Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TPP Cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.08 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
HỆ CHẤT LƯỢNG CAO – KHOA NGÂN HÀNG
----------

TIỂU LUẬN MÔN : NHỮNG NLCB CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

Đề tài : Triển vọng cho nền kinh tế Việt Nam sau khi ra nhập TPP

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
Lớp

: Nguyễn Thị Kim Anh

: K18CLCB

1


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………………….3
I . GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO XUYÊN THÁI BÌNH
DƯƠNG
1.Giới thiệu chung về TPP……………………………………………………….4
2. Thành viên……………………………………………………………………..4
3.Hiệp định TPP và quá trình đàm phán ………………………………………...5
II. TRIỂN VỌNG CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHI RA NHẬP TPP
1.
2.
3.


Vị trí của Việt Nam trong TPP………………………………………………….10
Triển vọng cho nền kinh tế Việt Nam sau khi ra nhập TPP…………………….10
TPP kì tích lịch sử nhưng cũng lắm chông gai cho Việt Nam………………….14

III. KẾT LUẬN……………………………………………………………………17

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TPP : Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement-Hiệp định hợp
tác Kinh tếchiến lược Xuyên Thái Bình Dương
WTO : World Trade Organization-Tổ chức thương mại thế giới
SPS : Sanitary and Phytosanitary Measure – viết tắt là biện pháp SPS là biện
pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
TBT : Technical Barriers to Trade -các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một
nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình nhằm đánh giá sự
phù hợp, còn gọi là các biện pháp kỹ thuật
GDP : Gross Domestic Product-tổng sản phẩm quốc nội
SOEs : Doanh nghiệp nhà nước
GSP : Generalized Systems of PrefrencesHệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
ILO : International Labour Organization Tổ chức Lao động Quốc tế
APEC : Asia-Pacific Economic Cooperation-Diễn đàn Hợp tác Kinh tếchâu Á –
Thái Bình Dương

3


NỘI DUNG
I . GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO XUYÊN THÁI BÌNH

DƯƠNG

1.Giới thiệu chung về TPP
Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là TPP) là một Hiệp định
thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng
thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương. Do lúc
đầu chỉ có 4 nước tham gia nên còn được gọi là P4. Hiệp định này khởi nguồn là
Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chi-lê, Niu Di-lân
và Xinh-ga-po (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002
tổ chức tại Mê-hi-cô. Tháng 4 năm 2005, Bru-nei xin gia nhập với tư cách thành
viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.
2. Thành viên
Hiện thời TPP chỉ có 4 thành viên chính thức Brunei, Chile, New Zealand và
Singapore. Việt Nam đã chính thức ký kết TPP vào ngày 04 tháng 02 năm 2016
và TPP sẽ bắt đầu có hiệu lực 2 năm sau đó.

4


3.Hiệp định TPP và quá trình đàm phán
Tính đến nay (tháng 5/2015), đàm phán TPP đã trải qua 19 Vòng đàm phán
chính thức, 04 Phiên họp cấp Bộ trưởng thương mại và hàng chục vòng đàm
phán không chính thức cấp kỹ thuật hoặc cấp Trưởng Đoàn đàm phán. Bên
cạnh đó là một số lượng rất lớn cuộc gặp, đàm phán song phương giữa các cặp
đối tác trong TPP (ví dụ giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản về vấn đề nông nghiệp, ô tô;
giữa Hoa Kỳ với Việt Nam về vấn đề mở cửa thị trường, dệt may, giầy dép, lao
động…) về những vấn đề thuộc quan tâm riêng của các cặp đối tác hoặc những
nội dung được thỏa thuận là không đàm phán chung.
Từ năm 2011, các nước TPP đã nhiều lần đặt ra các thời hạn mục tiêu để kết

thúc đàm phán (cuối 2011, rồi cuối 2012, cuối 2013, nửa đầu năm 2014, cuối
2014) nhưng đều không thành công. Cho tới ngày Vào ngày 4/10/2015, Bộ
trưởng của 12 nước tham gia TPP gồm Úc, Brunei , Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, và Việt Nam đã tuyên bố
kết thúc đàm phán với kết quả là một Hiệp định có những tiêu chuẩn cao, tham
vọng, toàn diện và cân bằng với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ
tạo ra và duy trì việc làm; tăng cường đổi mới, năng suất, và sức cạnh tranh;
nâng cao mức sống; giảm đói nghèo ở các nước ký kết; đồng thời thúc đẩy quản
lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao động, và bảo vệ môi trường... Trong đó
có nhiều nội dung khiến TPP trở thành hiệp định quan trọng của thế kỉ 21,đặt
ra các tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu, đồng thời tiếp tục giải quyết
các vấn đề của thời đại mới . Đó là :


Về thương mại hàng hóa

Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng
rào phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm
thuế quan cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa
nông nghiệp.
Việc xóa bỏ phần lớn thuế quan đối với hàng công nghiệp sẽ được thực hiện
ngay lập tức mặc dù thuế quan đối với một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ với lộ
trình dài hơn do các bên thống nhất.
Đối với hàng nông nghiệp, các bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các
chính sách mang tính hạn chế khác để gia tăng thương mại hàng nông
nghiệp trong khu vực, cải cách về mặt chính sách, bao gồm cả việc thông qua
5


xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp. Các bên tham gia TPP đưa ra các quy

định hạn chế việc cấp vốn ưu đãi từ chính phủ hoặc các chính sách khác gây
bóp méo thương mại nông sản.



Về dệt may
Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may ngành công nghiệp. Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt
dù thuế quan đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ
trình dài hơn do các bên thống nhất.
Chương dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc sử
dụng sợi và vải từ khu vực TPP.
Chương này còn đề cập đến các cam kết về hợp tác và thực thi hải quan
nhằm ngăn chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ chế tự
vệ đặc biệt đối với dệt may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc
nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước
trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.



Về quy tắc xuất xứ
Về nguyên tắc xuất xứ, 12 nước thành viên TPP đã thống nhất về một bộ
quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do
vậy được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Các nhà nhập khẩu sẽ có thể
yêu cầu được hưởng ưu đãi về xuất xứ với điều kiện họ có các chứng từ
chứng minh.
Ngoài ra, các bên nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập
khẩu và các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng
tân trang - việc này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận
để chuyển thành các sản phẩm mới.
Nếu các bên TPP duy trì yêu cầu cấp phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu thì

phải thông báo cho các bên kia về những quy trình không nhằm mục đích
làm chậm sự lưu thông thương mại.



Về quản lí hải quan và thuận lợi hóa thương mại
6


Các nước nhất trí về các quy định liên quan tới xử phạt hải quan để bảo
đảm các hình thức xử phạt này được thực hiện một cách công bằng và
minh bạch.
Bên cạnh đó, vì tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đối các lĩnh vực
kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước TPP đã
nhất trí về các quy định hải quan đối với chuyển phát nhanh.
Để hỗ trợ việc chống buôn lậu và trốn thuế, các nước tham gia TPP nhất
trí cung cấp thông tin khi được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực
thi luật hải quan.


Đối với các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS)
Các nước TPP nhất trí cho phép công chúng được đóng góp ý kiến vào các
dự thảo quy định SPS trong quá trình đưa ra quyết định và ban hành
chính sách cũng như để bảo đảm rằng doanh nghiệp hiểu rõ các quy định
mà họ sẽ phải tuân thủ.
Việc kiểm tra hàng hóa đáp ứng các quy định SPS được dựa trên các rủi
ro tiềm tàng trên thực tế có gắn với việc nhập khẩu và thông báo cho nhà
nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong vòng bảy ngày nếu hàng hóa bị cấm
nhập khẩu vì lý do liên quan đến SPS.




Đối với hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
Các thành viên TPP đã nhất trí về các nguyên tắc minh bạch và không
phân biệt đối xử khi xây dựng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy
trình đánh giá sự phù hợp.
Để cắt giảm chi phí cho các doanh nghiệp TPP, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ, các thành viên TPP nhất trí các quy định giúp xóa bỏ các quy
trình kiểm tra và chứng nhận trùng lắp đối với các sản phẩm, thiết lập
quy trình dễ dàng hơn giúp các công ty tiếp cận thị trường các nước TPP.
Ngoài ra, hiệp định TPP bao gồm các phụ lục liên quan tới các quy định về
các lĩnh vực cụ thể nhằm thúc đẩy các cách tiếp cận chung về chính sách
trong khu vực TPP.

7


Các lĩnh vực này bao gồm mỹ phẩm, thiết bị y tế, dược phẩm, các sản
phẩm công nghệ thông tin và truyền thông, rượu và đồ uống có cồn, thực
phẩm và các chất gây nghiện và các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.


Chương phòng vệ thương mại
Trong hiệp định TPP cho phép một thành viên thực hiện một biện pháp tự
vệ tạm thời trong một khoảng thời gian cụ thể nếu việc nhập khẩu tăng
đột biến do kết quả của việc cắt giảm thuế được thực hiện theo hiệp định
TPP đủ để gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong
nước.
Các biện pháp này có thể được duy trì lên tới 2 năm, với việc gia hạn 1
năm, nhưng phải được tự do hóa dần dần nếu các biện pháp này đã kéo

dài hơn một năm.



Trong chương thương mại điện tử
Nghiêm cấm việc áp dụng thuế quan đối với các sản phẩm kỹ thuật số và
ngăn chặn các thành viên TPP tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản
xuất hoặc nhà cung cấp dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật
số này thông qua các biện pháp như thuế phân biệt đối xử hoặc sự ngăn
cấm một cách rõ ràng.
Các thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt các
tin nhắn thương mại điện tử được gửi đi không do yêu cầu.



Đối với mua sắm chính phủ
Các thành viên sẽ chỉ duyệt hợp đồng dựa trên những tiêu chí đánh giá đã
mô tả trong các thông báo và hồ sơ dự thầu, sẽ xây dựng các quy trình
hợp lý để chất vấn hoặc xem xét các khiếu nại đối với một phê duyệt nào
đó. Mỗi thành viên sẽ đưa ra một danh sách chọn cho các đơn vị mà thành
viên đó sẽ xây dựng, được liệt kê tại phụ lục gắn liền với Hiệp định TPP.



Trong chương doanh nghiệp nhà nước (SOEs)
Tất cả các thành viên TPP đều có doanh nghiệp nhà nước nên nhất trí bảo
đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt động thương mại trên
cơ sở tính toán thương mại, trừ trường hợp không phù hợp với nhiệm vụ
mà các SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các dịch vụ công.
8



Các thành viên cũng đồng ý bảo đảm rằng các SOEs hoặc đơn vị độc quyền
sẵn có không có những hoạt động phân biệt đối xử đối với các doanh
nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các thành viên khác.
Các thành viên TPP đồng ý chia sẻ danh sách các SOEs với các thành viên
khác và khi được yêu cầu sẽ cung cấp các thông tin bổ sung về mức độ sở
hữu hoặc kiểm soát của chính phủ và những hỗ trợ phi thương mại cung
cấp cho các SOEs.


Hiệp định TPP quy định việc thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thống nhất các cuộc họp định kỳ sẽ được tiến hành để rà soát mức độ hỗ
trợ của hiệp định TPP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cân nhắc các
cách thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của hiệp định và giám sát
các hoạt động hợp tác hoặc nâng cao năng lực để hỗ trợ cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ thông qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ; chia sẻ thông tin; cấp vốn thương mại và các hoạt
động khác.
Đáng chú ý, TPP sẽ tạo nên các cơ chế chính thức nhằm rà soát tác động
của TPP lên sức cạnh tranh của các thành viên thông qua các cuộc đối
thoại giữa các chính phủ và giữa chính phủ với doanh nghiệp và cộng
đồng, tập trung tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực nhằm đánh giá
sự phát triển, tận dụng lợi thế của các cơ hội mới, và giải quyết bất cứ các
thách thức có thể nổi lên khi hiệp định TPP có hiệu lực.
Trong số các giải pháp này có việc thành lập Ủy ban Về cạnh tranh và tạo
thuận lợi kinh doanh. Ủy ban này sẽ nhóm họp thường xuyên nhằm rà
soát tác động của hiệp định TPP lên sức cạnh tranh của khu vực và quốc
gia, và lên hệ thống kinh tế khu vực.




Ngoài ra, những nội dung về thương mại dịch vụ qua biên giới, dịch vụ tài
chính, nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh, viễn thông, chính sách
cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, minh bạch hoá và chống tham nhũng, các điều
khoản về hành chính và thể chế, giải quyết tranh chấp…cũng là nội dung
quan trọng trong hiệp định TPP.

9


II. TRIỂN VỌNG CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHI RA NHẬP TPP
1. Vị trí của Việt Nam trong TPP
Việt Nam hiện tại đứng thứ 8 về diện tích, thứ 8 về xuất khẩu, nhập khẩu,
thứ 11 về GDP, chiếm 0,5% về GDP, 2,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, chiếm
2% tổng kim ngạch nhập khẩu của TPP. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam
vào TPP năm 2013 chiếm 39%, nhập khẩu của Việt Nam năm 2013 từ TPP
chiếm 22,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, xuất khẩu của Việt
Nam vào TPP chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của các nước
thành viên.
Về kinh tế, trong tương lai Việt Nam là nước đem lại giá trị gia tăng lớn
thứ 2 cho Hoa Kỳ, sau Nhật Bản. Về chiến lược, Việt Nam là một nước có
trình độ thấp nhất trong các nước tham gia TPP, do đó, Việt Nam sẽ là
hình mẫu để Hoa Kỳ thúc đẩy các nước khác trên vành đai Thái Bình
Dương tham gia đàm phán khu vực mậu dịch tự do APEC. Ngoài ra, Việt
Nam cũng có vị trí địa chính trị rất quan trọng trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương, địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất
là giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc.
Trên cơ sở đó, TPP mở ra những cơ hội rất lớn cho Việt Nam về các mặt
thu hút đầu tư, mở rộng xuất khẩu, tiếp nhận công nghệ mới, cơ cấu lại

nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh…
Chính vì thế Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có
trình độ phát triển thấp nhất trong 12 nước tham gia Hiệp định nhưng sẽ
là nước được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP.
2.

Triển vọng cho nền kinh tế Việt Nam sau khi ra nhập TPP
2.1: Các lợi ích khai thác từ thị trường nước ngoài (các nước đối tác TPP)



Lợi ích thuế quan (đối với thương mại hàng hóa) :

10


Lợi ích này được suy đoán là sẽ có được khi hàng hóa Việt Nam được tiếp
cận các thị trường này với mức thuế quan thấp hoặc bằng 0. Như vậy lợi
ích này chỉ thực tế nếu hàng hóa Việt Nam đang phải chịu mức thuế quan
cao ở các thị trường này và thuế quan là vấn đề duy nhất cản trở sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường này.
Là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, việc chúng ta có thể tiếp cận
các thị trường lớn như Hoa Kỳ với mức thuế suất bằng 0 hoặc thấp như
vậy sẽ mang lại một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng hết
sức sáng sủa cho nhiều ngành hàng của chúng ta, kéo theo đó là lợi ích
cho một bộ phận lớn người lao động hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ
xuất khẩu. Lợi ích này không chỉ dừng lại ở những nhóm mặt hàng mà
Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu (ví dụ như dệt may, giầy dép…), nó
còn là động lực để nhiều nhóm mặt hàng khác hiện chưa có kim ngạch
đáng kể có điều kiện để gia tăng sức cạnh tranh. Nói một cách khác, lợi

thế này không chỉ nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được nhìn thấy ở cả tiềm
năng trong tương lai.
Tuy nhiên, lợi ích này cần được đánh giá một cách chừng mực hơn, đặc
biệt khi quyết định đánh đổi quyền tiếp cận thị trường Việt Nam của hàng
hóa nước ngoài để có được những lợi ích này. Cụ thể:
+ Thực tế, cơ hội tăng mạnh xuất khẩu không phải cho tất cả khi mà ví dụ
đối với Hoa Kỳ, hàng thủy sản chưa chế biến hay đồ gỗ (hai lĩnh vực xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường này) thực tế đã đang được
hưởng mức thuế suất gần bằng 0, vì vậy có TPP hay không cũng không
quan trọng. Cũng như vậy, dù rằng tương lai không hẳn chắc chắn nhưng
một số mặt hàng có thể được Hoa Kỳ xem xét cho hưởng GSP “miễn phí”
nếu chúng ta có nỗ lực vận động tốt mà không cần TPP với những cái giá
phải trả có thể lớn (bằng việc mở cửa thị trường nội địa cũng như những
ràng buộc khác). Đối với các ngành thuộc nhóm này, lợi ích thuế quan là
không đáng kể (hoặc không có). Tình trạng tương tự với một số thị
trường khác (ví dụ Úc, New Zealand, Peru hiện đã áp dụng mức thuế 0%
cho các sản phẩm thủy sản như cá, tôm, cua… của Việt Nam);
+ Đối với những mặt hàng khác, trong khi cơ hội tăng xuất khẩu với giá
cạnh tranh là có thật và rất lớn (ví dụ dệt may, da giầy), những rào cản
dưới dạng quy định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay kiện phòng vệ thương
mại với quy chế nền kinh tế phi thị trường mà Hoa Kỳ thực hiện rất có thể
sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan. Cũng như vậy những điều
11


kiện ngặt nghèo về lao động, về xuất xứ nguyên liệu cũng có thể khiến
hàng hóa Việt Nam không tận dụng được lợi ích từ việc giảm thuế trong
TPP.
Nói một cách khác, những lợi ích về thuế quan trên thị trường nước đối
tác TPP (đặc biệt là Hoa Kỳ) chỉ thực sự đầy đủ khi xem xét tất cả các yếu

tố. Và nếu bất kỳ yếu tố nào trong số những rào cản đối với hàng xuất
khẩu không được cải thiện thì lợi ích thuế quan từ TPP sẽ bị giảm sút,
thậm chí nếu những rào cản này bị lạm dụng, lợi ích từ thuế quan có thể
bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Phương án đàm phán về thuế quan vì vậy cần
phải lưu ý đến tất cả những yếu tố này.


Lợi ích tiếp cận thị trường (đối với thương mại dịch vụ và đầu tư) :
Về lý thuyết Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường rộng lớn của các nước
đối tác như Mỹ, Nhật Bản, Canada một cách thuận lợi hơn, với ít các rào
cản và điều kiện hơn, kết hợp với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi
trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ góp phần thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhất là của các tập đoàn lớn.
Nếu biết tận dụng thời cơ này, Việt Nam sẽ hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu
tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới
để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu
vực và toàn cầu do TPP đem lại.
Tuy vậy trên thực tế dịch vụ của Việt Nam hầu như chưa có đầu tư đáng
kể ở nước ngoài do năng lực cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp Việt
Nam còn yếu kém. Trong tương lai, tình hình này có thể thay đổi đôi chút
(với những nỗ lực trong việc xuất khẩu phần mềm, đầu tư viễn thông hay
một số lĩnh vực dịch vụ khác) tuy nhiên khả năng này tương đối nhỏ.
Ngoài ra, với hiện trạng mở cửa tương đối rộng về dịch vụ của các đối
tác quan trọng trong TPP như hiện nay, lợi ích này có thể không có ý
nghĩa (bởi có hay không có TPP thì thị trường dịch vụ của họ cũng đã mở
sẵn rồi). Đây cũng chính là lý do nhiều ý kiến cho rằng các nước phát
triển sẽ được lợi về dịch vụ trong TPP trong khi những nước như Việt
Nam hầu như không hưởng lợi gì từ việc này.
2.2


: Các lợi ích khai thác được tại thị trường nội địa (Việt Nam)
12


Nhiều chuyên gia cho rằng chúng ta có thể “có lời” từ TPP ở thị trường
nội địa khá nhiều . “Khoản lời” này nằm ở những khía cạnh sau đây:


Lợi ích từ việc giảm thuế hàng nhập khẩu từ các nước TPP:
Người tiêu dùng và các ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu
từ các nước này làm nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa,
nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí sinh hoạt và sản xuất, từ đó có thể
giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của những ngành này;



Lợi ích từ những khoản đầu tư, dịch vụ đến từ Hoa Kỳ và các nước đối tác
TPP:
Đó là một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, mang lại dịch vụ giá
hơn chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, những công nghệ và phương
thức quản lý mới cho đối tác Việt Nam và một sức ép để cải tổ và để tiến
bộ hơn cho các đơn vị dịch vụ nội địa;



Lợi ích đến từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng những đòi
hỏi chung của TPP:

TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết về những vấn đề xuyên suốt
như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ

trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát
triển… Đây là những lợi ích lâu dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời
sống kinh tế - xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với nhóm doanh nghiệp chiếm
tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp nhỏ và vừa) và do đó là rất đáng kể;


Lợi ích đến từ việc mở cửa thị trường mua sắm công:

Mặc dù mức độ mở cửa đối với thị trường mua sắm công trong khuôn khổ
TPP chưa được xác định cụ thể nhưng nhiều khả năng các nội dung trong
Hiệp định về mua sắm công trong WTO sẽ được áp dụng cho TPP, và nếu
điều này là thực tế thì lợi ích mà Việt Nam có được từ điều này sẽ là triển
vọng minh bạch hóa thị trường quan trọng này – TPP vì thế có thể là một
động lực tốt để giải quyết những bất cập trong các hợp đồng mua sắm
công và hoạt động đấu thầu xuất phát từ tình trạng thiếu minh bạch hiện
nay;
13


Lợi ích đến từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường:



Mặc dù về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó khăn
cho Việt Nam (đặc biệt là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi
phí tuân thủ của doanh nghiệp) nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu
chuẩn trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt
hơn vấn đề bảo vệ môi trường (đặc biệt trong đầu tư từ các nước đối tác
TPP) và bảo vệ người lao động nội địa.
3.


TPP kì tích lịch sử nhưng cũng lắm chông gai cho Việt Nam
Những bất lợi ở thị trường các nước đối tác TPP

3.1


Các yêu cầu tiêu chuẩn cao về môi trường và lao động
Như đã đề cập, khả năng những vấn đề về môi trường và lao động được
đưa vào phạm vi điều chỉnh của TPP theo hướng nâng cao các tiêu
chuẩn/yêu cầu về các lĩnh vực này là rất lớn. Trên thực tế, các yêu cầu này
ở các thị trường đối tác TPP (đặc biệt là Hoa Kỳ) đã từng hoặc đang khiến
nhiều loại hàng hóa xuất khẩu gặp nhiều thách thức ở các thị trường này
(ví dụ tiêu chuẩn về nguồn gốc đối với các sản phẩm có chứa gỗ). Vì vậy
đây luôn luôn là vấn đề hóc búa đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.



Các thủ tục ràng buộc về ban hành và thực thi các quy định về TBT, SPS,
phòng vệ thương mại…
Khả năng TPP tương lai có các điều khoản về TBT, SPS, phòng vệ thương
mại…là rất lớn. Đây lại là những rào cản mà hàng hóa xuất khẩu Việt
Nam lâu nay phải đối mặt ở các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Do đó lo lắng rằng những cam kết về các vấn đề này có thể khiến cho
những lợi thế về thuế quan mà hàng hóa xuất khẩu Việt Nam được hưởng
từ TPP bị vô hiệu hóa không phải không có cơ sở.
3.2 : Những bất lợi ở thị trường nội địa




Bất lợi từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa từ các nước đối tác TPP
Việt Nam hiện vẫn còn là thị trường tương đối đóng với nhiều nhóm mặt
hàng và còn giữ mức thuế khá cao (và với lộ trình mở cửa dài). Vì thế việc
14


phải cam kết giảm thuế đối với phần lớn các nhóm mặt hàng từ các nước
đối tác TPP dự kiến sẽ gây ra 02 bất lợi trực tiếp, bao gồm giảm nguồn
thu ngân sách từ thuế nhập khẩu và cạnh tranh trong nước gay gắt hơn.
Về việc giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu sau khi thực hiện TPP là
hệ quả chắc chắn và trực tiếp. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng lượng
thất thu từ thuế nhập khẩu của Việt Nam từ các đối tác TPP không thật sự
lớn so với hiện trạng .Và do đó tác động bất lợi này không phải là quá
nghiêm trọng.
Giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào
Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn. Hệ quả tất yếu là thị phần
hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt
hơn. Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nông sản, vốn
gắn liền với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là nông dân
và nông thôn.


Bất lợi từ việc mở cửa các thị trường dịch vụ
Dịch vụ là mảng hoạt động thương mại mà mức độ mở cửa thị trường
của Việt Nam là hạn chế và dè dặt nhất. Phương pháp chọn-bỏ dự kiến
trong đàm phán TPP sẽ khiến cho bức tranh mở cửa dịch vụ của Việt Nam
đối với các đối tác TPP thay đổi mạnh mẽ.
Đây cũng chính là điểm được suy đoán là sẽ tạo ra bất lợi lớn cho doanh
nghiệp Việt Nam khi tham gia TPP. Với TPP, sự tham gia mạnh mẽ và tự
do hơn của các nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm lâu năm, có

ưu thế về dịch vụ trên thế giới (đặc biệt là các nhà cung cấp dịch vụ Hoa
Kỳ) có thể khiến cho các đơn vị cung cấp dịch vụ của Việt Nam gặp khó
khăn nghiêm trọng.



Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh
tranh… và các ràng buộc mang tính thủ tục khi ban hành các quy định
liên quan đến rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ...

Các kết quả đàm phán trong giai đoạn gần đây cho thấy việc tuân thủ các
yêu cầu cao về môi trường (theo một danh mục tương đối dài các công
ước quốc tế về môi trường), lao động (tiêu chuẩn ILO) hay các ràng buộc
nhiều hơn về mặt thủ tục khi ban hành hay thực thi các quy định về cạnh
15


tranh, phòng vệ thương mại, TBT, SPS (theo hướng tăng cường thủ tục
tham vấn trao đổi trước khi ban hành quy định/biện pháp, quyền tiếp
cận tư pháp để giải quyết vướng mắc…)… được nhấn mạnh. Các đối tác
phát triển như Úc, New Zealand khá quan tâm đến các vấn đề này. Vì vậy
khả năng TPP tương lai có thể bao trùm các lĩnh vực này là tương đối
lớn.
Một mặt, việc tổ chức thực hiện các yêu cầu này sẽ là một gánh nặng lớn
đối với Nhà nước (trong việc gia nhập các công ước liên quan, sửa đổi
quy định pháp luật nội địa, xây dựng các cơ chế, thủ tục ban hành thực
thi mới…). Việc thực thi cũng tao ra nhiều chi phí cho doanh nghiệp để
thực thi (ví dụ như thay đổi công nghệ nuôi trồng – sản xuất, thay đổi
nguồn cung nguyên vật liệu, bổ sung cơ chế kiểm soát…). Ngoài ra, có
những vấn đề thuộc về thể chế không dễ thay đổi (như quyền lập hội,

quyền đàm phán tập thể…).


Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao liên quan đến việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ
Đây là vấn đề lớn đối với Việt Nam trong hoàn cảnh thực tế vi phạm còn
lớn và các thiết chế bảo hộ còn thiếu hiệu quả. Việc bảo hộ chặt chẽ các
quyền sở hữu trí tuệ cũng sẽ dẫn tới những khó khăn trước mắt cho nhiều
doanh nghiệp Việt Nam (khi phải bỏ vốn nhiều hơn cho những sản phẩm
thuộc loại này) và người tiêu dùng (khi phải trả giá đắt hơn cho sản
phẩm).



Bất lợi từ việc mở cửa thị trường mua sắm công
Mua sắm công là một vấn đề phức tạp và hiện vẫn đang là lĩnh vực tương
đối đóng đối với tự do thương mại. Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị
trường mua sắm công theo cách này có được suy đoán là sẽ gây ra những
tác động bất lợi (với những lo ngại tương tự như lo ngại của nhiều nước
về sự “tấn công” của các nhà cung cấp nước ngoài khiến doanh nghiệp nội
địa không cạnh tranh nổi trong các vụ đấu thầu lớn) trong khi khả năng
Việt Nam tiếp cận được với thị trường mua sắm công của các đối tác TPP
là hầu như không có (do hạn chế về năng lực cạnh tranh).

16


III. KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, ta có thể thấy Hiệp định thương mại tự do
xuyên Thái Bình Dương sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế

Việt Nam trên các lĩnh vực: Hàng hóa ( tiềm năng tăng mạnh xuất khẩu
da giày, quần áo, đồ gỗ, thủy sản), các ngành dịch vụ v.v…Thông qua
những cam kết, Việt Nam sẽ có cơ hội cải thiện các vấn đề liên quan đến
biện pháp phòng vệ thương mại, cơ hội tốt nghiệp từ nền kinh tế phi thị
trường sang nền kinh tế thị trường trong tương lai. Tuy nhiên, Việt Nam
cũng gặp phải những thách thức không nhỏ khi tham gia TPP. Do đó, để có
thể tận dụng được những lợi ích và khắc phục những khó khăn có thể gặp
phải, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc thực thi những cam kết và
đặc biệt cần đưa ra hướng đi chiến lược đúng đắn nhằm phát triển đất
nước nhanh và bền vững, cụ thể :


Một là, Việt Nam cần phải rà soát, điều chỉnh rất nhiều văn bản quy phạm
pháp luật để hài hóa hóa với các thỏa thuận TPP. Đây là một trong những
việc quan trọng, cần thiết và nhất thiết phải làm.



Hai là, nâng cao năng lực cạnh tranh để đối mặt với sức ép cạnh tranh gia
nhập TPP. Về tổng thể, Việt Nam là thành viên có trình độ phát triển kinh
tế và năng lực cạnh tranh thấp so với các thành viên khác. Vì vậy, việc mở
ra cơ hội cũng đồng thời với mở ra thách thức cạnh tranh cho các doanh
nghiệp Việt nam với doanh nghiệp của các quốc gia thành viên khác. Tuy
nhiên, cơ chế thị trường và năng lực tiềm ẩn sẽ tạo ra lối đi cho những
doanh nghiệp và ngành hàng này.



Ba là, tìm ra giải pháp thiết thực để hấp thụ được với luồng vốn và hàng
hóa sẽ vận hành vào nền kinh tế nước ta mà không bị vấp phải hội chứng

vốn ngoài chèn ép vốn nội trong đầu tư và hàng hóa ngoại chèn ép hàng
hóa nội trên chính địa bàn Việt Nam

17




Bốn là, cần giải quyết được vấn đề về tinh thần làm chủ thị trường. Sân
chơi mới, rộng lớn hơn, mạnh mẽ hơn, yêu cầu cao hơn nên cần tinh thần,
nhất là tinh thần doanh nhân, lớn hơn. Để có thể làm chủ được cuộc chơi
với các bạn hàng, các đối thủ, về cơ bản thị trường hơn, các doanh nhân,
các nhà quản lý cần có tinh thần chủ động hơn, thị trường hơn và dấn
thân hơn.
Tin chắc rằng nếu thực hiện tốt chủ trương và đường lối của Việt Nam nói
riêng và 12 nước TPP nói chung, nước ta hoàn toàn có thể bước sang một
giai đoạn mới , thời đại mới phát triển giàu mạnh và bền vững.

18



×