Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập môn NHỮNG NGUYÊN lý cơ bản của CHỦ NGHĨA mác LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.59 KB, 25 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
Biên soạn: Thanh Phạm
Lớp

: Ngôn ngữ Anh 3.K15 Đại học Hải Phòng

Email

:

Facebook: />Nghiêm cấm sao chép dưới mọi hình thức
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Tại sao mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại lại trở thành vấn đề cơ bản của triết học?
Ý 1: Nội dung vấn đề cơ bản của triết học





Ph.Ăngghen cho rằng: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”
Mặt thứ nhất, (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có
sau,cái nào quyết định cái nào?





Mặt thứ hai, (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả


năng nhận thức thế giới hay không?
Việc giải quyết vấn hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm
của các trường phái lớn: chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật; khả tri
luận (thuyết có thể biết) và bất khả tri luận (không thể biết). Ngoài ra còn
có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận.

Ý 2: Sở dĩ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học là






Bất cứ trường phái triết học nào xét dến cùng đều phải trả lời câu hỏi “giữa
vật chất và ý thức có mối quan hệ với nhau như thế nào?”. Việc trả lời câu
hỏi đó được xem là điểm xuất phát của mọi tư tưởng, mọi quan điểm của
mọi hệ thống triết học trong lịch sử.
Việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở để giải
quyết các vấn đề khác của triết học
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu chuẩn đề xác định lập
trường thế giới quan và nhận thức luận của các triết gia và các học thuyết
triết học

Câu 2: Phân tích định nghĩa vật chất của Leenin và nêu ra những giá trị khoa
học củ định nghĩa.
“Vật chất là một phạm trù TH dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
a. Phân tích định nghĩa :Vật chất là 1 phạm trù TH, thì nó khác với vật chất trong



KHTN và trong đời sống hàng ngày:
Vật chất trong KHTN, trong đời sống hàng ngày là các dạng vật chất cụ thể, tồn tại
hữu hình, hữu hạn; có sinh ra có mất đi, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
Chúng bao gồm vật chất dưới dạng hạt, trường, trong TN, XH, dưới dạng vĩ mô, vi
mô rất phong phú đa dạng.
Vật chất với tính cách là 1 phạm trù TH tức là vật chất đã được khái quát từ tất cả
các sinh vật cụ thể. Do đó, nó tồn tại vô cùng vô tận, không có khởi đầu, không có
kết thúc, không được sinh ra, không bị mất đi; đây là phạm trù rộng nhất, vì thế
không thể quy nó vào các vật cụ thể để hiểu nó.
Vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Nghĩa là
vật chất là tất cả những gì tồn tại thực, tồn tại khách quan ở bên ngoài, độc lập với
cảm giác, ý thức con người, không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức. Đây là thuộc tính
quan trọng nhất của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì
không là vật chất. Điều đó khẳng định vật chất có trước, cảm giác ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức.
Vật chất tồn tại không huyền bí mà nó là “thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh“. Điều này khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới vật chất, chỉ
có những điều chưa biết chứ không thể có những điều không biết.
b. Ý nghĩa phương pháp luận
Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của TH, thể hiện rõ lập
trường DV biện chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản của triết học đứng
trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, ý thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con
người có khả năng nhận thức thế giới.
- Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức).
- Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật

chất của CNDV trước Mac (quan niệm vật chất về các vật thể cụ thể, về nguyên tử,
không thấy vật chất trong đời sống xã hội là tồn tại).
- Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của CNDV tầm thường về vật
chất (coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất)
- Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.
- Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể


thống nhất. (vật chất trong TN, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của
vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).
- Mở đường cổ vũ cho KH đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn của thế
giới vật chất
Câu 3: Trình bày nguồn gốc và bản chất của ý thức.
1. Nguồn gốc của ý thức
- Ý thức là là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hay ý thức chỉ chẳng
qua chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan được di chuyể n vào trong bộ óc
người và cải biến đi.
a. Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức có 2 yếu tố:
- Phải có bộ óc người phát triển cao. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý
thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người. Ý thức là thuộc tính của vật
chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
- Sự tác động của hiện thực khách quan vào bộ óc để bộ óc phản ánh.Thế giới
khách quan là đối tượng phản ánh của bộ óc người để hình thành nên ý thức.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào
cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác
động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng để

chỉ rõ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. Ý thức chỉ nẩy


sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con
người. Ý thức là ý thức con người, nằm trong con người, không thể tách rời
con người.
Như vậy, bộ óc con người và sự tác động của thế giới xung quanh lên bộ óc,
đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b) Nguồn gốc xã hội của ý thức cũng có 2 yếu tố đó là: lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là hoạt động có mục đích sáng tạo của con người, sử dụng công cụ
sản xuất tác động vào các đối tượng của tự nhiên để sản xuất ra của cải vật
chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội.
Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng bộc
lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành
những hiện tượng nhất định và các hiện tượng ấy tác động vào óc người hình
thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội.
Nhờ lao động mà các bộ phận của cơ thể, các giác quan, khí quan của con
người được hoàn thiện trong quá trình phản ánh thế giới xung quanh.
Lao động góp phần cải tạo chế độ dinh dưỡng, làm cho bộ não và hệ thần kinh
phát triển
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của con người làm biến đổi thế giới đó. Nên nguồn gốc cơ bản của ý
thức, tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong
quá trình lao động.
Nhưng bản thân quá trình lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể, tính xã
hội. Vì vậy xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm lao động và trao đổi tư tưởng


tình cảm. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.

- Ngôn ngữ bao gồm tiếng nói và chữ viết tồn tại dưới dạng các khái niệm,
ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là
hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là “cái vỏ vật chất của tư duy”.
Nếu không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn
ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy
nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người
tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin và tri thức từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Tóm lại: Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội. ý thức phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã
hội.
2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách
quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự
phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến
giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Vì vậy,
ý thức ... là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi ở trong đó”.
Source:
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã
có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái
không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra
những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu
tượng và có tính khái quát cao.
Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, bởi vì ý thức bao giờ cũng
chỉ là sự phản ánh tồn tại.



- Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là có tính xã
hội.
Câu 4: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử
cụ thể.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể là nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến.
Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
-Khái niệm:
+Mối liên hệ là khái niệm chỉ sự tác động qua lại,sự quyết định và sự chuyến hóa
lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong sự vật,hiện tượng hay giữa các sự vật,hiện
tượng với nhau.VD: mối liên hệ giữa cô giáo và học sinh,…
+Mối liên hệ phổ biến là những mối liên hệ chung nhất, chi phối mọi sự vật hiện
tượng hay giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.Đó là mối quan hệ
giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái
riêng, bản chất và hiện tượng.VD: LIÊN HỆ :Thực vật và động vật có mối liên hệ
với nhau trong quá trình trao đổi chất
Giữa các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể người. các địa phương trong 1 nước liên hệ nhau.
Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
Ví dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ phát
triển.
Mối liên hệ có tính nhiều bề vô cùng phong phú đa dạng. Cụ thể là liên hệ bên
trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ gián tiếp, trực tiếp , liên hệ cơ bản, không cơ bản,
chủ yếu và không chủ yếu.
-> Lưu ý: Riêng trong lĩnh vực xã hội: Có rất nhiều MỐI LIÊN HỆ khác nhau như:
MỐI LIÊN HỆ : KINH TẾ , CHÍNH TRỊ , XÃ HỘI , VĂN HÓA , Dân Tộc, Tôn
giáo, huyết thống, làng xã...
-Tính chất:



+Tính khách quan: Nhờ có mối liên hệ mới có sự vận động mà vận động là tất yếu
khách quan. Do đó mối liên hệ là tất yếu khách quan. Liên hệ là thuộc tính vốn có
của sự vật hiện tượng bắt nguồn từ tính thống nhất của thế giới không phụ thuộc
vào ý thức của con người.
+Tính phổ biến: Mối liên hệ là thuộc tính vốn có của sự vật hiện tượng diễn ra
trong mọi sự vật ở mọi không gian,thời gian,trong tất cả các lĩnh vực của thế giới
trong tự nhiên xã hội và tư duy.
+Tính phong phú đa dạng: Thế giới là vô cùng vô tận của các sự vật hiện tượng, do
đó mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Các sự vật hiện tượng khác nhau có mối
liên hệ khác nhau, giữ vị trí vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của
nó.
Ý nghĩa phương pháp luận:
-Khi xem xét sự vật hiện tượng thì phải đặt sự vật hiện tượng đó vào trong tất cả
các mối liên hệ của chúng, tránh rơi vào quan điểm phiến diện một chiều. Tức là
phải có quan điểm toàn diện để áp dụng vào hoạt động thực tiễn của con người.
-Bên cạnh quan điểm toàn diện cũng cần phải có quan điểm lịch sử cụ thế, quan
điểm này yêu cầu khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó vào trong mối liên hệ
nhất định, trong không gian, thời gian cụ thể, tránh gây sự đánh giá chung chung.
Câu 5: Phân tích cách thức của sự phát triển.
a. Khái niệm “phát triển”
Theo quan điểm siêu hình: Phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng,
không có sự thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát triển là quá trình tiến lên
liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Phép biện chứng duy vật cho rằng: Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của sự
vật
Khái niệm “phát triển” và khái niệm “vận động” có sự khác nhau: Vận động là mọi
biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ
hay lạc hậu, còn phát triển là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.



Phát triển là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự
vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng
cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
b. Tính chất cơ bản của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có các tính chất cơ bản sau:
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình
giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính
tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra
trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng
và mọi quá trình; trong mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng song trong mỗi sự vật, hiện tượng
có quá trình phát triển không giống nhau. Sự vật, hiện tượng tồn tại trong thời gian,
không gian khác nhau có sự phát triển khác nhau.
Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, các hiện
tượng hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể, sự thay đổi
của các yếu tố tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức
và cải tạo thế giới. Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải: Xem xét
sự vật và hiện tượng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận
động”, trong sự biến đổi của nó”.
- Luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là quá trình biện
chứng, bao hàm tính thuận, nghịch, đầy mâu thuẫn vì vậy, phải nhận thức được
tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
- Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó
trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối liên hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện



tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên đồng thời phải phát huy
nhân tố chủ quan của con người để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện
tượng theo đúng quy luật.
- Phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật ở vị trí “hạt nhân”
của phép biện chứng duy vật; quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực cơ bản,
phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển.
*Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập:
Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh
hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Ví
dụ: điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của
một cơ thể sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế...
*Tính chất chung của mâu thuẫn
Tính khách quan và phổ biến: bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong tự nhiên, xã hội
và tư duy cũng tồn tại, vận động trên cơ sở các mâu thuẫn nội tại của các mặt đối
lập của nó hoặc giữa nó với các sự vật, hiện tượng khác.
Tính đa dạng, phong phú của mâu thuẫn: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có
thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những
điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau; giữ vị trí vai trò khác nhau đối với sự tồn tại,
vận động, phát triển của sự vật. Đó là mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài,
cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối kháng và không đối
kháng...Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những
tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
*Quá trình vận động của mâu thuẫn
Sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập
Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không
tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền

đề tồn tại. Xét về phương diện nào đó giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có một số


yếu tố giống nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập bao hàm sự đồng nhất của
nó.
Khái niệm sự đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động
qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các
mặt đối lập rất phong phú tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể
của sự vật, hiện tượng.
Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển
hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú, đa
dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những
điều kiện lịch sử cụ thể
Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là
tuyệt đối, sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự
thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
Vai trò của mâu thuẫn đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật: Sự liên
hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận
động và phát triển trong thế giới. “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt
đối lập”.
Theo quan điểm biện chứng thì sự vật nào cũng là một thể thống nhất của các mặt
đối lập, tức là, các mặt có xu hướng, khuynh hướng trái ngược nhau. Chính sự tác
động lẫn nhau giữa các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn sự vật. Khi nói mâu thuẫn
biện chứng là nói đến mâu thuẫn tất yếu của những mặt trái ngược nhau, ví dụ,
điện có cực âm><cực dương, nông dân >< địa chủ, giai cấp TB>< giai cấp vô sản,
sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá, kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và
tiền… Trong các mặt đối lập, chúng vừa đấu tranh với nhau (với nghĩa tác động
theo xu hướng trái ngược nhau) nhưng các mặt đối lập lại là thống nhất với nhau.
Thống nhất là tồn tại không tách rời nhau, làm điều kiện cho nhau tồn tại, phát
triển, có mặt này thì mới có mặt kia. Thống nhất còn bao hàm thâm nhập nhau,

trong mặt này chứa đựng mầm mèng mặt kia, cho nên, chúng ta không nên tạo ra
hàng rào tuyệt đối giữa các mặt đối lập mà phải thấy được có sự chuyển hoá giữa
các mặt đối lập. Chuyển hoá có trình độ từ thấp đến cao và dẫn đến sự chuyển hoá
cuối cùng, tức là khi mâu thuẫn đã được giải quyết. Chuyển hoá cuối cùng có hai


hình thức cơ bản: hình thức thay đổi vị trí cho nhau và hình thức các mặt đối lập cũ
mất đi và hình thành những mặt đối lập mới.
Hầu hết các nhà triết học đều cho rằng thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
đều có vai trò trong sư phát triển của sự vật. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn phát
triển mà ta phải nhấn mạnh mặt này hay mặt kia. Khi sự vật còn ở giai đoạn phát
triển, khi mâu thuẫn chưa gay gắt thì khi đó mặt thống nhất giữ vai trò chủ đạo,
còn khi mâu thuẫn trở nên gay gắt, đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn lại là chủ
đạo, chính yếu.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan , phổ biến của thế giới . Mâu thuẫn được giải
quyết , sự vật cũ mất đi , sự vật mới hình thành . sự vật mới lại nảy sinh các mặt
đối lập và mâu thuẫn mới .
Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau dể tạo thành sự vật
mới hơn . Cứ như vậy các sự vật , hiên tượng trong thế giới khách quan thường
xuyên biến đổi và phát triển không ngừng . Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc và
động lực phát triển của mọi quá trình phát triển.
Chính thông qua đấu tranh mà các mặt đối lập phải điều chỉnh lại cho phù hợp với
sự vận động biến đổi của chóng cũng như phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử
mới. Chính đấu tranh mới làm cho cái cò, cái lỗi thời mất đi và cái mới cái tiến bộ
ra đời, đó chính là động lực của sự phát triẻn.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai đoạn . Thông thường
khi mới xuất hiện , hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi
đó là giai đoạn khác nhau . Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng
được gọi là mâu thuẫn . Chỉ những sự khác nhau nào cùng tồn tại trong cùng mét
sự vật có liên hệ hữu cơ với nhau , phát triển ngược chiều nhau , tạo thành động

lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập đó mới hình thành bước đầu của
một mâu thuẫn . Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến xung đột
gay gắt , nã biến thành độc lập . sự vật cũ mất đi , sự vật mới hình thành . Sau khi
mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi
sự thống nhất của hai mặt đối lập mới , hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển


hoá tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật mới xuất hiện .
Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngõng tõ
thấp đến cao . Chính vì vậy Lênin khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh
của các mặt đối lập “.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho các mặt đối lập chuyển
hoá lẫn nhau. Đó là quá trình thẩm thấu những nhân tố, những thuộc tính của nhau.
Sù chuyển hoá này là kết quả của những tác động qua lại thường xyên giữa các mặt
đối lập là do sù thống nhất và đấu tranh giữa cháng. Sự chuyển hoá có thể diễn ra
dưới hai hình thức chuyển hóa từng phần và chuyển hoá toàn bộ .
Các mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau và sự tác động qua lại giữa chúng
tạo thành mâu thuẫn biện chứng của sự vật. Mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn
của các mặt đấu lập vừa thống nhất vừa đấu tranh lẫn nhau. Triết học Mác - Lênin
cho rằng: ”Sự vật nào cũng là sự tổng hợp của những mâu thuẫn , vị trí các mâu
thuẫn không giống nhau(có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài, cơ bản
và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng và
không đối khang…. ). Mọi mâu thuẫn đều có quá trình phát sinh phát triển và biến
hoá. Chính vì vậy phân tích cụ thể mâu thuẫn là điều kiện đẻ nhận thức đúng sự
vật.
Câu 7: Phân tích MQH biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Sự vận đụng mối quan hệ này ở nước ta trong quá trình giai đoạn đổi
mới hiện nay.
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục giới tự
nhiên bằng tất cả sức mạnh hiện thực của mình trong quá trình thực hiện sự sản

xuất xã hội, là cái nói lên năng lực của con người trong quá trình sản xuất tạo ra
của cải xã hội .
Lực lượng sản xuất được tạo thành do sư kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất
mà trước hết là với công cụ lao động, cũng như khoa học .


Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và tái sản xuất,
bao gồm : các quan hệ sở hửu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ
chứcquản lý và sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất .
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách
biện chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận
động của đời sống xã hội .
Sự biến đổi cửa sản xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ, và xét cho cũng bắt đầu từ
sự biến đổivà phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động .
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và
biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sảnxuất . Đương nhiên, khi trình
độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của cũng phát triển theo .
Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện
quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và
phát triển của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là sản phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố:
•Trình độ của công cụ lao động
•Trình độ tổ chức lao động xã hội
•Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
•Trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
•Trình độ phân công lao động
Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư
liệu sản xuất và của lao động . Ứng dụng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội
được thể hiện thông qua sự phát triển của công cụ lao động, tính chất xã hội của
lực lượng sản xuất cũng biến đổi . Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình

độ phát triển của lực lượng sản xuất không đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó .
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng chinh phục giới tự
nhiên của con người : khả năng này chỉ đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất .


Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất là một
trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho
lực lượng sản xuất phát triển . Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích
ứng với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và
kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng
của ực lượng sản xuất .
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở
mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
sẽ chuyển thành không phù hợp . Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới
việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay
bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay
đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . Điều này sẽ dẫn tới sự diệt vong
của phương thức sản xuất cũ và sự ra đời của phương thức sản xuất mới .
Như vậy, lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản
xuất, một khi lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn thì quan hệ sản xuất
cũng phải biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới .
Tuy vậy, quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lượng sản
xuất . Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã
hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ . Tren cơ sở
đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
một lực lượng sản xuất . Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển hợp lý và đồng
bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,
trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát
triển . Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng

sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển . Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất đã trở nên gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết, song con
người không phát hiện được, hay khi đã phát hiện được mà không giải quyết, hoặc
giải quyết một cách sai lầm …thì không thể phát triển được lực lượng sản xuất,
thậm chí còn phá hoại lực lượng sản xuất .
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người từ


xã hội công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản
nhất trong hệ thống các quy luật xã hội .
Sự vận dụng của Đảng ta:
Trước khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và muốn đạt được thành
công thì nhất thiết phải có tiềm lực về kinh tế và con người, trong đó lực lượng lao
động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra cần phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Đây là nhân tố cơ bản nhất. Đất
nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa và có một tiềm năng
lao động lớn, cần cù, thông minh, sáng tạo, có kinh nghiệm lao động nhưng công
cụ sản xuất của chúng ta còn quá thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước đang ngày
càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất
nước về công nghiệp hóa –hiện đại hóa đất nước trước hết trên cơ cở một cơ cấu sở
hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp quy luật,
cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp cùng với thời cơ lớn thì cũng có rất nhiều
thách thức phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước, vì dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Nhưng điều đó còn ở
phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Câu 8: Phân tích MQH giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đảng ta
đã vận dụng MQH này như thế nào trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

* Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở
kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những
QHSX thống trị, những QHSX là tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm
mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX
thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần
kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng
chugn của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính
chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối
kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT.


* Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội,
những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành
trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp
thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức
của các giai cấp mới ra đời; quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính
chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong
một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà
nước – công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị,
pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị
được toàn bộ đời sống xã hội.
1. Quan điểm Macxit về mối quan hệ biện chứng lý luận giữa CSHT và KTTT:
- CSHT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những QHSX đang tồn tại trong một giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội tạo thành cơ cấu nền tảng kinh tế của xã hội đó.
+ 3 khả năng tồn tại của CSHT trong xã hội:
> CSHT đồng nhất với 1 kiểu QHSX.
> CSHT đồng nhất với 2 kiểu QHSX.

> CSHT có số lượng QHSX lớn hơn 2.
+ Số lượng QHSX lớn hơn 1 đặc trưng cho CSHT của xã hội đó là kiểu QHSX
thuộc về phương thức SX chiếm sự thống trị trong xã hội đó.
- KTTT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và các thiết
chế tương ứng phản ánh CSHT của xã hội đó.
+ 2 bộ phận:
> Tư tưởng, tinh thần
> Thiết chế tổ chức
- Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
+ Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT:


> CSHT quyết định nội dung, cấu trúc, sự vận động phát triển của KTTT.
> Mâu thuẫn trong CSHT làm nảy sinh mâu thuẫn tương ứng trong KTTT do vậy
để giải quyết triệt để mâu thuẫn trong KTTT phải lấy việc giải quyết mâu thuẫn
trong CSHT làm nhân tố quyết định.
+ KTTT tác động trở lại đối với CSHT:
> Khi KTTT phù hợp với CSHT sẽ góp phần thúc đẩy CSHT phát triển.
> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT.
2. Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải cách
nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay?
- CSHT nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà
nước đóng vai trò chủ đạo nên KTTT phải xây dựng, củng cố, đối mới phù hợp.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần không nhất thiết phải đa nguyên chính trị tuy
nhiên yêu cầu khách quan đặt ra là KTTT nước ta phải đổi mới phát triển theo
hướng nâng cao chất lượng hoàn thành chức năng xã hội của mình.
- Trước sự yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, Chính phủ đã đưa ra mục
tiêu“xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu quả”. Trong một số năm gần đây, cải cách
hành chính (CCHC) đã được triển khai trên cả 4 nội dung: cải cách thể chế; cải

cách tổ chức bộ máy hành chính công; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức.
- Tuy nhiên, tốc độ CCHC còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp. Nền hành
chính có chuyển biến song vẫn tụt hậu so với tốc độ và yêu cầu cải cách của nền
hành chính hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng chung là nhiều cán bộ
lãnh đạo và cán bộ công chức ngại thực hiện cơ chế một cửa, do ngại bị bó buộc,
ngại bị rút bớt quân số và lợi ích cục bộ… Mặt khác, trình độ công chức, cán bộ ở
bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn nhiều bất cập, tỷ lệ đạt chuẩn thấp, nhiều nơi
chỉ đạt 20-30%. Trên thực tế, tuy là “một cửa” nhưng vẫn còn nhiều “ổ khóa” do
không ít cán bộ, công chức tiêu cực, nhũng nhiễu tạo ra nên người dân chưa hết
phiền hà. Trong khi đó, sự chỉ đạo thực hiện cải cách lại thiếu kiên quyết và nhất
quán ở các cấp, các ngành; tiền lương mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu đời sống


của cán bộ, công chức. Hội nghị đã tập trung thảo luận các giải pháp đẩy mạnh
CCHC giai đoạn 2, từ 2006-2010.
- Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986,
tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới
về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính
được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích
lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy
nhanh so pat triển đất nước.
Câu 9: Vì sao sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình
lịch sử tự nhiên.
Trả lời:
* Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quy luật lịch sử tự nhiên vì:
Lịch sử phát triển xã hội qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao tương ứng với mỗi
giai đoạn ấy là một hình thái kinh tế xã hội.
Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử đều do tác
động của các quy luật khách quan đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội.

+ Các quy luật khách quan của xã hội là:
- Quy luật và sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
LLSX.
- Quy luật CSHT quyết định KTTT.
Các quy luật xã hội khác. Đấu tranh giai cấp, chính do tác động của quy luật khách
quan đó mà các hình thái xã hội vận động phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao
trong lịch sử không phụ thuộc vào ý chí nguyện vọng chủ quan của con người.
Quá trình phát triển khách quan của xã hội có nguồn gốc sâu xa của sự phát triển
LLSX. Do đó xét đến cùng LLSX quyết định quá trình vận động và phát triển của
hình thái kinh tế xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.
Câu 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Ý nghĩa của vấn đề này đối với nước ta hiện nay.


Trả lời:
Khái niệm tồn tại xã hội: Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội v bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản
xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số... trong đó phương
thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất .
Khái niệm ý thức xã hội : Ýthức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao
gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận ... là sự
phản ánh của tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định
- Tồn tại xã hội quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Tồn tại xã
hội có trước, ý thức xã hội có sau, tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như
thế ấy.
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết
định nhưng ý thức xã hội lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở:
+Ýthức xã hội lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
+Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội,do nắm bắt được bản chất và quy
luật của sự vật. Đặc biệt ý thức lý luận khoa học thường vượt trước tồn tại xã hội.

+Ý thức xã hội có tính kế thừa,ý thức xã hội mới có tính kế thừa ý thức xã hội cũ,
sau đó bổ sung hoàn chỉnh cho phù hợp với tồn tại đạ phát triển.
+ Các hình thái ý thức xã hội như triết học,đạo đức,nghệ thuật có tác động qua lại
với nhau,trong đó ý thức chính trị có vai trò quan trọng nhất.
+Ýthức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
+ Ýthức xã hội phản ánh sai tồn tại xã hội sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã
hội thông qua hoạt động của con người,trong đó thực tiễn đóng vai trò quyết định.
Ví dụ :


Trong chế độ Cộng sản nguyên thủy do lực lượng sản xuất còn thấp, công cụ sản
xuất quá thô sơ (gậy gộc, hòn đá, cung tên) nên người nguyên thủy buộc phải thực
hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (rừng cây, con suối), phải sống tập đoàn
mới có thể kiếm được thức ăn, chống thú dữ, tất cả của cải làm ra được chia đều,
dùng hết không còn dư thừa, nên không thể có sự chiếm hữu làm của riêng, không
có tình trạng người bóc lột người.
Nhưng khi công cụ bằng kim loại xuất hiện, lực lượng sản xuất có bước phát triển
mới. Sản phẩm làm ra đủ mức sống tối thiểu và có dư ra đôi chút, đã tạo điều kiện
cho sự xuất hiện chế độ tư hữu, mà hình thức đầu tiên là chế độ chiếm hữu nô lệ, tù
binh và các thành viên nghèo đói trong xã hội biến thành nôlệ. Người nắm tư liệu
sản xuất, trở thành chủ nô.
Thời kỳ đầu, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ rất thích hợp, nó phá vỡ sự trói
buộc con người trong các thị tộc, bộ lạc, tạo điều kiện cho sự phân công lao động
(chăn nuôi, trồng trọt và sau này là thủ công nghiệp). Chính sự hợp tác giản đơn
này của lao động nô lệ đã cho phép tạo ra những công trình đồ sộ (Kim tự tháp Ai
Câp , Kênh đào Xuê , nhà hát, Đấu trường La mã.....) lao động trí óc tách khỏi lao
động chân tay thúc đẩy sự phát triển rực rỡ của thi ca, điêu khắc, khoa học, triết
học thời cổ đại.
Ý nghĩa của vấn đề này đối với nước ta hiện nay:
Thứ nhất, tồn tại xã hội đóng vai trò quyết định ý thức xã hội, tức mặt đời sống

tinh thần của xã hội. Vì vậy, muốn xoá bỏ hình thái ý thức xã hội cũ lỗi thời, lạc
hậu, bảo thủ, trì trệ thì trước hết phải cải tạo tồn tại xã hội sinh ra nó.
Thí dụ: muốn thay đổi tư duy manh mún, nhỏ lẻ của người nông dân thì cần phải
đưa công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với các tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng
dụng vào trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó, sẽ làm thay đổi cách nghĩ, cách làm
thủ công, truyền thống của người nông dân sang làm ăn lớn trên cơ sở áp dụng
những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp cho năng
suất cao.
Thứ hai, ý thức xã hội có sự tác động trở lại tồn tại xã hội. Vì vậy, cần đấu tranh
chống lại các tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, phản tiến bộ, phản khoa học nhằm thúc
đẩy xã hội phát triển.


Thí dụ: cần đấu tranh chống lại các tư tưởng ngại đổi mới, chậm đổi mới, chậm áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa. Vì vậy, trong quá trình phát triển cần phải kế
thừa những giá trị truyền thống của dân tộc và không ngừng tiếp thu, ứng dụng
những thành tựu văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghệ của nhân loại vào sản
xuất nhằm nâng cao năng suất lao động; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu:
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Thứ tư, ý thức xã hội có tính vượt trước, dự báo xu hướng vận động và phát triển
của xã hội tương lai.
Vì vậy, cần phải tích cực đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm phát hiện những
quy luật vận động, phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và con người. Từ đó,
Đảng và Nhà nước cần có cơ chế, chính sách và giải pháp khoa học nhằm thúc đẩy
sự tiến bộ và phát triển của xã hội; đồng thời ngăn ngừa được những nguy cơ xấu
phát sinh trong đời sống xã hội như: bão lụt, động đất, sóng thần, dịch bệnh, khủng
hoảng toàn cầu...
Thứ năm,nghiên cứu các hình thái xã hội, trong đó, ý thức chính trị, ý thức pháp
luật ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội, đến việc hình thành ý thức công dân

và thực hành ý thức xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cần tích cực tuyên truyền
các chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà nước vào trong đời
sống xã hội.
Câu 11: Trình bày nguồn gốc và đặc trưng của giai cấp.
1. Nguồn gốc: Phát hiện mới của chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là sự tồn tại giai
cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp mà là đã chỉ ra sự tồn tại giai cấp, đối kháng
và đấu tranh giai cấp không phải là bản tính của nhân loại, là tiền định mà chỉ là
hiện tượng có tính lịch sử, gắn với những giai đoạn lịch sử nhất định của sản xuất,
của lịch sử nhân loại.Nguồn gốc trực tiếp của giai cấp trong xã hội là từ sự phân
hóa xã hội do sự ra đời, tồn tại của chế độ tư hữu đối với những tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội. Trong điều kiện đó tất yếu làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt
địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản xuất, dẫn tới khả năng tập đoàn
người này chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn người khác. Tuy nhiên, quá
trình này còn phải gắn với điều kiện lực lượng sản xuất phải phát triển đến một


mức độ nhất định, làm cho năng suất lao động tăng lên khiến cho thời gian lao
động được chia thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư mà
biểu hiện của nó là sự dư thừa tương đối của cải trong cộng đồng xã hội. Nguồn
gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội là do tình trạng phát triển chưa
đầy đủ của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển tới mức đầy đủ thì
chính nó lại là nguyên nhân khách quan dẫn đến xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, do đó xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã
hội.Con đường hình thành giai cấp có thể diễn ra với những hình thức khác nhau,
mức độ khác nhau ở các cộng đồng khác nhau trong lịch sử.Điều đó tùy thuộc sự
tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát
triển của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có thể khái quát quá trình hình thành,
phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của nhân tố bạo lực và của quy
luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã
hội, hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố nói trên.

2. Bản chất:
- Giai cấp là kết quả của sự phân hóa xã hội do có sự đối lập giữa họ về địa vị
trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
- Trong xã hội, giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì đồng
thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà
nước và trở thành giai cấp thống trị xã hội.

- Giai cấp không chỉ là khái niệm của khoa học chính trị mà còn là khái niệm phản
ánh mối quan hệ khách quan giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị của xã hội;
phản ánh mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa các tập đoàn người trong một điều
kiện lịch sử nhất định. Đó là mối quan hệ không chỉ có sự khác biệt mà còn có tính
chất đối lập của họ trên phương diện kinh tế và chính trị. Từ đó cho thấy, việc phân
tích các vấn đề về kết cấu chính trị cần phải gắn liền với việc phân tích kết cấu
kinh tế của xã hội theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Cần phân biệt khái niệm giai cấp với khái niệm tầng lớp xã hội. Khái niệm tầng lớp
xã hội dùng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong
cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó hoặc


chỉ những nhóm người ngoài kết cấu giai cấp trong một xã hội nhất định (công
chức, trí thức, tiểu nông).
Câu 12: Quan niệm của triết học Mác – Lenin về bản chất con người. Ý nghĩa
của vấn đề này đối với việc phát triển con người Việt Nam hiện nay.
Bản chất con người:
Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các
nhà triết học tiền bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên
tắc thế giới quan của CNDVBC, Mác khẳng định: " Bản chất con người không
phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực
của nó, quan niệm hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai
mặt trong bản chất con người là: mặt sinh học và mặt xã hội.

+ Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không
phải chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình
phát triển của nó.
+ Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả
phát triển lâu dài của thế giới vật chất.
+ Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người
mang tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã
hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của
con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội.
+ Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động,
giao tiếp trong đời sống xã hội.
Ý nghĩa của vấn đề này đối với việc phát triển con người Việt Nam:
+ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử:
+ Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra
các công cụ lao động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người.
+ Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải
biến thế giới, bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới
vật chất, cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển của lịch sử,


con người trở thành chủ thể của lịch sử. Bởi vì, con người là nhân tố quyết định
đến sự phát triển của lịch sử.
+ Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người
làm nên. Để phát huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội
dung sau:
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính
sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao
động, nâng cao tay nghề.

- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người
và lợi ích của cả cộng đồng.
- Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi
ích vật chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của
nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn
lực con người là cơ bản nhất của sự nghiệp CNH-HĐH.(coi con người là trung tâm
của sự phát triển xã hội).ản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội".
THE END
CHÚC CÁC BẠN ÔN TẬP TỐT
-----------------------------------Thanks for reading -----------------------------------------


×