Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

tiểu luận nghiên cứu văn học dân gian theo loại hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.1 KB, 6 trang )

Tiểu luận môn học: Nghiên cứu văn học dân gian theo loại hình

Tấm Cám có thể coi là một trong những tác phẩm cổ tích hay nhất và cũng là
phổ biến nhất trong kho tàng văn học Việt Nam. Nhân vật cô Tấm từ lâu đã trở
thành biểu tượng của sự nết na hiền dịu “Cô giáo em / Hiền như cô Tấm / Giọng cô
đầm ấm / Như lời mẹ ru”. Thế nhưng khi truyện cổ tích này được đưa vào chương
trình sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông thì đã dấy lên một cuộc tranh
luận sôi nổi trên các trang báo viết và báo mạng. Nguyên nhân là do văn bản Tấm
Cám trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 có kết thúc khác với bản kể phổ biến trong
dân gian từ trước đến nay (được Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, ghi
chép lại). Trong bản kể được coi là phổ biến nhất thì kết thúc truyện, Tấm dội nước
sôi khiến Cám chết, sau đó Tấm lấy xác Cám làm mắm gửi về cho mụ dì ghẻ, mụ
dì ghẻ ăn gần hết chĩnh mắm mới nhìn thấy đầu lâu con gái mình bèn lăn đùng ra
chết. Còn ở bản kể trong sách giáo khoa thì kết thúc nhẹ nhàng hơn: Tấm dội nước
sôi, Cám chết, mụ dì ghẻ cũng lăn đùng ra chết theo. Vậy đâu là cách đánh giá hợp
lý về hai kết thúc này?
Trên các diễn đàn trao đổi có rất nhiều ý kiến đồng tình cũng như phản đối
một trong hai cách kết thúc trên. Các ý kiến đồng tình với cách kết thúc như trong
sách giáo khoa cho rằng không nên để nhân vật Tấm lấy xác Cám làm mắm gửi cho
dì ghẻ vì như vậy làm mất đi vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Tấm, cách kết truyện
này không phù hợp với truyền thống nhân ái, ý thức về “độ” của người Việt và còn
có thể gây tác dụng phản giáo dục đối với học sinh. Kết truyện như sách giáo khoa
là hợp lý vì cái ác đã bị trừng trị mà cái thiện cũng không mất đi bản chất tốt đẹp
vốn có. Nhưng cũng có nhiều ý kiến ủng hộ việc giữ nguyên kết truyện như bản kể
truyền thống vì cho rằng đó là một văn bản chính thống, nó tồn tại được lâu dài như
thế chắc chắn phải có lý do của nó cho nên không được tuỳ tiện sửa đổi; vả lại kết
thúc như vậy là hoàn toàn hợp lý nói như giáo sư Phong Lê: “Cái ác có lý do vì sao
phải ác là vì mẹ con Cám ác quá, nhiều lần tìm cách giết Tấm đến kỳ cùng, ác
khủng khiếp. Triết lý dân gian là ác đến đâu tả đến đó. Việc làm mắm đó cũng
tương xứng với tội ác của mẹ con Cám. Vì thế dân gian truyền tụng, không có phản
1




Tiểu luận môn học: Nghiên cứu văn học dân gian theo loại hình

cảm gì cả - ứng xử đó là ứng xử thích hợp. Tội ác đến đâu phải trả giá đến đó. Vì
thế nghìn năm qua không gây phản cảm”. Giáo sư Phan Trọng Luận cho rằng nếu
sửa kết truyện Tấm Cám sẽ làm mất đi tính thống nhất của thi pháp truyện cổ tích
nhưng đồng thời cũng thừa nhận kết thúc truyện như truyền thống có thể gây phản
cảm ở học sinh.
Có thể thấy các ý kiến đánh giá về truyện Tấm Cám trên đây xuất phát từ hai
xu hướng. Xu hướng thứ nhất là xu hướng quan tâm chủ yếu đến các yếu tố tâm
lý - đạo đức trong hành động của nhân vật. Xu hướng này thường gắn với mục
đích quan trọng là đánh giá nhân vật. Hơn nữa, sự đánh giá này lại thường dựa trên
những đặc điểm tâm lý và tiêu chuẩn đạo đức của con người hiện đại. Xu hướng
thứ hai là xu hướng áp dụng các nguyên lý và phương pháp phân tích văn học
thành văn vào việc phân tích truyện cổ tích. Hơn nữa, phương pháp phân tích này
lại thường là phương pháp phân tích các tác phẩm văn học cận hiện đại. Thiết nghĩ,
để đánh giá xem kết thúc nào là phù hợp, chúng ta có thể dựa vào chức năng, đặc
trưng và các đặc điểm loại hình của truyện cổ tích thần kỳ mà Tấm Cám là một tác
phẩm tiêu biểu thuộc thể loại này.
Dù ở thời đại nào thì chức năng cơ bản nhất của truyện cổ tích thần kỳ cũng
là chức năng khuyến thiện, trừ ác, truyện Tấm Cám cũng vậy. Sở dĩ bản kể có kết
thúc truyện bằng chi tiết Tấm lấy xác Cám làm mắm gửi cho dì ghẻ tồn tại lâu dài
như vậy là bởi nó hoàn toàn phù hợp với xã hội Trung đại – “thời kỳ mà sự trả thù
và hành xác của con người hết sức man rợ không phải chỉ ở Việt Nam mà trên thế
giới cũng vậy” (PGS. TS Lê Thị Bích Hà). Đối với dân gian thời đó, hành động
trừng trị mẹ con Cám của Tấm như thế mới là đích đáng, mới thực sự làm nhân dân
hả hê, và đương nhiên hành động đó không làm ảnh hưởng đến tình cảm yêu mến
đối với nhân vật Tấm. Nhưng trong xã hội ngày nay, khi mà những giá trị nhân văn
được đề cao, hành động trả thù của Tấm bị người đọc đánh giá là độc ác, thậm chí

man rợ. Với kết thúc như vậy, truyện Tấm Cám không còn giữ được chức năng cơ
bản là khuyến thiện trong xã hội hiện nay nữa. Mặt khác, một trong những đặc điểm
2


Tiểu luận môn học: Nghiên cứu văn học dân gian theo loại hình

của truyện cổ tích là truyện truyền miệng và luôn luôn biến đổi theo nhu cầu của
thời đại, không bao giờ bất biến. Do đó nếu thay đổi kết thúc truyện Tấm Cám để
phù hợp với thời đại, để giữ được chức năng cơ bản của truyện cổ tích thần kỳ cũng
là việc có thể nên làm.
Truyện cổ tích là thể loại tiêu biểu của văn học dân gian, mà đặc trưng của văn học
dân gian là tính dị bản, do đó không thể yêu cầu truyện Tấm Cám có một bản kể
duy nhất. Tấm Cám nằm trong một kiểu truyện thuộc loại phổ biến nhất trên thế
giới. Cô Tấm trong truyện của nhiều nước phương tây có tên là cô Tro Bếp
(Cendrillon ở Pháp, Cinderella ở Anh, Cenerentola ở Ý, Cenusotca ở Rumani,
Cernuska hay Doluska ở Nga...), vì vậy kiểu truyện này có tên là kiểu truyện cô Tro
Bếp. Kiểu truyện cô Tro bếp trên thế giới đã được nghiên cứu nhiều, các vấn đề về
nguồn gốc và sự di chuyển của cốt truyện được chú ý tới nhiều hơn cả. Kiểu truyện
Tấm Cám cũng phổ biến ở khu vực Đông Nam từ rất lâu như truyện Nàng Diệp
Hạn của Trung Quốc, truyện con rùa của Miến Điện, truyện Neang Kantoc của
Campuchia, truyện Con cá vàng của Thái Lan … Ở Việt Nam, kiểu truyện này phổ
biến ở nhiều dân tộc: Ý Ưởi - Ý Noọng của người Thái, Tua Gia – Tua Nhi của
người Tày, Ú và Cao của người H'rê … Ở vùng Phú Thuỵ (Gia Lâm) và Quế Võ
(Bắc Ninh) truyện Tấm Cám lại biến đổi thành một kiểu dị bản khác. Truyện không
còn là hư cấu, tưởng tượng nữa mà gắn với một nhân vật lịch sử có thật ở thế kỷ
XIII là Ỷ Lan thái phi. Ở hai vùng này, những ngôi chùa có thờ bà Ỷ Lan còn có
tên gọi là chùa Bà Tấm. Từ thực tế trên, có thể kết luận rằng: do lưu hành bằng
truyền miệng qua không gian (vùng miền) và thời gian (đời này qua đời khác) mà
các bản kể của mỗi tác phẩm văn học dân gian luôn được sáng tạo lại, được sửa

đổi, thêm bớt tùy vào nhu cầu văn hóa và đặc trưng văn hóa của con người ở các
vùng miền và các thời đại. Vì thế mà ở văn học dân gian mới tồn tại hiện tượng “dị
bản”. Mỗi một văn bản được kể lại, được ghi lại (sưu tầm) chỉ là một trong những
“điểm dừng chân” trên hành trình bất tận đó thôi. Do đó, bản kể của Vũ Ngọc Phan
và của Nguyễn Đổng Chi cũng chỉ là những dị bản, chứ không phải là bản kể gốc.
3


Tiểu luận môn học: Nghiên cứu văn học dân gian theo loại hình

Những bản kể này được công bố chỉ mới cách đây trên 30 năm và là những biến
thái của những bản kể đã được ghi chép và công bố từ xưa hơn nữa của Đỗ Thận
(1907), của A.Landes (1886), của G.Jeanneau (1886). Nếu xem bản kể của Vũ
Ngọc Phan và Nguyễn Đổng Chi là cố định, bất di bất dịch, không thể sửa đổi nữa,
thì vô hình chung đã xóa bỏ luôn tính chất hiện tồn của văn học dân gian. Dân gian
đã sáng tạo ra, thì dân gian cũng có quyền sửa đổi để tiếp tục hoàn thiện nó theo
nhu cầu văn hóa của mình. Những người soạn sách cũng thuộc về dân gian, vì vậy
họ có quyền kể lại truyện Tấm Cám cho phù hợp với thời đại và phù hợp với nhận
thức của họ. Tất nhiên việc kể lại đó không được làm thay đổi cốt truyện, nghĩa là
không được biến truyện Tấm Cám thành một truyện kể khác. Như vậy, bản kể
trong sách giáo khoa là một dị bản mới của truyện Tấm Cám, dị bản của thời hiện
tại. Dị bản này đương nhiên là không cố định, mặc dù nó có được đưa vào sách
giáo khoa, và khi giảng dạy cho học sinh cần phải nhấn mạnh vào “tính không hoàn
kết” đó của truyện cổ tích. Vừa qua, trên mạng Internet có phong trào viết lại kết
thúc truyện cổ tích Tấm Cám, mỗi người đều muốn đưa ra một cái kết hợp lý nhất
theo quan niệm của mình. Điều đó chứng tỏ văn học dân gian luôn vận động, biến
đổi. Và biết đâu trong các cách kết thúc được thảo luận trên mạng kia lại có một cái
kết hợp lý nhất, được nhiều người chấp nhận nhất, và một dị bản Tấm Cám nữa sẽ
xuất hiện trong kho tàng cổ tích Việt Nam.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đoạn kết nói về cái chết của mẹ con cô Cám với

tư cách là một đơn vị môtip trong truyện dân gian. Có thể khẳng định luôn rằng cả
hai cách kết truyện mà ta đang bàn bạc đều theo motif trừng phạt. Đây là motif phổ
biến của truyện cổ tích thần kỳ, và motif này thường đi kèm với motif ban thưởng
để thực hiện chức năng khuyến thiện, trừ ác. Điểm giống nhau giữa hai kết truyện
trên là cuối cùng cái ác bị trừng trị, mẹ con nhà Cám phải chết. Còn điểm khác
nhau là ở chỗ có hay không có chi tiết Tấm lấy xác Cám làm mắm gửi về cho dì
ghẻ. Khảo sát các dị bản của đề tài cốt truyện Tấm Cám ở Việt Nam và Đông Nam
Á (mà nhiều nhà nghiên cứu cho là đã tạo thành một kiểu truyện Tấm Cám riêng ở
4


Tiểu luận môn học: Nghiên cứu văn học dân gian theo loại hình

vùng văn hóa này, khác với kiểu truyện cô Tro bếp ở phương Tây), ta sẽ dễ dàng
nhận thấy có những dị bản kể lại người đã gây ra cái chết của mẹ con cô
Cám không phải là Tấm mà là những nhân vật khác. Trong truyện Gơ-Liu Gơ-Lat
(Nồi lớn Nồi bé) của người Xrê, nhân vật đó là hoàng tử, hoàng tử còn sai quân
lính xẻ thịt Gơ-Lát làm mắm. Trong truyện Con rùa của Miến Điện, nhân vật đó là
thần linh và vua: “Khi Bé (tức cô Tấm của người Việt) tâu bày với vua mọi việc
của mẹ con mụ dì ghẻ, hoàng hậu giả (tức Cám của người Việt) không nhận tội, xin
vua mời thần linh phán xử theo tục lệ. Người ta trao cho bị cáo (hoàng hậu giả) một
cây gươm sắt, và nguyên cáo (Bé) một cây gươm gỗ để đấu với nhau. Gươm sắt
của hoàng hậu giả bỗng nhiên rơi xuống mềm nhũn, còn gươm gỗ của Bé lại biến
thành gươm sắt bay ra chém đứt đầu đối phương. Vua sai làm thịt hoàng hậu giả,
ướp muối đem biếu mụ dì ghẻ” (theo Nguyễn Đổng Chi, 1993, tập 4, tr. 1798).
Trong truyện Ú và Cao của người Hrê, Cao bị Ria - chồng Ú - giết thịt làm món ăn,
còn cha mẹ Cao thì bị ong đốt chết, v.v… Như vậy, ở một vài dị bản truyện Tấm
Cám, ta thấy có chi tiết xẻ thịt Cám (cách gọi tên của người Việt), ướp muối làm
mắm, hoặc làm món ăn, nhưng người thực hiện không phải là Tấm. Do đó không
nhất thiết bắt buộc phải có chi tiết Tấm lấy xác Cám làm mắm trong các dị bản

Tấm Cám sau này
Trở lại cách kết thúc có chi tiết Tấm lấy xác Cám làm mắm, nhiều nhà
nghiên cứu văn học dân gian đã cho rằng đoạn kết truyện Tấm Cám không phải do
dân gian sáng tạo ra mà do yếu tố ngoại lai: “Cách kết trong truyện Tấm Cám vẫn
là một “nghi án” về sự chắp nối khiên cưỡng, pha trộn yếu tố ngoại lai'' (Phan Hải
Triều) “Trong truyện cổ tích Việt Nam cũng không phải là không có những yếu tố
“ác”, - những cách xử lý sát phạt và những kết cục khốc liệt cho nhân vật - chẳng
hạn truyện Rạch đùi dấu ngọc hay truyện Tấm Cám ; nhưng cái ác trong kết cục
Tấm Cám - một hành vi trả đũa có phần hả hê nhưng cũng gớm ghiếc - lại gần như
là một motif du nhập từ ngoài tới chứ không phải nội sinh” (Nguyễn Đổng Chi).
Nếu quả thật ông cha ta đã mượn những motif từ bên ngoài và sự vay mượn ấy tạo
5


Tiểu luận môn học: Nghiên cứu văn học dân gian theo loại hình

nên một sự chắp nối khiên cưỡng thì việc sửa đổi làm cho motif ấy không còn
khiên cưỡng nữa mà thực sự hài hoà với đời sống tinh thần của người Việt là việc
làm cần thiết chứ sao!
Khi phân tích, tranh luận về một tác phẩm văn học dân gian, bám sát vào đặc
trưng thể loại và sử dụng phương pháp loại hình là một việc làm cần thiết. Tranh
luận về kết thúc truyện Tấm Cám cũng vậy. Nếu đã thừa nhận đặc trưng của văn
học dân gian là tính dị bản và luôn luôn biến đổi khi di chuyển trong không gian và
thời gian thì phải thừa nhận cả hai kiểu kết thúc bởi đó là hai dị bản của truyện kể.
Và người đọc truyện dân gian có thể lựa chọn bản kể nào phù hợp với quan điểm
của mình, thậm chí có thể đề xuất các dị bản khác nếu thấy dị bản đó là hợp lý.

6




×