiễn Việt Nam
3.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
3.2

Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám năm 1945

4. Nội dung tư tưởng Hồ Chí minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
4.1

Cách mạng dân tộc phải theo con đường cách mạng vô sản

4.2 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
4.2.1 Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để
tiến lên chủ nghĩa xã hội
4.2.2 Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành
quả của độc lập dân tộc
5. Tính đúng đắn của luận điểm
5.1

Lý luận

5.2

Thực tiễn


2


Bài làm:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin
1.1 Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế,
văn hóa, đối ngoại; độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, bình
đẳng
Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn
hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc
này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập
gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào
phải do quốc gia – dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên
ngoài.
1.2

Mâu thuẫn của việc đề giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc

theo lập trường phong kiến và tư sản
Việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến
và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ
nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ
bản chất kinh tế và chính trị của các chế độ ấy - những hình thái kinh tế xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ
đối kháng giai cấp
1.3

Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng

giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai

cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ
nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc
lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ
đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và
sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực
3


của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc
trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và
đời sống tinh thần ngày càng phong phú.
1.4 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa
văn minh.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực
lượng đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển
của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là
giai cấp có xứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự
áp bức bóc lộ, nghèo nàn lạc hậu, xâu dựng xã hội mới – xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
2. Kinh nghiệm của Liên Xô
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga 1917
2.1 CM tháng Mười Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, đội
tiên phong của giai cấp vô sản; trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác

Lênin
Năm 1917, dưới sự lãnh sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, đội tiên
phong của giai cấp vô sản; trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin,
Cách mạng Tháng Mười Nga đã giành được thắng lợi. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác Lênin từ lý luận đã trở thành
hiện thực. Thành công của cách mạng Tháng Mười khẳng định rằng chỉ
có cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, đội tiên phong
của giai cấp vô sản, dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin
mới đi tới thắng lợi và giành chính quyền về tay giai cấp vô sản.

4


2.2 Đây là cuộc cách mạng đến nơi, đã giải phóng được giai cấp
công nhân và toàn thể nhân dân khỏi áp bức, bóc lột của xã hội tư
bản chủ nghĩa. Chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động được thiết lập.
Cách mạng Tháng Mười Nga là cách mạng đến nơi vì nó không
những đánh đổ phong kiến (chính Phủ Sa Hoàng) mà còn đánh đổ cả
chính phủ tư sản lâm thời, giành chính quyền về tay nhân dân lao động.
Cách mạng Tháng Mười thành công, chính quyền của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động được thiết lập, những tàn tích của chế
độ cũ Sa hoàng bị xóa bỏ, giai cấp vô sản và nhân dân lao động nước
Nga thoát khỏi ách áp bức thống trị của chính quyền phong kiến chuyên
chế và tư sản phản động. Người dân bắt đầu một cuộc sống mới, cuộc
sống của người làm chủ xã hội.
2.3 Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh và đáp ứng khát
vọng giải phóng của hàng triệu người dân bị áp bức, bóc lột trên thế
giới
Với thắng lợi này lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga một chính

quyền của công-nông và những người lao động được thiết lập. Trong
những ngày đầu chính quyền đã thông qua những sắc lệnh khẳng định và
thể hiện rõ bản chất của một chính quyền vì dân. Đó là Sắc lệnh về hòa
bình, Sắc lệnh về ruộng đất; đồng thời công bố nhiều chính sách ưu việt
như ngày làm việc 8 giờ, bảo hiểm xã hội, giáo dục không mất tiền, tự
do tín ngưỡng, nam nữ bình đẳng.....Những lý tưởng về một xã hội công
bằng, dân chủ, một xã hội xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên trên thế giới đã
và đang hiện thực hóa.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời đại mới “thời
đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc cách
mạng này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhân dân các nước, đã đáp ứng khát vọng giải phóng của nhân dân
Liên Xô nói riêng và hàng triệu người dân bị áp bức, bóc lột trên thế
giới nói chung.
5


3. Thực tiễn Việt Nam
3.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Năm 1858, thực dân pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm
thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân
Pháp thiết lập nộ máy thống trị ở Việt Nam. Chính sách thống trị của
thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên cả lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai
giai cấp mới công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người mất nước, và ở
những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy,
trong xã hội Việt Nam ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu
là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa

cơ bản, vừa chủ yếu và ngày cang gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là:
mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam vớ thực dân Pháp xâm lược.
Tính chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Thực
tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu: một là, phải đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là,
xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu
là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc
là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong đấu tranh giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Mục
tiêu của các cuộc đấu tranh thời kì này đều hướng tới giành độc lập cho
dân tộc nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục
chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao
hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra
với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động; hoặc cải cách;
với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để
6


thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp…. Nhưng
cuối cùng để thất bại.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến
và hệ tư tưởng phong kiến cũng như giai cấp tư sản và hệ tư tưởng tư
sản không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết
thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
3.2

Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám năm 1945

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân

chủ cộng hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân
dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi, vừa gặp phải nhiều
khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
Thuận lợi cơ bản là trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên
Xô đứng đầu được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào
dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước, chính
quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ Trung ương tới
cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Lực lượng
vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt
Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch.
Khó khăn nghiêm trọng là do hậu quả của chế độ cũ để lại như nạn
đói, nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia trống rỗng. Kinh nghiệm
quản lý đất nước của các bộ các cấp non yếu. Nền độc lập nước ta chưa
được quốc gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Với danh nghĩa Đồng minh đến tước khí giới của phátxít Nhật, quân đội
các nước ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt
gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia
cắt đất nước ta. Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với

7


nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, hỏng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
“Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ
mới, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, Tổ quốc lâm nguy.
4. Nội dung tư tưởng Hồ Chí minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
4.1


Cách mạng dân tộc phải theo con đường cách mạng vô sản

Thất bại của các phong trào yêu nước ở nước ta cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX là do chưa có đường lối và phương pháp đúng đắn. Hồ
Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước của những người đi trước,
nhưng Người không tán thành con đường cứu nước của các vị ấy, mà
quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới. Ra nước ngoài tìm
hiểu các cuộc cách mạng tư sản lớn trên thế giới như: cách mạng Pháp,
cách mạng Mỹ Người thấy các cuộc cách mạng này tuy đã giành thắng
lợi hơn 150 năm mà nhân dân lao động vẫn khổ và họ đang muốn làm
cách mạng lần nữa. Nhận thức được rằng, cách mạng tư sản chỉ thay thế
chế độ bóc lột này bằng chế chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ không
xóa bỏ được áp bức bóc lột, vì thế Người cho rằng đó là những cuộc
cách mạng không đến nơi, không triệt để. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ
của giai cấp tư sản không phải là lối thoát cho dân tộc. Từ khi đọc được
bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh đã tìm thấy một con đường
cứu nước mới: Con đường cách mạng vô sản. Người đã khẳng định:
"Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con
đường cách mạng vô sản”.
4.2
4.2.1

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt, là cơ sở, tiền đề để tiến

lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa, của
những người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh

nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn
8


tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến
quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự
do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai.
Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những
tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành
chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. Độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở
thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ ra
nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá
nhân con người, hình thành các nhân cách phát triển tự do. Trong đó giải
phóng dân tộc phải được ưu tiên hàng đầu.
Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18
của Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: “Tại sao đồng
chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III?” Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn.
Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều
điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề
thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất
cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Cũng ngay
tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc
địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn
của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời
là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…”. Trong quá
trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận những
nhân tố về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của
Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của cách mạng

Pháp. Từ đó, Người đã khái quát và nâng lên thành quyền dân tộc: “Tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

9


Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã
được các nước Đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất
thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Người gửi tới hội
nghị Vécxây (Pháp) bản Yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do,
dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách này chưa đề cập đến vấn
đề độc lập hay tự trị, mà tập trung vào hai nội dung: thứ nhất đòi quyền
bình đẳng về chế độ pháp lý cho ngưởi bản xứ Đông Dương như đối với
người châu Âu; thứ hai đòi các quyền tự do dân chr tối thiểu cho nhân
dân. Bản Yêu sách đó không được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn Ái
Quốc kết luận: “Muốn giải phóng dân tộc, không thể bị động trông chờ
vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của
chính dân tộc mình”. Người cũng đã tìm ra con đường giành lại độc lập
cho dân tộc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác
định mục tiêu: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến”,
“Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lầ thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc. Tháng 61941, Người viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Người chỉ đạo thành lập Việt
Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), ra báo Việt Nam độc lập, ban bố
Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục đầu tiên là: “Cờ treo độc
lập, nền xây bình quyền”.

Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói
chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc

10


này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải cương quyết giành cho được độc lập.”
Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ
lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thể
thế giới: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật
đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”.
Trong thư và điện gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước
vào thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng
tuyên bố: “… Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết đấu tranh đến cùng để bảo
vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc
lập cho đất nước”.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập
chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang dội núi sông: “Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”.
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền
Bắc bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh
có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Không
có gì quý hơn độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh

làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn
động viên lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy,
Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của
11


Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh
giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do
của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời
quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh
phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc
còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với
các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung
sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
4.2.2

Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả

của độc lập dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng
lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì
sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà
thôi. Bởi : “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do
hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì…”.Do đó sau cách mạng dân
tộc dân chủ giành thắng lợi sẽ chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đó là bước phát triển tất yếu.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi

nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong
kiến. Bởi vậy, theo Người một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý
nghĩa quyết định của cách mạng Việt Nam là phải đưa đất nước tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã
hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho mọi người, mọi dân tộc. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột
bậc của Hồ Chí Minh và cũng là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của
nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham
12


muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành.”
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm
giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước
thuộc
địa
nửa
phong
kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện
được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả
nhân loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ
Chí Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa
tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí
Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học
của thời đại cũng chính là ở chỗ đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc,

chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và
gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả
Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là
phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là
đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế
độ
phong
kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc
giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện
được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.
13


Sau khi dành được độc lập dân tộc chúng ta đã có những điều kiện cần
thiết để thực hiện chủ nghĩa xã hội đồng thời đi lên chủ nghĩa xã hội
cũng có nghĩa chúng ta đang xây dựng cơ sở vững chắc để bảo vệ nền
độc lập mà toàn quân, toàn dân ta đã phải đổ xương máu để đạt được.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ
một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến
để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm
sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học

hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong
tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã
hội”.
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Theo người, muốn nâng cao đời
sống nhân dân thì phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là
nâng cao đời sống nhân dân. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân đó là
tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ
nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra
khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu hoặc không có gì
tương hợp với chủ nghĩa xã hội.
Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã
khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội đã
tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn
diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội
đến giải phóng từng cá nhân con người, hình thành các nhân cách phát
triển tự do.
5. Tính đúng đắn của luận điểm
5.1 Lý luận
Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ
nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan;
xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt
14


Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất
phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và
nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội,
đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước

Việt Nam hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập
dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ
phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu
thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị của
các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư
hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp. Vượt qua
những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập
theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn
hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc
này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập
gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào
phải do quốc gia – dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên
ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ
nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc
lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ
đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và
sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực
của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc
trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và
đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc
vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với
các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để
15



đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ
khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết
bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
5.2

Thực tiễn
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Chánh cương vắn
tắt của Đảng ghi rõ: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây chính là nội dung độc
lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội, sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ
Chí Minh và cách mạng Việt Nam.Tuy nhiên, giai đoạn từ 1930 đến
Cách mạng Tháng Tám, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có
một sắc thái biểu hiện riêng, khá độc đáo. Đó là độc lập dân tộc là mục
tiêu trước mắt, nhiệm vụ hàng đầu, cốt yếu của Đảng và toàn dân tộc.
Hồ Chí Minh phân tích rõ Pháp - Nhật không phải chỉ là kẻ thù của công
nông mà là kẻ thù của cả dân tộc. Vì vậy trước hết phải giải phóng cho
được dân tộc khỏi ách của giặc Pháp - Nhật. Nói như thế không phải là
Đảng thủ tiêu vấn đề giai cấp đấu tranh. Vấn đề giai cấp đấu tranh vẫn
tồn tại mãi mãi. Nhưng đây là giai đoạn quốc gia trước hết, Tổ quốc trên
hết, nên vấn đề giai cấp phải gác lại để giải quyết sau. Nói cách khác,
giai đoạn này, chủ nghĩa xã hội mới ở dạng định hướng tiến lên của độc
lập dân tộc nhưng mang lại cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
tính triệt để cách mạng hơn bao giờ hết. Hội nghị Trung ương 8 (5-1941)
nhấn mạnh “không thể làm cách mạng giải phóng rồi ngưng lại mà phải
đi đến làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, tức là giai cấp vô sản sẽ bước
những bước vĩ đại của lịch sử để tiến lên cách mạng vô sản”. Đây là một
trong những lý do cắt nghĩa tại sao trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam

ra đời, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam không giành được thắng
lợi, nhưng từ khi có Đảng lãnh đạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám 1945 là minh chứng hùng hồn đầu tiên cho sự
đúng đắn của tư tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội.” Từ đầu
năm 1941, sau khi trở về nước, Hồ Chí Minh trực tiếp theo dõi sát sao
mọi diễn biến của thời cuộc và trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng
Việt Nam. Đến giữa tháng 8-1945, khi thời cơ đến, Hồ Chí Minh đã kịp
16


thời phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền. Cách mạng Tháng
Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra một
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do.
Cách mạng Tháng Tám thành công là nhờ vũ khí không gì thay thế
được là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
đúng đắn của Đảng. Đảng ta và Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, khơi
dậy sức mạnh của cả dân tộc “rũ bùn đứng dậy chói lòa”, làm nên thắng
lợi Cách mạng Tháng Tám lẫy lừng, “biến người nô lệ thành người tự
do”.
Trong các kỳ Đại hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội và nhất quán thực hiện mục tiêu đó. “Trước
sau như một, nhân dân ta vẫn kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. Đó là
mục tiêu chiến đấu 60 năm qua của Đảng và nhân dân ta. Con đường
chúng ta lựa chọn phù hợp với trào lưu tiến hóa chung của thời đại.”
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt
của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải
đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng,
là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục
giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong
khu vực và trên thế giới.

17



×