Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Nhập Khẩu Hàng Gia Dụng Của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Và Kinh Doanh Thương Mại Hanel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.25 KB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG GIA
DỤNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ
KINH DOANH THƯƠNG MẠI HANEL

Họ và tên sinh viên
: Dương Ngọc Ánh
Mã sinh viên
: 1111110516
Lớp
: Anh 6 - KTĐN
Khóa
: 50
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Phạm Duy Liên


MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Số liệu của Tổng cục hải quan về nhập khẩu hàng điện gia dụng và linh
kiện năm 2014
Bảng 2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty từ năm 2010 đến năm 2014


Bảng 2.3 Lực lượng lao động theo trình độ chuyên môn
Bảng 2.4 Kim ngạch nhập khẩu hàng điện gia dụng từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.5 Các thị trường nhập khẩu chính của Công ty Hanel trading từ năm 2010
đến năm 2014
Bảng 2.6 Kim ngạch nhập khẩu hàng gia dụng phân theo nhóm mặt hàng
Bảng 2.7 Lợi nhuận kinh doanh nhập khẩu hàng gia dụng từ năm 2010 đến năm
2014
Bảng 2.8 Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.9 Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.10 Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.11 Tỷ suất ngoại tệ hàng gia dụng nhập khẩu từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.12 Hiệu suất sinh lợi của vốn kinh doanh sử dụng cho hoạt động nhập khẩu
Bảng 2.13 Số vòng quay vốn lưu động từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.14 Mức sinh lợi của một lao động khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu


DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ HÌNH VẼ
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty Hanel Trading
Hình 2.1 Kim ngạch nhập khẩu hàng điện gia dụng từ năm 2010 đến năm 2014
Hình 2.2 Cơ cấu thị trường nhập khẩu theo kim ngạch nhập khẩu
Hình 2.3 Cơ cấu mặt hàng gia dụng nhập khẩu
Hình 2.4 Lợi nhuận nhập khẩu hàng gia dụng từ năm 2010 đến năm 2014
Hình 2.5 Mức sinh lợi của một lao động khi tham gia hoạt động nhập khẩu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.

5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.

CP
DT
GVHB
HĐTC
HSSL

LN
NK
QLDN
SVQVLĐ
TNHH
TSLN
TSNT
TT
VKD
VLĐ


: Chi phí
: Doanh thu
: Giá vốn hàng bán
: Hoạt động tài chính
: Hiệu suất sinh lợi
: Lao động
: Lợi nhuận
: Nhập khẩu
: Quản lý doanh nghiệp
: Số vòng quay vốn lưu động
: Trách nhiệm hữu hạn
: Tỷ suất lợi nhuận
: Tỷ suất ngoại tệ
: Trung tâm
: Vốn kinh doanh
: Vốn lưu động


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nền kinh tế càng phát
triển thì môi trường cạnh tranh càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Để tồn tại và phát
triển được đòi hỏi các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh và thắng thế trong
cạnh tranh, muốn như thế doanh nghiệp phải nâng cao được hiệu quả. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế toàn cầu, thì các doanh
nghiệp muốn tham gia vào quá trình hội nhập, cụ thể là các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng, mặc dù có nhiều

cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức. Cũng như các
hoạt động kinh doanh khác, kinh doanh nhập khẩu hàng hóa muốn phát triển được
cũng cần phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đó không những là cơ sở cho sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, mà còn là yếu tố thúc đẩy sự cạnh tranh trong
kinh doanh, làm sao để có thể sự dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp một
cách hợp lý nhất để tối đa hóa lợi nhuận. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, nâng cao
hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là yêu cầu cấp thiết, là mục tiêu của các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Mặc dù việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu có vai trò quan trọng
đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhưng hiện nay không ít các doanh
nghiệp đang gặp khó khăn trong việc xác định hiệu quả hoạt động nhập khẩu và lựa
chọn con đường để nâng cao hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp mình. Thêm vào
đó, hoạt động nhập khẩu hiện nay đang bị hạn chế do các chính sách khuyến khích
sử dụng sản phẩm nội địa, vậy làm thế nào để các doanh nghiệp đang kinh doanh
trong lĩnh vực này có thể tiếp tục hoạt động hiệu quả? Xuất phát từ thực tiễn này,
việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu hàng gia dụng của Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh thương
mại Hanel” là cần thiết.


7

2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đã được nhiều nhà kinh tế
nghiên cứu và phân tích. TS Nguyễn Thanh Bình – giảng viên Học viện Ngân hàng
với đề tài “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam” đã đề
cập tới việc nâng cao hiệu quả kinh doanh như chìa khóa cho các doanh nghiệp bán
lẻ tại Việt Nam hiện hay khi đứng trước những khó khăn thách thức trên thị trường
cạnh tranh khốc liệt. GS.TS Đỗ Hoàng Toàn – Nguyên Giảng viên trường Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội trong “Những vấn đề cơ bản trong quản trị doanh nghiệp”

đề cập đến việc lựa chọn những phương án kinh doanh mang lại hiệu quả tốt nhất là
yếu tố quan trọng trong quá trình quản trị doanh nghiệp, giúp các nhà quản trị
doanh nghiệp xác định được hướng đi đúng đắn trong việc điều hành hoạt động
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có nhiều bài nghiên cứu viết về tình hình hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu tại một số doanh nghiệp nhưng chưa có nghiên cứu cụ thể về thực
trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu mặt hàng gia dụng tại
Công ty cổ phần kinh doanh và đầu tư thương mại Hanel.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu hàng gia dụng của Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh thương mại
Hanel” nhằm mục tiêu làm rõ cơ sở khoa học của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
của doanh nghiệp, đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng gia
dụng tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh thương mại Hanel, từ đó đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu hàng điện gia dụng tại Công ty
Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh thương mại Hanel.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài khóa luận này hướng tới đối tượng nghiên cứu là tình hình hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu hàng gia dụng, qua đó đánh giá hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu hàng điện gia dụng tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh
thương mại Hanel.


8

Để làm sáng rõ nội dung nghiên cứu về thực trạng và đề ra giải pháp nâng
cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh
thương mại Hanel, người viết khóa luận này sử dụng số liệu hoạt động kinh doanh
nhập khẩu hàng gia dụng từ năm 2010 đến năm 2014 do Công ty cổ phần Đầu tư và
Kinh doanh thương mại Hanel cung cấp. Bên cạnh đó người viết cũng sử dụng các
số liệu của Tổng cục Hải quan cho mục đích phân tích, so sánh để làm rõ nội dung

nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để phân tích thấu đáo nội dung đề tài, người viết đã sử dụng kết hợp phương
pháp đánh giá, phân tích định tính, định lượng, phương pháp thống kê, tổng hợp số
liệu, thu thập và xử lý thông tin, bao gồm thông tin sơ cấp và thứ cấp để đánh giá
tình hình hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh
thương mại Hanel.
6. Kết cấu của Khóa luận tốt nghiệp
Ngoài mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ, danh mục từ viết tắt,
lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài khóa luận này bao gồm ba
chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng gia dụng của Công
ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh thương mại Hanel.
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu của Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh thương mại Hanel trong thời
gian tới.
Thông qua ba chương này, bài khóa luận hướng tới phân tích đánh giá vai trò
quan trọng của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, thấy được tình hình hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu hàng hóa tại một doanh nghiệp cụ thể, đồng thời từ đó đề xuất
những giải pháp có thể giúp doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh doanh của
mình trong lĩnh vực này.


9

Với nhận thức và khả năng còn nhiều hạn chế, bài khóa luận này không tránh
khỏi những thiếu sót. Người viết khóa luận này mong nhận được những ý kiến đóng
góp của thầy, cô giáo để bài viết ngày càng hoàn thiện hơn. Người viết cũng xin gửi
lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS Phạm Duy Liên, giáo viên hướng dẫn thực hiện

Khóa luận tốt nghiệp và các phòng ban tại Công ty cổ phần đầu tư và Kinh doanh
thương mại Hanel đã giúp đỡ để người viết hoàn thành bài khóa luận này.

Hà Nội, tháng 5, năm 2015


10

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.

Khái quát về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu

1.1.1. Khái niệm

Xét trên bình diện các quan điểm kinh tế học khác nhau có nhiều ý kiến khác
nhau về hiệu quả kinh doanh.
Nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith, cho rằng: “Hiệu quả là kết quả đạt
được trong hoạt động kinh tế, doanh thu tiêu thụ hàng hoá” (TS Nguyễn Năng Phúc,
2003, trang 201). Theo quan điểm này Adam Smith đã đồng nhất hiệu quả với chỉ
tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh. Tức là việc tăng chi phí sản xuất hay mở
rộng sử dụng các nguồn lực sản xuất mà làm tăng kết quả kinh doanh thì cũng được
coi là tăng hiệu quả. Nếu sử dụng hai mức chi phí khác nhau mà đều cho ra một kết
quả kinh doanh thì theo quan điểm này đều được xem là đạt được hiệu quả. Quan
điểm này chỉ áp dụng được khi kết quả sản xuất kinh doanh tăng với tốc độ nhanh
hơn tốc độ tăng của chi phí đầu vào của sản xuất.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỉ lệ giữa phần
tăng thêm của phần kết quả và phần tăng thêm của chi phí” (GS.TS Đặng Đình Đào,
2003, trang 193). Quan điểm này đã xác định hiệu quả trên cơ sở so sánh tương đối

giữa kết quả đạt được với phần chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Tuy vậy quan
điểm này không tính đến phần chi phí và phần kết quả ban đầu mà chỉ xem xét hiệu
quả trên cơ sở phần doanh thu tăng thêm và phần chi phí tăng thêm. Do đó không
đánh giá được toàn bộ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mà chỉ thấy được một phần hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số
giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó” (GS.TS Ngô Đình Giao, 1997,
trang 345). Quan điểm này đã chỉ ra được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh
tế, phản ánh thông qua việc gắn kết kết quả và chi phí. Trong đó, hiệu quả là sự


11

phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất kinh doanh. Mặc dù vậy, để phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực thì một trong hai yếu tố hoặc kết quả kinh doanh
hoặc chi phí phải được cố định, tuy nhiên trong thực tế các yếu tố này luôn biến đổi
và vận động chứ không ở trạng thái tĩnh.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu
cầu quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tư cách là chỉ
tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp” (GS.TS Hoàng Đức
Thân, 2003, trang 238). Quan điểm này có ưu điểm là quan tâm đến hiệu quả xã hội,
cụ thể là tới mức sống của người lao động. Nhưng khó khăn ở đây là việc sử dụng
các chỉ tiêu để đánh giá như thế nào là thỏa mãn mức sống rất đa dạng và phong
phú, nhiều hình nhiều vẻ chứ không chỉ đơn thuần được phản ánh trong các chỉ tiêu
tiêu dùng.
Quan điểm thứ năm cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế-xã hội
tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các quyết định trong quá trình hoạt động
thực tiễn ở mọi lĩnh vực kinh doanh và tại mọi thời điểm. Bất kỳ các quyết định cần
đạt được phương án tốt nhất trong điều kiện cho phép, giải pháp thực hiện có tính
cân nhắc, tính toán chính xác phù hợp với sự tất yếu của quy luật khách quan trong

từng điều kiện cụ thể”, (GS.TS Đỗ Hoàng Toàn, 1994, trang 209). Theo quan điểm
này thì hiệu quả được hiểu là một chỉ tiêu để dựa vào đó đưa ra những quyết định sử
dụng một cách hợp lý các nguồn lực, sao cho kết quả đạt được là tốt nhất.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát “Hiệu quả kinh doanh
là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn...)
để đạt được mục tiêu xác định” (GS.TS Ngô Đình Giao, 1997, trang 408). Trình độ
sử dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo
ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra ở mức độ
nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng các công thức chung nhất sau
đây:


12

(Nguồn: Ngô Đình Giao, 1997, trang 408)

Trong đó:
H: Hiệu quả kinh doanh
K: Kết quả đạt được
C: Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó.
Theo như công thức trên thì mức sinh lời của các yếu tố đầu vào được tính
cho tổng số và riêng cho giá trị gia tăng. Công thức này cho biết một đơn vị đầu vào
được sử dụng cho bao nhiêu kết quả đầu ra. Như vậy từ công thức trên có thể thấy
được mối liên hệ cũng như sự khác nhau trong hai khái niệm “Hiệu quả” và “kết
quả”. Kết quả đạt được trong kinh doanh chỉ phản ánh đầu ra của việc sử dụng các
nguồn lực và chi phí đầu vào, nhưng không thể hiện được chi phí và các nguồn lực
được sử dụng như thế nào. Trong khi đó, việc đánh giá xem một doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả không rõ ràng phải nhìn tổng thể tất cả các yếu tố có ảnh hưởng
đến quá trình sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác là muốn đánh giá được hiệu
quả kinh doanh phải xem xét đến chất lượng của hoạt động kinh doanh. Hơn nữa,

kết quả đạt được trong kinh doanh chỉ đáp ứng được phần nào tiêu dùng của cá
nhân và xã hội, trong khi nhu cầu tiêu dùng của con người bao giờ cũng có xu
hướng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm được nhiều nhất. Cho nên kết quả kinh
doanh chỉ là một bộ phận để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế - xã hội. Về mặt kinh
tế nó phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Đó là một đại lượng so sánh giữa đầu vào và đầu ra, giữa chi phí kinh
doanh bỏ ra và kết quả kinh doanh thu được. Về mặt xã hội, chi phí phải xem xét là
chi phí xã hội do quá trình sản xuất kinh doanh có sự kết hợp của các yếu tố lao
động, tư kiệu lao động và đối tượng lao động theo một tương quan về cả lượng và
chất trong quá trình kinh doanh để tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn tiêu dùng.


13

Tóm lại, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động kinh
doanh, trình độ nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ
thuộc vào tốc độ biến động của từng nhân tố. Tuy vậy, có một vấn đề trước hết
được đặt ra là doanh nghiệp có đạt được mục tiêu kinh doanh đã đề ra không? Nếu
như không đạt được mục tiêu kinh doanh thì không thể nói đến hiệu quả kinh doanh
và để đạt được mục tiêu kinh doanh thì cần sử dụng nguồn lực như thế nào? Không
phải lúc nào muốn đạt được mục tiêu kinh doanh cũng phải giảm chi phí mà sử
dụng và phân bổ chi phí đó như thế nào. Các loại chi phí có thể giảm được thì việc
giảm chi phí là cần thiết tuy nhiên cũng có những loại chi phí cần phải tăng lên vì
việc tăng chi phí sẽ giúp tăng kết quả đầu ra và giúp doanh nghiệp hoàn thành mục
tiêu. Như vậy trước khi đánh giá hiệu quả kinh doanh thì cần xem xét việc đạt được
mục tiêu kinh doanh. Đánh giá hiệu quả kinh doanh thực chất là đánh giá xem mức
độ hoàn thành mục tiêu kinh doanh là bao nhiêu so với nguồn lực bỏ ra trong quá
trình kinh doanh.

1.1.2

Đặc điểm

Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phức tạp và khó đánh giá. Theo như công
thức xác định hiệu quả kinh doanh thì đại lượng này được xác định dựa trên kết quả
kinh doanh đạt được và chi phí kinh doanh bỏ ra mà trong khi đó, hai yếu tố này
đều khó xác định.
Về kết quả, không phải lúc nào cũng có thể xác định chính xác kết quả kinh
doanh mà doanh nghiệp đạt được. Yếu tố này chỉ có thể xác định một cách tương
đối do kết quả kinh doanh cũng chịu sự tác động của các yếu tố khác. Ví dụ như
những thay đổi trên thị trường của thước đo giá trị đồng tiền sẽ ảnh hưởng tới việc
xác định kết quả kinh doanh. Ví dụ như kết quả thu được của hoạt động kinh doanh
chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị đồng tiền - với những thay đổi trên thị trường
của nó. Doanh thu đạt được trong thời kỳ lạm phát so với bình thường thì rất khó để
xác định liệu với doanh thu như vậy thì doanh nghiệp có đạt hiệu quả không.
Cũng tương tự như vậy với việc xác định chi phí bỏ ra trong quá trình kinh
doanh vì chi phí cũng chịu ảnh hưởng của đồng tiền. Hơn thế nữa có thể một chi phí


14

bỏ ra nhưng nó liên quan đến nhiều quá trình trong hoạt động kinh doanh thì việc
bổ sung chi phí cho từng đối tượng chỉ là tương đối. Ngoài ra, không phải chi phí
nào cũng có thể tính toán một cách rõ ràng và trực tiếp vì để tạo ra kết quả cho
doanh nghiệp thì phải sử dụng nhiều chi phí gián tiếp khác như: Chi phí đào tạo
nhân lực, chi phí xử lý, cải tạo môi trường, chi phí chăm sóc sức khoẻ cho người lao
động, chi phí ngoại ứng... có tác động không nhỏ đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp, các chi phí đó rất khó tính toán trong quá trình xem xét hiệu quả kinh doanh
Vì vậy, việc xác định hiệu quả kinh doanh chỉ có thể được đánh giá một cách

tương đối với sự thay đổi của các yếu tố thành phần. Tuy vậy cần phải xác định sao
cho kết quả đạt được là gần chính xác và hợp lý nhất.
1.1.3
1.1.3.1

Phân loại
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh

Việc xác định hiệu quả nhằm thể hiện và đánh giá việc sử dụng các dạng chi
phí khác nhau trong hoạt động kinh doanh. Việc xác định hiệu quả nhằm hai mục
đích cơ bản:
Một là, thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí khác nhau trong
hoạt động kinh doanh. Thông qua việc xem xét hiệu quả có thể thấy được việc sử
dụng các chi phí đầu vào có hợp lý có được kết quả đầu ra tương xứng hay không.
Hai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc
thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó. Khi đứng trước nhiều phương án kinh doanh
rõ ràng cần xem xét đánh giá xem phương án nào có khả năng đạt được mục tiêu đề
ra và hơn thế nữa lại có thể tiết kiệm tối đa chi phí và các nguồn lực đầu vào. Xác
định hiệu quả kinh doanh đạt được trong mối phương ans sẽ giúp cho việc đưa ra
quyết định lựa chọn chính xác hơn.
Từ hai mục đích trên mà người ta phân chia hiệu quả kinh doanh ra làm hai
loại:


15

Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án kinh
doanh cụ thể bằng cánh xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Tức
là hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra, chênh lệch giữa kết quả và chi phí
càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại. Hiệu quả tuyệt đối là hiệu

quả được xem xét về mặt định lượng.
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cánh so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của các phương án với nhau, hay chính là mức chênh lệch về hiệu quả
tuyệt đối của các phương án. Để thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và các mục
tiêu khác, doanh nghiệp phải lựa chọn phương án nào có thể thực hiện được điều
đó. Với tư cách là một công cụ quản trị kinh doanh, hiệu quả kinh doanh không chỉ
được sử dụng để kiểm tra, đánh giá và phân tích trình độ sử dụng các nguồn lực đầu
vào mà còn được sử dụng để kiểm tra đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào
trong phạm vi doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành doanh nghiệp. Nói
cách khác, hiệu quả tương đối thể hiện trình độ và năng lực quản lý sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Giữa hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối mặc dù độc lập với nhau song
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và làm căn cứ cho nhau.
Trên cơ sở của hiệu quả tuyệt đối, người ta sẽ xác định được hiệu quả so sánh, từ
hiệu quả so sánh xác định được phương án tối ưu. Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu
quả tương đối được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối.
Chẳng hạn, việc so sánh mức chi phí của các phương án khác nhau để chọn ra
phương án có chi phí thấp nhất thực chất chỉ là sự so sánh mức chi phí của các
phương án chứ không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt đối của các phương
án.
1.1.3.2

Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả xã hội
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả được xác định ở phạm vi doanh nghiệp,

là kết quả thu được từ các hoạt động kinh doanh thương mại của từng doanh nghiệp.
Đó chính là lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình kinh doanh.


16


Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả được xem xét ở phạm vi xã hội, là sự
đóng góp của hoạt động kinh doanh vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu
kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách,
giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội là
mối quan hệ nhân quả và tác động qua lại lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ
có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiêp. Nếu như
mỗi doanh nghiệp đều hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì sẽ góp phần thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế. Ngược lại, nhờ có sự hiệu quả của bộ máy kinh tế thì
doanh nghiệp sẽ có cơ sở vững chắc để kinh doanh đạt kết quả cao. Đó chính là mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể. Tính
hiệu quả của nền kinh tế xuất phát từ chính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và một
nền kinh tế vận hành tốt là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và ngày
một phát triển.
Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp phải thường
xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo lợi ích riêng hài hoà với lợi
ích chung. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, với vai trò định hướng cho sự
phát triển của nền kinh tế cần có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi để doanh
nghiệp có thể hoạt động đạt hiệu quả cao nhất trong khả năng có thể của mình.
Trong quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu không những cần tính toán và đạt
được hiệu quả trong hoạt động của từng người, từng doanh nghiệp mà quan trọng
hơn còn phải tính toán và đạt được hiệu quả kinh tế xã hội đối với nền kinh tế quốc
dân. Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ
nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt
được trên cơ sở hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp. Tuy vậy có những doanh
nghiệp xuất nhập khẩu không đảm bảo được hiệu quả nhưng nền kinh tế vẫn thu
được hiệu quả. Tuy nhiên tình hình thua lỗ của doanh nghiệp nào đó chỉ có thể chấp
nhận được trong những thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan
mang lại. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã



17

hội vì đó là tiền đề và điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Nhưng
để doanh nghiệp quan tâm tới hiệu quả kinh tế xã hội thì nhà nước phải có những
chính sách đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích xã hội và lợi ích của doanh nghiệp và cá
nhân người lao động.
1.1.3.3

Hiệu quả chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng đều phải

trả lời được vấn đề then chốt đặt ra trong kinh doanh như: Kinh doanh cái gì? Kinh
doanh cho ai? Kinh doanh như thế nào? Trong đó, chi phí là là yếu tố cần thiết để
đánh giá và tính toán mức hiệu quả kinh doanh. Xét trên góc độ tính toán, có các chỉ
tiêu chi phí tổng hợp (mọi chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh)
và chi phí bộ phận (những hai phí cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó).
Mặc dù mỗi doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh với những điều kiện
riêng về chi phí và nguồn lực (tài nguyên, trình độ thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức,
quản lý lao động, quản lý kinh doanh) thì khi tham gia vào thị trường, doanh nghiệp
vẫn buộc phải tuân theo những quy luật riêng mà thị trường đặt ra. Một trong những
quy luật thị trường tác động rõ nét nhất đến các chủ thể của nền kinh tế là quy luật
giá trị. Dù các doanh nghiệp bằng khả năng của mình cung ứng cho xã hội với chi
phí cá biệt nhất định và mong muốn tiêu thụ hàng hóa của mình với số lượng nhiều
nhất, song thị trường chỉ chấp nhận mức hao phí trung bình xã hội cần thiết để sản
xuất ra một đơn vị hàng hóa sản phẩm. Bằng việc xác định giá cả thị trường cho
hàng hóa, quy luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt
khác nhau trên một mặt bằng chung.
Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung

của doanh nghiệp hay nền kinh tế quốc dân. Còn việc tính và phân tích hiệu quả của
các chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của những yếu tố nội bộ sản xuất kinh
doanh đến hiệu quả kinh tế nói chung. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh,
ngoài việc đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên thì cũng cần thiết
phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí hay nói cánh khác là đánh giá hiệu quả
của chi phí bộ phận.


18

1.2 Khái quát về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
1.2.1

Khái niệm

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thì hoạt động nhập khẩu là
một hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy bản chất của hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu cũng dựa trên nền tảng bản chất hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Như vậy, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là mức độ tiết kiệm chi phí sử
dụng cho hoạt động nhập khẩu và mức tăng hiệu quả kinh tế tính riêng cho hoạt
động nhập khẩu. Nói cách khác, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu phản ánh trình độ
sử dụng chi phí và nguồn lực trong hoạt động nhập khẩu để đạt được kết quả cao
nhất với chi phí thấp nhất.
Từ khái niệm trên có thể đưa ra công thức đánh giá hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu:
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 490)
Chỉ tiêu này biểu thị mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao nhiêu đơn vị
đầu ra. Tuy nhiên đặc điểm riêng của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu được thể hiện
ở chỗ kết quả hoạt động nhập khẩu là sự chênh lệch giữa chi phí ngoại tệ nhập khẩu

và giá trị nội địa của hàng nhập khẩu, còn chi phí nhập khẩu là tổng các chi phí về
hàng hóa kể từ khi hàng hóa đó kể từ khi hàng hóa đó đi từ nơi sản xuất đến khi
hàng hóa về đến cửa khẩu nước nhập khẩu và sẵn sàng giao cho người tiêu dùng.
Chi phí nhập khẩu cần được tính toán đúng và đủ vì đây là yếu tố có vai trò rất quan
trọng trong việc xác định hiệu quả tài chính của hoạt động nhập khẩu của một
doanh nghiệp. Nếu chi phí nhập khẩu không được tính toán một cách chính xác và
đầy đủ thì sẽ dẫn đến những sai lầm trong việc lựa chọn phương án kinh doanh của
doanh nghiệp.
Bản chất của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là nâng cao năng suất lao động
xã hội và tiết kiệm nguồn lực xã hội tính riêng cho hoạt động nhập khẩu. Đây là hai


19

mặt của mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập
khẩu, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật tăng
năng suất lao động và tiết kiệm thời gian. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc
sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của
xã hội đặt ra, yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm nguồn lực, để đạt
được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội
tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là phải đạt
kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí
tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm chi phí tạo ra nguồn lực
và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là
giá trị của sự hy sinh công việc lựa chọn nào đó đã bỏ qua hay là giá trị của sự hy
sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện hạot động kinh doanh này, chi phí cơ
hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy
rõ lợi ích kinh tế thực sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh
lựa chọn phương hướng kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng kinh doanh có hiệu quả

hơn.
1.2.2

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu

Nâng cao hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của bất kì doanh
nghiệp nào. Tuy nhiên trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc tính toán đến
hiệu quả kin doanh không được chú trọng hoặc có tính đến nhưng không được tính
toán bằng các chỉ tiêu chính xác. Trong cơ chế thị trường:
Thứ nhất, người tiêu dùng bao giờ cũng ở vị trí hàng đầu và hiệu quả kinh
doanh bao giờ cũng là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Mục đích của mỗi doanh
nghiệp là thỏa mãn các nhu cầu của xã hội nhưng làm thế nào để tồn tại và phát
triển thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tạo ra được lọi nhuận đủ dể trang trải các
chi phí, tái sản xuất mở rộng và phát triển. Lợi nhuận là một chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả kinh doanh, được tính bằng tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí. Rõ ràng muốn
có và tăng lợi nhuận buộc các doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả kinh doanh, tìm


20

mọi cách tăng tối đa doanh thu và giảm tối đa chi phí. Doanh nghiệp phải tính toán
đến một loạt cac yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả và phải coi trọng các quy luật của
nền kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị cung, cầu…
Thứ hai, đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế quốc dân về
hiệu quả kinh tế xã hội, có tính toán đến hiệu quả về mặt kinh tế xã hội thì mới góp
phần vào công cuộc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất
lao động, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân…
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng chung của tất cả các quốc gia
trên thế giới, tạo nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế. Nhưng muốn tận dụng
được những ưu thế của phân công lao động quốc tế đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cũng

như toàn bộ nền kinh tế phải nâng cao được sức mạnh cạnh tranh của hàng hóa và
dịch vụ để chiếm lĩnh được thị trường ngoài nước. muốn làm được điều này phải
tính toán đến hiệu quả kinh doanh để có thể thắng được cuộc cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Đặc biệt đối với hoàn cảnh nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật tích lũy hầu
như chưa có gì thì vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát huy nội lực của nền
kinh tế càng cần phải coi trọng hàng đầu để tăng tích lũy phục vụ công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
1.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh
nghiệp
1.3.1

Lợi nhuận kinh doanh nhập khẩu

Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết quả
cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề duy trì và tái sản xuất
mở rộng của doanh nghiệp.
Về mặt lượng, lợi nhuận là phần còn lại của doanh thu sau khi đã trừ đi tất cả
các chi phí cần thiết cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Công thức chung :


21

P=R–C
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 490)
Trong đó :
P : Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
R : Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
C : Tổng chi phí kinh doanh nhập khẩu.

C = Tổng chi phí nhập khẩu hàng hóa + Chi phí lưu thông, bán hàng + Thuế
1.3.2

1.3.2.1

Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn

Dv =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 491)
Trong đó :
DV : tỷ suất lợi nhuận theo vốn.
P : Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
V : Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, do đó nó có tác động
khuyến khích việc quản lý chặt chẽ vốn, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn trong
các khâu của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.2.2

Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu


22

DR =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 491)
Trong đó :
DR : Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu.
P : Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.

R : Tổng doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu cho biết lượng lợi nhuận thu được từ một
đồng doanh thu trong kỳ. Tức là cho biết một đồng vốn kinh doanh bỏ ra sẽ tạo ra
được bao nhiêu đồng vốn kinh doanh thu về.
1.3.2.3

Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí
DC =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 492)

Trong đó :
DC : Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí.
P : Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
C : Tổng chi phí cho hoat động kinh doanh nhập khẩu.
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí cho biết một đồng chi phí đưa vào hoạt động
kinh doanh nhập khẩu thì thu được bao nhiêu lợi nhuận thuần.
1.3.3

Doanh lợi nhập khẩu


23

DN =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 493)
Trong đó:
DN : Doanh lợi nhập khẩu.
R : Doanh thu bán hàng nhập khẩu.
CN: Tổng chi phí ngoại tệ nhập khẩu chuyển ra tiền Việt Nam theo tỷ giá của ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.

Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đồng Việt Nam bỏ ra cho hoạt động kinh doanh
nhập khẩu, doanh nghiệp nhận lại được bao nhiêu.
Nếu DN >100% : doanh nghiệp thu được lợi nhuận.
1.3.4

Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu

DNK =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 494)
Trong đó:
DNK : Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu.
RNK : Tổng doanh thu bán hàng nhập khẩu tính bằng bản tệ (VNĐ).
CNK : Tổng chi phí nhập khẩu hàng hóa tính bằng ngoại tệ nhập.
Chỉ tiêu này cho biết số lượng bản tệ mà doanh nghiệp thu được khi bỏ ra
một đồng ngoại tệ.


24

Nếu tỷ suất ngoại tệ lớn hơn tỷ giá hối đoái (do Ngân hàng Nhà nước quy
định), việc sử dụng ngoại tệ vào hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
được coi là có hiệu quả.
1.3.5


Hiệu quả sử dụng vốn

Hiệu suất sinh lợi của vốn :
Hiệu suất vốn kinh doanh =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 496)


Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ số
này càng cao tức là việc sử dụng một đồng vốn càng đem lại nhiều đồng doanh thu
thuần.


Tốc độ quay vòng vốn kinh doanh nhập khẩu :
Vòng quay vốn lưu động =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 497)
Số vòng quay vốn lưu động cho biết vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng

trong kỳ. Nếu số vòng quay càng nhiều càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và
ngược lại.


Kỳ luân chuyển bình quân vốn lưu động :
Kỳ luân chuyển bình quân vốn lưu động =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 497)
(Số ngày trong kỳ : nếu tính 1 năm là 360 ngày)
Kỳ luân chuyển bình quân của vốn lưu động là số ngày bình quân cần thiết

để vốn lưu động thực hiện được một vòng quay trong kỳ. Thời gian một vòng quay
càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng lớn.


25
1.3.6

Hiệu quả sử dụng lao động


Chỉ tiêu tính mức sinh lời bình quân của lao động:
Chỉ tiêu này cho biết với mỗi lao động tham gia vào hoạt động nhập



khẩu thì sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận từ hoạt động đó. Chỉ tiêu này
được tính bằng công thức:
Hiệu quả nhập khẩu =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 498)
Chỉ tiêu tính năng suất lao động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết với mỗi lao động tham gia vào hoạt động nhập



khẩu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu từ hoạt động đó. Chỉ tiêu này được
tính theo công thức:
Hiệu quả nhập khẩu =
(Nguồn: Đặng Đình Đào, 2012, trang 498)
1.4

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu:

1.4.1

Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp là những yếu tố thuộc về môi trường

kinh doanh, luật pháp. Đây là nhóm yếu tố khách quan, là những yếu tố mà doanh
nghiệp buộc phải tuân theo quy luật và làm cho mình phù hợp với nó.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu hàng hóa thì các yếu tố này bao

gồm:
1.4.1.1

Chế độ chính sách của Nhà nước về nhập khẩu
Đối với hoạt động nhập khẩu, Nhà nước luôn có những chính sách, quy định

chặt chẽ về hoạt động nhập khẩu. Cụ thể là
Hàng hóa nhập khẩu: Nhà nước đã đưa ra những quy định rất nghiêm ngặt về
các mặt hàng được phép nhập khẩu. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu,
doanh nghiệp cần phải xem xét xem hàng hóa nhập khẩu có nằm trong danh mục
nhóm mặt hàng được phép nhập khẩu không. Nếu nhập khẩu những mặt hàng nằm


×