Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

CÁC hạn CHẾ NHẰM đảm bảo AN TOÀN CHO tổ CHỨC tín DỤNG THEO QUY ĐỊNH của PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.7 KB, 13 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, ở tất cả các quốc gia, và các nền kinh tế, vai trò của
các tổ chức tín dụng là hết sức quan trọng và đặc biệt. Nắm được yếu tố
này nên ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập và thực hiện công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến
việc xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng của chế độ mới. Trong
khoảng 20 năm trở lại đây, từ khi đổi mới nền kinh tế (Đại hội Đảng VI năm 1986), nền kinh tế nước ta luôn đạt mức tăng trưởng cao so với khu
vực. Với mức tăng trưởng như vậy, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế luôn
là một bài toán lớn của Chính phủ. Hơn nữa, trong điều kiện nước ta hiện
nay, đầu tư nước ngoài chưa đạt mức như kế hoạch, nhiều nơi còn có dấu
hiệu giảm sút, thì chủ trương dựa vào nguồn vốn trong nước là hết sức
đúng đắn và cần được thực hiện một cách triệt để. Tuy nhiên, các kênh
huy động vốn trong nước còn hẹp: thị trường chứng khoán mới được hình
thành và chưa thật sự trở thành kênh cung cấp vốn hiệu quả cho nền kinh
tế; phần lớn các doanh nghiệp có năng lực tài chính còn yếu kém, hoạt
động chủ yếu dựa trên nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Từ đó, có
thể khẳng định tín dụng ngân hàng đang và sẽ còn tiếp tục là một kênh
cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam trong tương lai gần.
Nhưng làm sao để đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng
trong giai đoạn hiện nay, để có được hệ thống các tổ chức tín dụng vững
mạnh, một nền kinh tế ổn định, hướng tới phát triển trong tương lai?
Chắc chắn, câu trả lời không thể có được ngày một ngay hai.
Vậy, ta hãy xem thực tiễn pháp luật Ngân hàng nước ta đã có
những quy định gì về vấn đề đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng,
những quy định đó như thế nào, và đã đảm bảo an toàn cho các tổ chức
tín dụng hay chưa? Với đề tài “Các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn cho
tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” chúng em sẽ có cơ hội
được tiếp cận với "hành lang pháp lí" cho các tổ chức tín dụng từ đó đánh
giá hiệu quả của nó với hoạt động của tổ chức tín dụng nói riêng, và của


cả nền kinh tế nói chung.
1
I. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Khái niệm:
Việc định nghĩa các thuật ngữ quan trọng trong một đạo luật là cần
thiết, nhằm tránh tình trạng hiểu và áp dụng sai các quy định của luật.
Tuy nhiên, thông lệ quốc tế cho thấy, chỉ nên đưa vào trong luật những
định nghĩa về các thuật ngữ được sử dụng thường xuyên, phổ biến và có
khả năng gây cách hiểu không thống nhất, hiểu sai trong quá trình thực
thi pháp luật. Từ Luật tổ chức tín dụng năm 1997 cho tới lần sửa đổi đầu
tiên năm 2004, khái niệm "tổ chức tín dụng" (TCTD )vẫn chưa được đưa ra
một cách rõ ràng và chính thức. Phải tới năm 2010, với Luật sửa đổi bổ sung
mới, khái niệm này đã được các nhà làm luật quy định một cách rõ ràng và
cụ thể hơn. Theo khoản 1 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì:
"Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các
hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vĩ mô và quỹ tín dụng nhân dân".
Dù tới năm 2011, Luật các TCTD mới có hiệu lực, tuy nhiên việc đưa
vào một khái niệm rõ ràng cho TCTD phần nào cho thấy sự quan tâm nhất
định của các nhà làm luật, và sự cần thiết của chính nó đối với nền kinh tế
của nước ta hiện nay.
2. Đặc điểm của TCTD:
Có thể nói, tổ chức tín dụng là một loại hình doanh nghiệp, khi nó hội đủ
khá nhiều điều kiện của một doanh nghiệp như có tài sản riêng, tên riêng, trụ
sở giao dịch ổn định, có văn phòng đại diện Không những vậy, nó còn
được ví như một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Tổ chức tín dụng, như ta

đã biết, nó được thành lập và hoạt động tuân theo Luật các tổ chức tín dụng,
nhưng mặt khác, tùy thuộc vào các loại hình tổ chức tín dụng khác nhau mà
tổ chức tín dụng lại tuân theo cả những quy định pháp luật khác có liên quan
như Luật Doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật đầu tư
Ngoài ra nếu căn cứ điều 12, Luật các tổ chức tín dụng 1997 (tham khảo
thêm tại Điều 6 Luật các TCTD 2010), các tổ chức tín dụng được thành lập
và hoạt động dưới các hình thức pháp lý như TCTD cổ phần, TCTD nhà
nước, TCTD hợp tác, TCTD có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã. Theo
luật doanh nghiệp các loại hình trên đều có tư cách pháp nhân. TCTD đáp
ứng hầu hết các điều kiện theo quy định tại điều 84 Bộ luật dân sự (điều
kiện được công nhận pháp nhân), như được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép thành lập; có cơ cấu chặt chẽ; có tài sản độc lập; nhân
danh mình tham gia các quan hệ pháp luật.
Một đặc điểm nổi bật nữa của TCTD là đối tượng kinh doanh của nó
chính là tiền tệ và cung ứng dịch vụ ngân hàng. Có thể khẳng định, đối
2
tượng kinh doanh trực tiếp của các tổ chức tín dụng chính là tiền tệ. Các
TCTD hoạt động kinh doanh chủ yếu theo phương thức nhận tiền gửi, sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cho vay lại, cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Đặc điểm cuối cùng. đó chính là việc TCTD chịu sự quản lý của ngân
hàng nhà nước Việt Nam. Đồng thời, luật ngân hàng nhà nước Việt Nam
còn nêu rõ một trong những nhiệm vụ, quyên hạn của nhân hàng nhà nước
Việt Nam là cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các TCTD,
trừ trường hợp do thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngoài ra, Pháp luật ngân
hàng cũng ghi nhận việc cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động ngân
hàng của các tổ chức khác cũng thuộc thẩm quyền của ngân hàng nhà nước
Việt Nam.
II. CÁC HẠN CHẾ NHẰM ĐẢM BẢO AN TOÀN CHO TỔ CHỨC
TÍN DỤNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
1. Hoạt động huy động vốn

a) Khái niệm huy động vốn:
Theo nghĩa chung nhất huy động vốn là việc các TCTD tập trung
những giá trị tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội
thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các
nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Huy
động vốn là hoạt động thường xuyên và luôn gắn liền với kế hoạch kinh


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

doanh của TCTD, bởi lẽ vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để các
TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, các TCTD được huy động
vốn thông qua bốn hình thức:
- Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
- Huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá
- Huy động vốn bằng việc vay vốn của các TCTD khác
- Huy động vốn thông qua vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
b) Sự cần thiết phải có những hạn chế nhằm bảo đảm an toàn cho
hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng:
Cũng như hàng loạt các quan hệ khác trong xã hội, quan hệ huy
động vốn của các TCTD cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật, có
những hạn chế được đưa ra để đưa hoạt động của TCTC đi vào hoạt động
trơn tru, hiệu quả cho nền kinh tế chung.
Thông qua các quy định của pháp luật về hoạt động huy động vốn
của TCTD, Nhà nước có thể thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia cho phù
hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội. Với việc đưa ra những
quy định về lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định về bảo hiểm tiền gửi,
quy định điều kiện để được vay vốn Ngân hàng Nhà nước Nhà nước sẽ
tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của TCTD bằng cách tạo

3
ra các điều kiện thuận lợi hoặc hạn chế việc huy động vốn của các TCTD.
Thêm vào đó, hoạt động huy động vốn của các TCTD là hoạt động
chứa đựng nguy cơ rủi ro cao, sự tác động tích cực hoặc tiêu cực của nó
thường mang tính phản ứng “dây chuyền” do đó ảnh hưởng đến cả hệ
thống TCTD và tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, hoạt động
huy động vốn bằng nhận tiền gửi mà không được Nhà nước quản lý chặt
chẽ thì có thể dẫn đến việc các TCTD lợi dụng đặc quyền được huy động
vốn bằng nhận các loại tiền gửi để lừa đảo dân chúng trên phạm vi rộng,
với số lượng lớn. Mặt khác, các TCTD huy động vốn mà không sử dụng
vốn đó một cách có hiệu quả, để thất thoát vốn sẽ dẫn đến tình trạng mất
khả năng chi trả, thanh toán cho người gửi tiền, từ đó gây tâm lý hoang
mang cho những người gửi tiền khác khiến họ đồng loạt tới các TCTD rút
tiền, đẩy các TCTD khác vào tình trạng thiếu khả năng chi trả. Điều đó
dẫn đến sự đổ vỡ toàn bộ hệ thống TCTD, gây ra khủng hoảng về tài
chính- tiền tệ, gây mất ổn định kinh tế. Dân chúng mất lòng tin vào các
TCTD, nguồn vốn nhàn rỗi không được tập trung cho đầu tư phát triển,
nền kinh tế khó mà phát triển được. Bởi vậy, hoạt động huy động vốn cần
phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khác trong hoạt
động huy động vốn, đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho
các TCTD trong quá trình huy động vốn cần thiết phải có sự điều chỉnh
của pháp luật. Mặt khác, thông qua việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với
hoạt động huy động vốn của các TCTD, Nhà nước có thể kiểm soát được
tình hình hoạt động kinh doanh của các TCTD, từ đó kịp thời có biện
pháp xử lý, giúp TCTD thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục


c) Hạn chế đối với hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng
ở Việt Nam
Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng nói
chung và hoạt động huy động vốn của các TCTD nói riêng được quy định
khá chi tiết, đầy đủ trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Luật
các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004; Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Các văn
bản này đã xác định rõ chức năng và nhiệm vụ của từng cơ quan.
Việc quản lý hoạt động huy động vốn của các TCTD nhằm xây
dựng môi trường pháp lý rõ ràng, thống nhất; tạo ra hành lang pháp lý
cho các TCTD hoạt động hiệu quả; tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền; xây dựng hệ thống tài
chính- tiền tệ ổn định từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn
của các TCTD đạt hiệu quả. Mặt khác, thông qua quản lý hoạt động huy
động vốn, Nhà nước có thể kiểm soát được tổng số vốn cũng như việc sử
4
dụng vốn đó của các TCTD nhằm bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo an
toàn cho hệ thống TCTD. Chịu sự quản lý của chính phủ, ngân hàng nhà
nước có thể vừa được coi là hạn chế mà cũng có thể là một đặc quyền,
như đứa trẻ sinh ra được bố mẹ coi sóc chu đáo vậy.
Nhà nước thực hiện việc quản lý của mình thông qua những quy
định về: điều kiện để một tổ chức được cấp giấy phép thành lập và hoạt
động ngân hàng; các quy định về thanh tra, kiểm tra hoạt động của tổ
chức tín dụng; tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin và dự báo tình
hình thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Ngoài ra, Nhà nước còn quản lý
thông qua việc ký kết hoặc tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam vươn ra
thị trường nước ngoài cũng như mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài
vào Việt Nam.
Các quy định của pháp luật có liên quan tới quản lý nhà nước đối

với hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng được thể hiện cụ thể
trong các quy định về quyền được nhận các loại tiền gửi đối với từng loại
hình TCTD, các hạn chế pháp định nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động
kinh doanh của các TCTD như: quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, trách
nhiệm tham gia bảo hiểm tiền gửi, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của các TCTD Đặc biệt là trong quy chế kiểm soát đặc
biệt đối với các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất
khả năng thanh toán, trong các quy định về kiểm tra, thanh tra và xử lý
các vi phạm pháp luật đối với các TCTD trong huy động vốn
*Quy định pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các Tổ
chức tín dụng ở Việt Nam:
Nhận tiền gửi là nghiệp vụ huy động vốn đặc thù của các TCTD
tạo tiền đề kinh tế để các TCTD thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng. Nhìn chung các văn bản pháp luật do Nhà nước ban
hành quy định về hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các
TCTD là tương đối đầy đủ và chặt chẽ, cụ thể hoá được các nội dung


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

như: Các loại tiền gửi mà TCTD được phép huy động; giới hạn quyền
được nhận các loại tiền gửi đối với từng loại hình TCTD; quy định quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tiền gửi; quy định trách nhiệm của
TCTD khi huy động vốn bằng nhận tiền gửi; quy định về quản lý Nhà
nước đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi; cùng các nội
dung có liên quan khác Về cơ bản Nhà nước đã thiết lập được một hành
lang pháp lý tương đối đầy đủ và thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi
cho TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ của pháp
luật, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các TCTD trong tiến
trình hội nhập. Đồng thời pháp luật cũng hướng tới quyền lợi của mọi

người dân, đáp ứng tốt hơn nhu cầu gửi tiền và sử dụng các dịch vụ ngân
5
hàng, lựa chọn hình thức gửi tiền phù hợp với mục đích và yêu cầu của
họ, tạo niềm tin cho người gửi tiền; tạo ra cơ sở pháp lý cho Ngân hàng
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với hoạt động ngân
hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
* Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc phát hành các
giấy tờ có giá
Trong giai đoạn hiện nay, phát hành giấy tờ có giá là một kênh huy
động vốn không kém phần quan trọng đối với các TCTD. Hoạt động này
đã được pháp luật quy định tại Điều 46 Luật các tổ chức tín dụng 1997 và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2004 và
một số văn bản pháp luật liên quan. Các quy định về phát hành giấy tờ có
giá để huy động vốn của các TCTD đã tạo ra một hành lang pháp lý cần
thiết để các TCTD có thể thực hiện tốt hoạt động này. Chi tiết về vấn đề
này, Quyết định số 02/2005/ QĐ-NHNN, cũng đã quy định rõ ràng về
mệnh giá, thời hạn, thủ tục phát hành giấy tờ có giá. Ngoài ra còn đưa ra
các điều kiện nhất định như: "Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn
trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn
của Ngân hàng Nhà nước" và "Có tình hình tài chính lành mạnh theo
đánh giá của Thanh tra Ngân hàng".
* Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc vay vốn của các
Tổ chức tín dụng khác
Theo Quy chế vay vốn giữa các TCTD ban hành kèm theo Quyết
định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 thì “Vay vốn giữa các
TCTD là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của TCTD (bên cho
vay) cho một TCTD khác (bên vay) theo quy định tại Điều 47 Luật các tổ
chức tín dụng”. Các TCTD này được thành lập, hoạt động ở Việt Nam
theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm: Ngân hàng thương

mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng
liên doanh, các TCTD phi ngân hàng, Quỹ tín dụng nhân dân.
Pháp luật đã có những quy định giới hạn về thời gian cho vay, lãi
suất cho vay trong lĩnh vực này. Các TCTD cho nhau vay vốn ngắn hạn
(tối đa đến 12 tháng), trung hạn (từ trên 12 tháng đến 60 tháng) hoặc dài


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

hạn (trên 60 tháng), thêm vào đó TCTD còn phải tổng hợp báo cáo Ngân
hàng Nhà nước tình hình thực hiện cho vay và đi vay với các TCTD khác
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
* Các quy định của pháp luật về huy động vốn thông qua việc vay vốn
của Ngân hàng Nhà nước
Huy động vốn bằng vay vốn Ngân hàng Nhà nước là một hình thức
huy động vốn đặc biệt của các TCTD. Khác với các hình thức huy động
6
vốn nêu trên có thể tiến hành thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu về
vốn cho TCTD, hình thức vay vốn Ngân hàng Nhà nước lại có liên quan
chặt chẽ đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Hoạt động này được pháp luật quy định tại nhiều văn bản khác
nhau như Điều 20 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997; Điều 48 Luật các
TCTD 1997. Tiếp đó là các văn bản cụ thể các điều khoản trên như:
Quyết định 1452/2003/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay có
bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đối với các ngân hàng; Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày
12/08/2003 về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân
hàng Nhà nước đối với các ngân hàng Các văn bản này tập trung quy
định hình thức tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước cho các TCTD là

ngân hàng. Bao gồm: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, cho vay có bảo
đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; chiết khấu, tái
chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Một số hạn chế có thể thấy ở đây, cụ thể tại Điều 11 Quyết định số
898/2003/QĐ-NHNN, đã quy định các trường hợp không chấp nhận chiết
khấu của Ngân hàng nhà nước, thêm vào đó là các hạn mức cho vay hay
đối tượng cho vay cũng có những quy định giới hạn nhất định.
2. Hoạt động sử dụng vốn (cấp tín dụng)
a) Khái niệm:
Tham khảo quy định tại khoản 14 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng
2010 (sẽ có hiệu lực vào năm 2011), cấp tín dụng được giải thích như
sau: "Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một
khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên
tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác"
Một trong số những nghiệp vụ quan trọng nhất của cấp tín dụng đó
là cho vay. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một tổ chức hay cá nhân
đều phải có hoặc tự tìm kiếm cho mình một nguồn vốn nhất định để tham
gia vào các quan hệ mua bán, trao đổi hay đầu tư Cho vay khác với các
hình thức cấp tín dụng: chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Trong
nghiệp vụ cho vay, các ngân hàng giao một khoản tiền nhất định trong
một thời gian nhất định cho bên đi vay dùng vào mục đích nhất định và
bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này có ý nghĩa là
đối với hình thức cho vay, khoản tiền vay được chuyển giao trực tiếp
hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay. Trong nghiệp vụ chiết khấu
khoản tiền vay cũng được chuyển giao tương tự như vậy. Còn đối với


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục


hình thức cho thuê tài chính thì khoản tiền vay chính là khoản tiền mà các
ngân hàng dùng để mua tài sản để cho thuê. Trong trường hợp bảo lãnh
7
ngân hàng, khoản tiền vay mà bên đi vay (bên được bảo lãnh) nhận được
chính là khoản tiền mà ngân hàng (bên bảo lãnh) phải trả cho bên có
quyền trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ. Đây là một hoạt động quan trọng bậc nhất
trong việc cấp tín dụng của các TCTD, mà sau đây chúng ta có thể ưu ái
đề cập đến nhiều hơn.
Tuy nhiên, nói như vậy không phải ta phủ định các nghiệp vụ còn
lại trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng. Đó vẫn là những
hoạt động cần thiết để đem lại cho nền kinh tế nhiều hơn sự lựa chọn đầu
tư hay giải pháp kinh tế hiệu quả.
b) Sự cần thiết có những hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cấp tín dung (đặc biệt là hoạt động cho vay) của TCTD
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập
kinh tế quốc tế, mở của cho các chế định nước ngoài trên thị trường nội
địa và tạo ra sân chơi bình đẳng, các TCTD Việt Nam phải đối mặt với sự
cạnh tranh gay gắt của các đối thủ bên ngoài có tiềm lực tài chính mạnh
hơn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động kinh doanh quốc tế tốt
hơn.Đặc biệt,là khi Việt Nam gia nhập WTO thì môi trường cạnh tranh
đó lại càng khắc nghiệt hơn,vì đến năm 2020,Việt Nam phải mở cửa hoàn
toàn cho các ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó quy mô của các TCTD
còn nhỏ bé, trình độ quản lý và công nghệ còn hạn chế, nhiều TCTD chưa
quen với môi trường kinh doanh quốc tế. Các TCTD luôn có nguy cơ rủi
ro đe doạ từ cuộc cạnh tranh không cân sức như vậy. Đồng thời, với tính
chất kinh doanh kéo dài của quan hệ tín dụng, tạo ra những khoản vay lâu
dài nên khả năng thu hồi vốn khi kết thúc thời hạn vay cũng không chắc
chắn. Các TCTD phải luôn đối mặt với những rủi ro trong quá trình kinh
doanh.

Trong quan hệ cho vay, chủ yếu là dựa vào công tác thẩm định,
thu thập xử lý thông tin và dự đoán thị trường. Hiện nay, trình độ nghiệp
vụ của các TCTD của các cán bộ còn non yếu cũng như chế độ kiểm soát
thông tin chưa thật sự có hiệu quả nên việc quản lý rủi ro cũng thật sự
khó khăn.
Từ các lý do trên, chúng ta có thể nhận ra rằng hoạt động kinh
doanh của các TCTD cũng như hoạt động cho vay luôn chứa đựng những
rủi ro. Những rủi ro này rất đa dạng có thể là do tự nhiên, do nền kinh tế
cũng như do chính bản thân các chủ thể trong quan hệ tín dụng. Trong số
đó, có những rủi ro mang tính khách quan, không thể kiểm soát được, và
những rủi ro mang tính chủ quan có thể hạn chế, khắc phục hoặc hạn chế
được. Pháp luật được đưa ra với chức năng là nhằm hạn chế tối đa những
rủi ro có thể kiểm soát được.
Vì vậy,an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD nhằm góp
8
phần ổn định tài chính quốc gia, là cơ sở để phát triển nền kinh tể và hội


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

nhập với kinh tế thế giới. Các TCTD là bộ phận chủ yếu trong các trung
gian tài chính, nên đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của các
TCTD sẽ là một nội dung quan trọng để giữ cho nền tài chính quốc gia
được ổn định. Nếu các TCTD thật sự phát triển, ổn định và nâng cao hiệu
quả hoạt động thì sẽ đóng vai trò then chốt và quan trọng cho việc cung
ứng vốn, góp phần tăng trưởng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, yêu cầu
pháp luật cần phải quy định những biện pháp bảo đảm cần thiết duy trì ổn
định cho hoạt động kinh doanh của của các TCTD, góp phần khắc phục
hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra. Đồng thời thông qua các quy
định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm an toàn thể hiện sự quản lý

của nhà nước đối với hoạt động của các TCTD nói riêng và nền kinh tế
nói chung.
c) Hạn chế nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của
TCTD:
Cấp tín dụng là hoạt động quan trọng của TCTD, khẳng định vị trí
khó có thể thay thế bởi các hình thức doanh nghiệp khác, nhưng để hoạt
động này đạt được hiệu quả tốt và kéo theo sự phát triển của cả nền kinh
tế thì việc đưa ra một số hạn chế cho hoạt động này cũng là cần thiết.
Việc hạn chế hay không, hay hạn chế như thế nào để có một hệ
thống TCTD có tiềm lực, mang lại "sức mạnh" cho nền kinh tế chung của
quốc gia, ít nhiều cũng được rút ra từ thực tế nhiều năm trở lại đây. Cộng
thêm sự tiên liệu về các tình huống trong tương lai của các nhà làm luật,
họ đã đưa ra một số hạn chế đối với hoạt động này của TCTD. Chắc chắn
nó vẫn chưa hoàn thiện, nhưng phần nào đã vá được những lỗ hổng của
luật, giúp nền kinh tế lành mạnh và an toàn hơn.
Hạn chế đầu tiên hay cũng có thể nói là một điều kiện, tuy nhỏ thôi
nhưng cũng không thể không nhắc tới là việc tuân thủ những nguyên tắc
cho vay vốn của các TCTD.
Nguyên tắc vay vốn phải được quán triệt trong suốt quá trình cho
vay “Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo:Sử dụng
vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Hoàn trả
nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.”(Điều 6,quyết đinh 1627/2001/QĐ-NHNN).Và TCTD tự chịu
trách nhiệm về quyết định trong cho vay của mình. Không một tổ chức,
cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá
trình cho vay và thu hồi nợ của TCTD.
Ngoài nghiệp vụ cho vay hoạt động của các TCTD còn xoay quanh
trong một số nghiệp vụ chi tiết khác .Các nghiệp vụ này cũng đều có
những hạn chế nhất định mà các TCTD cần thực hiện theo quy định của
pháp luật.

9
Hạn chế thứ hai được đề cập tới đó là đối tượng được các TCTD
cấp tín dụng.
Theo luật Việt Nam, trong Quy chế cho vay 1627/2001/QĐNHNN, quy định tại điều 7 về điều kiện vay vốn,TCTD xem xét và quyết
định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện: có năng lực pháp luật


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định
của pháp luật, mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có dự án đầu tư,
phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc dự
án đầu tư, phương án sản xuất phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương
án trả nợ khả thi, thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy
định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Quy chế cho vay 1627 đã có bổ sung thêm một loại khách hàng mới so
với các quy chế trước kia; đó là các pháp nhân và cá nhân nước ngoài có
đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định
của pháp luật. Đây là một quy định mới theo hướng mở rộng khách hàng
vay phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, Điều 19 Quy chế cho vay 1627 xác định rõ những trường
hợp mà TCTD không được cho vay đó là: thành viên hội đồng quản trị,
ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám
đốc) của TCTD, cán bộ nhân viên của chính TCTD đó thực hiện nhiệm
vụ thẩm định, quyết định cho vay, bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên
Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng
giám đốc (Phó giám đốc).Và các trường hợp hạn chế cho vay tại điều 20
của quy chế này “ Tổ chức tín dụng không được cho vay không có bảo
đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối
với những đối tượng sau đây:

1. Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán
tại tổ chức tín dụng cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm
vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay;
2. Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay;
3. Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng;
4. Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại
khoản 1 Điều 77 của Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên
10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó”.
Ngoài ra nếu nghiên cứu thêm trong Luật các tổ chức tín dụng
2010 mới đây, luật còn hạn chế một số trường hợp không được cấp tín
dụng như: "Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát hay TCTD không được cấp tín
dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng
hoặc công ty con của tổ chức tín dụng; không được cho vay để góp vốn
vào một TCTD khác trên cơ sở nhận tài khoản bằng cổ phiếu của chính
10
tổ chức tín dụng nhận vốn góp" (Khoản 4, 5, 6 Điều 126 Luât các TCTD
2010). Không những vậy đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng cũng được
bổ sung thêm tại Điều 127 Luật các TCTD, và luật đã quy định chi tiết
hơn về tổng mức dư nợ cấp tín dụng cho các trường hợp bị hạn chế của
TCTD và việc phải được thông qua và công khai việc cấp tín dụng đối
với những đối tượng này.
Mặt khác, ngoài những quy định về đối tượng không được vay vốn
hay hạn chế, thì tại Điều 9 tại Quyết định số 1627 còn đưa ra những
trường hợp nhu cầu vồn không được cho vay như để mua sắm các tài sản


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển

nhượng, chuyển đổi; thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao
dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch
mà pháp luật cấm.
Các quy định này một mặt nhằm ngăn ngừa những hiện tượng lợi
dụng chức vụ quyền hạn, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra; mặt khác
các hạn chế góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các
TCTD,giúp các TCTD hoạt động hiệu quả.Những điều kiện đối với khách
hàng là một đảm bảo an toàn đối với hoạt động cho vay.Tuy nhiên,điều
đó chỉ có ý nghĩa với khách hàng vay,còn việc cho vay hay không, quyền
quyết định thuộc về các TCTD. Những trường hợp mà luật quy định thêm
như vậy phần nào "miễn dịch" cho các TCTD trước những hậu qủa pháp
lí xấu mai sau, hạn chế bớt rủi ro khi TCTD tiến hành cấp tín dụng cho
các chủ thể khác, đồng thời sử dụng nguồn vốn cho vay một cách hợp lí
và hiệu quả.
Hạn chế tiếp theo mà pháp luật có quy định đối với hoạt động cấp
tín dụng của các TCTD đó là việc cho vay trong giới hạn được pháp luật
quy định.
Theo quy định tại khoản 1, 2 điều 18 Quyết định 1627/2001/QĐNHNN: tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt
quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những
khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức
và cá nhân. Tại Điều 128 Luật các TCTD 2010, còn quy định thêm về
vấn đề này : "Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và
người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng
thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ
chức tài chính vĩ mô.". Không những vậy, việc các TCTD cấp tín dụng để
đầu tư, kinh doanh cổ phiếu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài cũng đã có những giới hạn do Ngân hàng nhà nước quy
định.
Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự
có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ

11
nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. “Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức tín
dụng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay quy định tại
Khoản 1 Điều này khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng
trường hợp cụ thể”. Và theo Luật các TCTD 2010 sẽ có hiệu lực vào năm
sau, khoản cấp tín dụng đặc biệt này không được vượt quá bốn lần vốn tự
có của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế - quốc tế, các doanh
nghiệp trong nước cần phải đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh theo chiều rộng và chiều sâu, để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư lớn
này cho các doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo được giới hạn cho vay
tối đa của ngân hàng đối với khách hàng, các ngân hàng đã tiến hành cho
vay hợp vốn. Đối với các đối tượng hạn chế cho vay quy định tại Điều 20


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Quyết định1627/2001/QĐ-NHNN, tổng dư nợ cho vay không được vượt
quá 5% vốn tự có của ngân hàng (xem thêm tại khoản 2 Điều 127 Luật
các TCTD 2010). Ngoài ra, để đảm bảo an toàn tiền vay, nâng cao khả
năng giám sát đối với các hoạt động tín dụng, pháp luật buộc các ngân
hàng phải thực hiện báo cáo Ngân hàng nhà nước (thông qua trung tâm
tín dụng của ngân hàng nhà nước) các khách hàng có tổng dư nợ tiền vay
từ 5% trở lên so với vốn tự có của ngân hàng. “Tổng dư nợ cho vay đối
với các đối tượng quy định tại Điều 20 Quy chế này không được vượt quá
5% vốn tự có của tổ chức tín dụng”.
Hạn chế cuối cùng cuả pháp luật đó là việc các TCTD phải duy trì
tỷ lệ bảo đảm an toàn.
Quy định tại điều 81,82,Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung

năm 2004, đã nêu khá rõ về tỷ lệ bảo đảm an toàn và dự phòng rủi ro.
Theo quy định tại khoản 1 điều 81 thì khả năng chi trả của các TCTD
được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản "Có" có thể thanh toán ngay so với
các loại tài sản "Nợ" phải thanh toán tại một thời điểm nhất định của
TCTD. Để hoàn thiện môi trường pháp lý về quy chế hoạt động tín dụng
và rủi ro tín dụng, ngày 19 tháng 4 năm 2005, Thống đốc Ngân hàng nhà
nước đã ban hành Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (mà sau này sẽ
được thay thế bằng Thông tư số 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ này
1/10/2010) về các tỷ lệ bảo đảm an toàn mà các TCTD phải duy trì. Theo
đó, các TCTD phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “Có
“có thể thanh toán ngay và các tài sản "Nợ" sẽ đến hạn thanh toán trong
thời gian 1 tháng tiếp theo, tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản "Có" có
thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và
tổng tài sản "Nợ" phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc
tiếp theo.
Một loạt các tỷ lệ đảm bảo an toàn như tỷ lệ khả năng chi trả, tỉ lệ
12
an toàn vốn tối thiểu (Tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước
ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản
“Có” rủi ro) tỉ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn, trạng thái ngoại tệ, vàng
tối đa, tỷ lệ dư nợ cho vay, tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn, tất cả đều đã có
mức tỷ lệ nhất định theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, hạn chế với quỹ dự phòng rủi ro cũng có những vai trò
nhất định trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động của TCTD. Được
quy định lần đầu tiên trong Luật các Tổ chức tín dụng 1997, các tổ chức
tín dụng phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự
phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động.Việc phân
loại tài sản "Có", mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và việc sử
dụng khoản dự phòng để xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng do
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ

trưởng Bộ tài chính. Hầu hết các TCTD phải thực hiện việc trích lập dự
phòng rủi ro tín dụng, đây sẽ là biện pháp hữu hiệu, là cứu cánh trong
những tính huống xấu xảy ra bất thường đối với các TCTD.
Ngoài hoạt động cho vay ra ta cũng nghiên cứu thêm về các nghiệp


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

vụ khác đã có những hạn chế mang tính tích cực nào từ phía các nhà làm
luật.
Trong hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của các TCTD, ngoài
những nguyên tắc đã nếu ra tại Điều 4 Quyết định số 1325/2004/QĐNHNN mà các TCTD cần tuân thủ chặt chẽ, họ còn phải chú ý tới mức
chiết khấu, tái chiết khấu đối với khách hàng. Mức này được quy định
bằng 15% vốn tự có của TCTD đối với một khách hàng tối đa. Trong
trường hợp chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thì
mức chiết khấu, tái chiết khấu đối với một khách hàng tối đa bằng 15%
vốn tự có của ngân hàng mẹ. Việc quy định mức chiết khấu này sẽ tránh
cho các TCTD những trường hợp rủi ro không đáng có, có thể lạm dụng
quan hệ trong kh chiết khấu giấy tờ có giá giữa đại diện TCTD với khách
hàng, và đẩy tỷ lệ chiết khấu lên cao nhằm thu lợi bất chính. Tương tự
như vậy là hoạt động chiết khấum tái chiết khấu các công cụ chuyển
nhượng, quy định của pháp luật đã đưa ra một " hàng rào" pháp luật về
nguyên tắc và mức chiết khấu và tái chiết khấu một cách chặt chẽ.
Đối với hoạt động bao thanh toán của các TCTD, theo Quyết định
số 1096/2004/QĐ - NHNN đã có một số quy định chặt chẽ về điều kiện
được hoạt động bao thanh toán, cũng như các trình tự, thủ tục chặt chẽ để
được tiến hành bao thanh toán cho các TCTD. Ở đây, xin chỉ đề cập tới
hạn chế của hoạt động này diễn ra trên thực tế nhằm đảm bảo an toàn
chung cho hoạt động của TCTD. Tại điều 20 của Quyết định 1096, tổng
số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn

tự có của đơn vị bao thanh toán. Đối với chi nhánh ngân hàng nước
13
ngoài, tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt
quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp nhu cầu
bao thanh toán của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị
bao thanh toán thì các đơn vị bao thanh toán được thực hiện đồng bao
thanh toán cho khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Hạn
chế dù thu hẹp lại tầm hoạt động, bao thanh toán nhưng nó là cần thiết vì
trong nhiều trường hợp, các TCTD nếu bao thanh thanh toán cho khách
hàng với số tín dụng lớn, sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hồi vốn và
không duy trì được tỷ lệ an toàn tối thiểu.
3. Một số hoạt động khác của TCTD:
Đối với, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, được luật quy định như
sau: "Mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong một doanh
nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong tất cả
các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước quy định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng." (Điều
80, Luật các TCTD 1997). Nếu tham khảo thêm, tịa điều 135, Luật các
TCTD 2010, ta còn thấy quy định về các trường hợp góp vốn, mua cổ
phần giữa các công ty con, công ty liên kếtm công ty kiểm soát, nhưng
chỉ giới hạn ở mức tham khảo ta sẽ không đi quá sâu vào quy định này.
Khi nghiên cứu trong luật các TCTD 2010, ta còn có thể thấy quy


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

định trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản của các TCTD. Về cơ bản
TCTD không được kinh doanh bất động sản, tuy nhiên Điều 132 trong
luật vừa mang tính hạn chế lại có phần nới rộng một chút hoạt động của
TCTD. Điều luật đưa ra 3 trường hợp TCTD có thể kinh doanh bất động

sản, nhưng đều kèm theo những điều kiện nhất định. Điều này nhằm
tránh cho TCTD tập trung vào lĩnh vực hoạt động chính của mình, hơn là
lại kiêm thêm trách nhiệm, phạm vi kinh doanh mang nhiều tính rủi ro
không cần thiết.
Còn một số hoạt động khác của TCTD, những hạn chế theo quy
định của pháp luật cũng đã quy định rất rõ ràng và chi tiết. Nhưng hầu
hết, các hoạt động đó đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo những nguyên
tắc sẵn có của luật, thêm vào đó là những giới hạn chi tiết hơn trong từng
lĩnh vực hoạt động. Điều này đã góp phần không nhỏ đến sự "trôi chảy"
trong hoạt động của các TCTD mà phần nào cũng tạo ra một "bức tường"
bảo vệ cho các TCTD tránh khỏi những rủi ro, thiệt hại không đáng có,
dẫn đến phản ứng dây chuyền, ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế đang phát
triển của nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
14
Với tư cách là các “trung gian tài chính”, các Tổ chức tín dụng Việt
Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với việc huy động mọi nguồn vốn
trong dân cư để cung ứng cho nền kinh tế với những điều kiện nhất định.
Như đã trình bày ở phần trên, chúng ta đã hiểu được phần nào tầm quan
trọng của việc xây dựng một hệ thống các quy phạm đảm bảo an toàn cho
hoạt động của tổ chức tín dụng. Soi vào hệ thống pháp luật Ngân hàng
của nước ta, chúng ta đã tìm được những quy định về vấn đề này như:
quy định hạn chế cấp tín dụng, giới hạn cấp tín dụng; giới hạn góp vốn,
mua cổ phần; các tỷ lệ đảm bảo an toàn (tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ vốn
tối thiểu, tỷ lệ dư nợ cho vay…); dự phòng rủi ro; hạn chế về kinh doanh
bất động sản; yêu cầu đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng điện
tử… Tuy nhiên để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về tín dụng, ngân hàng
cũng như về các tổ chức tín dụng, xét thấy nhà nước cần phải cố gắng
hơn nữa để xây dựng một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng hơn,
tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này một cách dễ dàng

và hiệu quả.
Trong khuôn khổ một bài tập nhóm trong quá trình học, chúng em có
lẽ chưa tiếp thu được trọn vẹn kiến thức, bài viết có thể còn sơ sài, những
kiến thức còn chưa hoàn hảo, mang tính chủ quan, nhưng nó cũng là sự
tìm tòi cố gắng của nhóm chúng em trong thời gian đầu nghiên cứu bộ
môn mới mẻ và thí vị này. Chúng em mong nhận được sự chỉ bảo tận tình
của thầy cô dành cho đề tài này của cả nhóm.



×