Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán theo hướng tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 174 trang )

1

PHẦN GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng nói chung và chất lượng kiểm toán nói riêng luôn là mối quan tâm
hàng đầu của Doanh nghiệp kiểm toán, Người sử dụng báo cáo tài chính và các
Cơ quan chức năng. Hơn 30 năm qua, khá nhiều các Nhà nghiên cứu đã cố gắng
định nghĩa chất lượng kiểm toán, cách thức đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng và tác động của chất lượng đến năng lực cạnh tranh. Thế nhưng, cho đến nay,
các khái niệm này vẫn chưa thống nhất và nghiên cứu chủ đề này vẫn tiếp tục thực
hiện. Điều này là do chất lượng kiểm toán là một khái niệm đa diện, khó quan sát
và đo lường, phụ thuộc vào cảm nhận của Người sử dụng, trong khi đó sự cảm nhận
phụ thuộc rất nhiều vào sự xét đoán của từng cá nhân, do vậy khó có thể dẫn đến một
quan điểm thống nhất.
Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, là thành viên TPP, Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) và đang tiếp tục thực hiện lộ trình đã cam kết, theo đó, từ năm 2015 sẽ
mở cửa hoàn toàn các dịch vụ tài chính; Trong xu thế toàn cầu hóa, chất lượng
sản phẩm hàng hóa dịch vụ, năng lực cạnh tranh ngày càng có vai trò quan trọng trong
quá trình cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, sự thành công của các doanh nghiệp
kiểm toán Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng kiểm toán và khả năng
cạnh tranh trên thị trường để có thể đạt được vị thế cạnh tranh bền vững. Trong khi đó,
theo đánh giá của Bộ Tài chính (2011, 2015): “Quy mô và chất lượng kiểm toán
độc lập vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chất lượng kiểm toán
chưa đạt mong muốn và còn rất khó khăn để được khu vực và quốc tế thừa nhận, sự
cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp kiểm toán còn vì lợi ích cục bộ, chưa thông qua
cạnh tranh để nâng cao trình độ, kinh nghiệm chuyên môn, cũng như phát triển
nghề nghiệp kiểm toán, phát sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh như giảm
giá phí kiểm toán, dẫn đến chất lượng kiểm toán không đảm bảo”. Thực trạng này
đòi hỏi cần có nhiều nghiên cứu về chất lượng kiểm toán theo định hướng nâng cao
năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế ngày càng sâu rộng hiện nay.




2
Để đáp ứng yêu cầu trên, trên cơ sở khoảng trống lý thuyết trong các nghiên cứu
trước, yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế thế giới và thực trạng chất lượng
kiểm toán, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam. Tác giả
thực hiện nghiên cứu với đề tài: “Các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán
của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam theo định hướng tăng cường năng lực
cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế” nhằm góp phần làm sáng tỏ vấn đề
đang được quan tâm về mặt lý luận và đưa ra các gợi ý về mặt chính sách nhằm
giúp cho các cơ quan hữu quan, đề ra các giải pháp giải quyết các vấn đề cấp thiết
trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam một cách hữu hiệu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài là khám phá nhân tố chất lượng kiểm toán và đo lường
tác động của các nhân tố đến chất lượng kiểm toán và năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể:
 Khám phá và đo lường các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán của các
doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam.
 Khám phá và đo lường các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam.
 Khám phá và đo lường tác động của chất lượng kiểm toán đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được 3 mục tiêu nghiên cứu trên, các câu hỏi nghiên cứu sau giúp xác lập
quy trình nghiên cứu của Luận án:
Q1: Những nhân tố nào tác động đến chất lượng kiểm toán, những nhân tố nào
tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam trong giai đoạn
hội nhập kinh tế hiện nay?
Q2: Chất lượng kiểm toán có tác động đến năng lực cạnh tranh? Những nhân tố

chất lượng kiểm toán nào tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm toán
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay?
Q3: Mức độ tác động của các nhân tố đến chất lượng kiểm toán, mức độ tác động
của các nhân tố đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam trong
giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay?
Q4: Mức độ tác động của chất lượng kiểm toán đến năng lực cạnh tranh, Mức độ
tác động của các nhân tố chất lượng kiểm toán tác động đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay?


3
4. Đối tượng nghiên cứu
Từ các mục tiêu nghiên cứu trên, đối tượng nghiên cứu trong Luận án này là các
nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
kiểm toán Việt Nam theo định hướng tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện
hội nhập quốc tế.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện đối với các doanh nghiệp đang
hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán tại Việt Nam với đối tượng chủ yếu là các
doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam, không bao gồm các doanh nghiệp kiểm toán
nước ngoài như các công ty thuộc nhóm Big Four (KPMG, EY, PwC, Deloitte), các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (xem Phụ lục 1: Danh sách các
doanh nghiệp kiểm toán đang hoạt động tại Việt Nam). Phạm vi nghiên cứu cũng
không bao gồm các hoạt động kiểm toán như Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán nội bộ.
Nghiên cứu được thực hiện tập trung vào việc khám phá các nhân tố tác động đến
chất lượng kiểm toán, đo lường tác động của chất lượng kiểm toán đến năng lực
cạnh tranh theo định hướng tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
kiểm toán Việt Nam, không đi sâu nghiên cứu về năng lực cạnh tranh cũng như
tác động của năng lực cạnh tranh đến chất lượng kiểm toán.
Thời gian nghiên cứu: Được thực hiện từ tháng 10/2010 đến tháng 10/2015.

Địa bàn nghiên cứu và khảo sát được thực hiện tại các khu vực tập trung nhiều
doanh nghiệp kiểm toán với quy mô lớn, hoạt động kiểm toán đa dạng và phong phú
như: TP. Hà Nội, TP. Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Luận án này là phương pháp
nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
Trong đó, phương pháp nghiên cứu định tính nhằm mục tiêu khảo sát sự hình thành và
phát triển, thực trạng về chất lượng kiểm toán và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
kiểm toán Việt Nam cũng như khám phá các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán
và năng lực cạnh tranh, sự tác động của chất lượng kiểm toán nói chung và nhân tố
chất lượng kiểm toán nói riêng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kiểm toán
Việt Nam qua việc phân tích tài liệu từ các nghiên cứu trước, báo cáo tổng kết và
phương pháp phỏng vấn sâu. Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện ở


4
bước tiếp theo. Trong đó các nhân tố được xác định trong bước nghiên cứu định tính
sẽ được sử dụng trong nghiên cứu định lượng để đo lường mức độ tác động của từng
nhân tố đến chất lượng kiểm toán và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kiểm toán
Việt Nam. Quy trình nghiên cứu được thể hiện qua hình A: Quy trình nghiên cứu các
nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam theo
định hướng tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế”.
Vấn đề nghiên cứu
Các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán
của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam theo định hướng
tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế

Cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu lý thuyết nền tảng về chất lượng kiểm toán, năng lực cạnh tranh,
tác động của chất lượng kiểm toán đến năng lực cạnh tranh

và các nghiên cứu trước có liên quan

Nghiên cứu định tính
-

-

Thu thập dữ liệu từ Báo cáo tổng kết và tài liệu có liên quan đến mục tiêu
nghiên cứu
Xây dựng Đề cương thảo luận và thực hiện phỏng vấn sâu với Chuyên gia
Phân tích và thảo luận kết quả khảo sát, so với các nghiên cứu trước
Khám phá các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán, năng lực cạnh
tranh, tác động của chất lượng kiểm toán và các nhân tố chất lượng kiểm toán
đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam làm cơ sở
cho bước nghiên cứu định lượng
Kiểm tra kết quả nghiên cứu định tính bằng phương pháp thống kê

Nghiên cứu định lượng
-

Thiết kế Bảng câu hỏi khảo sát và khảo sát thử
Xác định đối tượng khảo sát, phương pháp chọn mẫu, kích thước mẫu
Gửi Phiếu khảo sát và nhận kết quả trả lời
Làm sạch dữ liệu và xử lý dữ liệu
Đánh giá độ tin cậy, kiểm định chất lượng thang đo (Cronbach’s Alpha),
phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Đo lường mức độ tác động của các nhân tố qua mô hình hồi quy (MRA)
Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình

Bàn luận và đề xuất quan điểm, định hướng nâng cao chất lượng kiểm toán,

tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế
-

-

Bàn luận về kết quả nghiên cứu về thực trạng, đánh giá chất lượng kiểm toán,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam
Bàn luận về kết quả nghiên cứu định tính và đưa ra quan điểm định hướng liên
quan đến chất lượng kiểm toán và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm
toán Việt Nam
Bàn luận về kết quả nghiên cứu định lượng và đưa ra quan điểm định hướng
liên quan đến chất lượng kiểm toán và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
kiểm toán Việt Nam

Hình A: Quy trình nghiên cứu các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán của
doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam
theo định hướng tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế


5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
 Ý nghĩa khoa học
Trên cơ sở nghiên cứu các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán, năng lực
cạnh tranh của các nghiên cứu trước và đặc biệt là trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam,
Luận án đã khám phá các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán, năng lực cạnh tranh,
các nhân tố chất lượng kiểm toán tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
kiểm toán Việt Nam và chỉ ra mức độ cũng như thứ tự tác động của các nhân tố chất lượng
kiểm toán có tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam.
 Ý nghĩa thực tiễn

Nhờ vào việc khám phá và chỉ ra các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán,
năng lực cạnh tranh, tác động của các nhân tố chất lượng kiểm toán đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam một cách có hệ thống mà Luận án có thể là
tư liệu tham khảo cho các tổ chức và cá nhân nghiên cứu về hoạt động kiểm toán
độc lập ở Việt Nam.
8. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Giới thiệu, Luận án được chia thành 5 chương được trình bày theo
thứ tự với các nội dung chính như sau:
Phần Giới thiệu: Trình bày sự cần thiết của nghiên cứu, mục tiêu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án.
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu trước.
Chương này trình bày tổng quan và phân tích đánh giá các nghiên cứu đã thực hiện
về các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
kiểm toán; Kết quả đạt được từ những nghiên cứu trước và những vấn đề tiếp tục
nghiên cứu. Từ đó chỉ ra khoảng trống lý thuyết mà Luận án sẽ tập trung giải quyết.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán của
doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam theo định hướng tăng cường năng lực cạnh tranh
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Trong Chương này trình bày một số vấn đề chung về kiểm toán, chất lượng
kiểm toán, năng lực cạnh tranh, đồng thời giới thiệu các lý thuyết có liên quan được
dùng làm nền tảng cho việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán
và năng lực cạnh tranh. Qua cơ sở lý thuyết đã được nghiên cứu, trong Chương này sẽ


6
đưa ra định nghĩa về chất lượng kiểm toán, năng lực cạnh tranh, thang đo chất lượng
kiểm toán, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam và mô hình
nghiên cứu được sử dụng trong Luận án.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Trong Chương này trình bày phương pháp nghiên cứu, quy trình nghiên cứu, các

bước thực hiện nghiên cứu, nguồn dữ liệu, phương pháp chọn mẫu, quy trình thu thập,
phân tích và xử lý dữ liệu theo từng giai đoạn nghiên cứu định tính và định lượng.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận.
Chương này trình bày kết quả của việc nghiên cứu: Thực trạng chất lượng
kiểm toán và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam; Kết quả
nghiên cứu định tính, định lượng và đưa ra các bàn luận về kết quả đã đạt được trong
các bước nghiên cứu định tính và định lượng.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.
Chương này đưa ra các kết luận đã đúc kết được từ quá trình và kết quả nghiên
cứu, qua đó, đưa ra các quan điểm định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng kiểm toán, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kiểm
toán Việt Nam. Trong chương này cũng nêu rõ ý nghĩa khoa học thực tiễn, hạn chế
của nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.


7

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Chương này thực hiện việc hệ thống hóa những nghiên cứu đã thực hiện có
liên quan đến các nhân tố tác động đến CLKT, NLCT và tác động của CLKT đến
NLCT của các DNKT trong thời gian qua ở nước ngoài và tại Việt Nam, phân tích,
đánh giá những gì các Nhà nghiên cứu trước đã thực hiện về các nhân tố tác động đến
CLKT và tác động của CLKT đến NLCT của các DNKT nhằm xác định khoảng trống
lý thuyết và các vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực này.
1.1. Tổng quan và phân tích đánh giá các nghiên cứu đã thực hiện về nhân tố
tác động đến CLKT và NLCT của DNKT
1.1.1. Các nghiên cứu đã thực hiện về nhân tố tác động đến CLKT
Thuật ngữ "Chất lượng kiểm toán" có nghĩa khác nhau đối với những người
khác nhau. Khác với các sản phẩm, dịch vụ của các hoạt động khác, CLKT không
dễ dàng quan sát hay kiểm tra, đánh giá. Trong thực tế, thường có một khoảng cách

nhất định về quan điểm hay mức độ thỏa mãn giữa Cơ quan quản lý, Người sử dụng và
KTV đối với CLKT; Epstein & Geiger (1994) đã thực hiện khảo sát những Người
sử dụng BCTC, kết quả cho thấy 70% các Nhà đầu tư tin rằng cuộc kiểm toán phải
cung cấp bảo đảm tuyệt đối rằng không có sai sót trọng yếu hoặc gian lận trong BCTC.
Trong khi đó, KTV có thể suy nghĩ về CLKT theo chiều hướng hạn chế tối đa sự
không hài lòng của khách hàng, giảm rủi ro kinh doanh nhằm tránh kiện tụng, hạn chế
thiệt hại đến danh tiếng của DNKT (Wooten, 2003). CLKT là một khái niệm phức tạp
và đa diện; Do đó, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện trên các khía cạnh khác nhau,
dựa trên các quan điểm về CLKT khác nhau, các Nhà khoa học đã tiến hành các
nghiên cứu thực nghiệm nhằm xác định các nhân tố tác động đến CLKT cũng như các
biện pháp đo lường CLKT.
1.1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài về các nhân tố tác động đến CLKT
(1) Các quan điểm về CLKT
Do CLKT khó quan sát và khó đánh giá trực tiếp, tùy thuộc vào hướng tiếp cận,
có nhiều quan điểm khác nhau về CLKT. Tuy nhiên, các Nhà nghiên cứu trên thế giới
về CLKT chủ yếu tập trung vào 3 quan điểm: Quan điểm CLKT là mức độ đảm bảo
khả năng phát hiện và báo cáo sai sót trên BCTC; Quan điểm CLKT là mức độ
tuân thủ CMKiT và Quan điểm kết hợp mức độ tuân thủ chuẩn mực và mức độ


8
đảm bảo về khả năng phát hiện và báo cáo sai sót trọng yếu trên BCTC. Các
quan điểm này được các Nhà khoa học dùng làm định hướng để đo lường CLKT và
nghiên cứu về các nhân tố tác động đến CLKT.
 Quan điểm về CLKT, dưới góc độ mức độ đảm bảo về khả năng phát hiện
và báo cáo sai sót trọng yếu trên BCTC
Từ thập niên 1980, quan điểm CLKT là khả năng phát hiện và báo cáo các sai sót
trọng yếu trên BCTC được coi là quan điểm phổ biến của các Nhà nghiên cứu về
CLKT. Quan điểm này xuất phát từ định nghĩa của DeAngelo (1981): “CLKT là xác suất
của thị trường về khả năng một KTV phát hiện và báo cáo sai sót đó”. Quan điểm này

đã được một số Nhà nghiên cứu áp dụng để phát triển các vấn đề lý luận về CLKT.
Theo quan điểm này, một cuộc kiểm toán có chất lượng khi KTV cam kết đảm bảo
về khả năng phát hiện và báo cáo các sai sót trọng yếu trong các BCTC. Nói cách khác,
vì mục tiêu của một cuộc kiểm toán để đảm bảo tính chính xác của BCTC, CLKT là
xác suất mà BCTC không chứa đựng sai sót trọng yếu, nghĩa là độ tin cậy của việc
kiểm toán BCTC phản ánh CLKT. Người sử dụng các BCTC đã được kiểm toán có thể
tin tưởng vào kết quả kiểm toán do đã thỏa mãn mong muốn của họ là các thông tin
được kiểm toán là đáng tin cậy. Quan điểm này cho thấy có sự kết nối song song giữa
CLKT với chất lượng BCTC. Một BCTC mà tất cả các vi phạm về kế toán đã được
phát hiện và báo cáo là đại diện cho CLKT cao. Các Nhà nghiên cứu đại diện cho
quan điểm này là: Titman & Trueman (1986): “Mức độ chính xác của thông tin
cung cấp cho Nhà đầu tư”; Palmrose (1988): “Khả năng KTV không phát hiện và
báo cáo sai sót”; Beatty (1989): “Tính trung thực của thông tin tài chính được trình bày
trên BCTC sau khi được kiểm toán”; Knechel (2009): “CLKT là đạt được mức độ đảm bảo”;
Defond & Zhang (2014): “Cung cấp CLKT cao đảm bảo BCTC chất lượng cao”.
 Quan điểm về CLKT - Theo mức độ tuân thủ CMKiT
Đầu thập niên 1990, từ ảnh hưởng các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính
khu vực và phát sinh các vụ bê bối về kiểm toán, một số Nhà nghiên cứu đã xem xét
lại hướng tiếp cận của DeAngelo và cho rằng định nghĩa của DeAngelo không nắm bắt
đầy đủ các vai trò tiềm ẩn sự xung đột của nhiều đối tượng trong thị trường kiểm toán.
Hơn nữa, định nghĩa này giới hạn trong tính chuyên môn, chưa xem xét khía cạnh về
tính độc lập và ảnh hưởng của khách hàng đến ý kiến của KTV (Sutton, 1993).
Tritschler (2013), cho rằng CLKT theo định nghĩa của DeAngelo (1981) là không thể


9
quan sát, đo lường một cách đơn lẻ. Do những khó khăn trong việc quan sát quá trình
kiểm toán, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu các sản phẩm thay
thế cho CLKT bằng việc sử dụng một phương pháp đánh giá gián tiếp, với sự trợ giúp
của các chỉ số qua các số liệu thống kê từ những tiêu thức đại diện được tiếp nhận bởi

thị trường và có liên quan với đặc điểm nội tại của hai khái niệm trong định nghĩa của
DeAngelo (Venkataraman & cộng sự, 2008; Krishnan & Schauer, 2000; Kaplan,
1995). Trong khi đó phương pháp đánh giá gián tiếp lại có một số hạn chế. Nhiều
Nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh sự hiện diện của những thất bại như nguy cơ lựa chọn
bất lợi (Watts & Zimmerman, 1981; Behn & cộng sự, 1997) và thực nghiệm với các
tiêu chí đo lường đơn giản dẫn đến kết quả trái ngược nhau. Mới đây, bê bối tài chính
(đặc biệt là các vụ Enron) và sự sụp đổ của Arthur Andersen đã khẳng định sự bất cập
của phương pháp đánh giá gián tiếp trong việc đánh giá CLKT, kết quả nghiên cứu của
Krishnan & cộng sự (2003) đã khẳng định rằng các tiêu chí của Big Four không thể
giải thích vụ việc của Enron. Do đó, các Nhà nghiên cứu đã hướng trọng tâm
nghiên cứu sang việc đánh giá CLKT bằng cách so sánh mức độ thực hiện công việc
kiểm toán so với các CMKiT.
Theo Copley & Doucet (1993), KTV thực hiện công việc với chất lượng cao nếu
họ tuân thủ hoàn toàn các CMKiT trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán. Theo
quan điểm này, mức độ phù hợp với CMKiT phản ánh mức độ CLKT. Tiêu biểu cho
quan điểm này là McConnell & Banks (1998), Aldhizer & cộng sự (1995), Krishnan &
Schauer (2001). Dựa trên quan điểm này các Nhà nghiên cứu khác như Niemann (2004),
Tritschler (2013) cũng đã sử dụng kết quả kiểm tra của PCAOB, IDW, EC cũng như
các vụ kiện chống lại KTV trong việc xem xét mức độ tuân thủ các CMKiT để
nghiên cứu các chỉ số đánh giá CLKT.
 Quan điểm CLKT theo mức độ tuân thủ chuẩn mực và mức độ đảm bảo
khả năng phát hiện và báo cáo sai sót trên BCTC
Gần đây nền kinh tế toàn cầu cần phải đối mặt ngày càng nhiều với những
thách thức lớn liên quan đến thị trường tài chính và đã tạo nên một hệ quả làm
gia tăng số vụ bê bối kế toán của các công ty nổi tiếng toàn cầu như Enron, Parmalat
dẫn đến sự sụp đổ của hãng kiểm toán hàng đầu thế giới là Arthur Andersen. Độ
tin cậy của các Nhà đầu tư và công chúng với CLKT đã được xem xét lại. Bên cạnh sự


10

can thiệp của Nhà nước qua việc ban hành các bộ luật như Sarbanes–Oxley năm 2002,
thông điệp xanh của Ủy ban Châu Âu vào năm 2010 cùng với các công bố mới về
CMKiT của IAASB năm 2014 cho thấy trách nhiệm của KTV đã được mở rộng để
đảm bảo CLKT (Defond & Zhang, 2014). Khuynh hướng kết hợp việc xem xét CLKT
theo mức độ tuân thủ chuẩn mực và khả năng KTV phát hiện sai sót và báo cáo sai sót
trọng yếu trên BCTC đã được một số Nhà nghiên cứu về CLKT quan tâm như Skinner
& Srinivasan (2012), Tritschler (2013). Quan điểm xem xét CLKT qua sự kết hợp giữa
mức độ tuân thủ CMKiT và khả năng phát hiện, báo cáo sai sót trọng yếu trên BCTC
cũng đã được Cơ quan Kiểm toán Nhà nước Hoa Kỳ (GAO) xem xét và áp dụng trong
lĩnh vực kiểm toán của mình.

Quan điểm về
Chất lượng kiểm toán

Mức độ đảm bảo về
khả năng phát hiện
và báo cáo sai sót trên
BCTC

Mức độ tuân thủ
Chuẩn mực

Titman & Trueman (1986)
Palmrose (1988)
Beatty (1989)
Leffson (1988)
Knechel (2009)
Defond & Zhang (2014)

Copley & Doucet (1993)

Aldhizer & cộng sự (1995)
McConnell & Banks (1998)
Krishnan & Schauer (2001)
Niemann (2004)
Thomas (2013)

Mức độ tuân thủ chuẩn mực và mức độ đảm bảo
khả năng phát hiện và báo cáo trọng yếu
Skinner & Srinivasan (2012),
Tritschler (2013), Defond & Zhang (2014)
Hình 1.1: Các quan điểm về CLKT
Nguồn: Phát triển của Tác giả từ Tritschler (2013)


11
(2) Các khuynh hướng nghiên cứu về các nhân tố tác động đến CLKT
Xuất phát từ các quan điểm khác nhau về CLKT, các Nhà nghiên cứu đã thực hiện
việc xác định các nhân tố đại diện cho CLKT với nhiều khuynh hướng khác nhau. Căn
cứ vào cơ sở của các khuynh hướng được dùng trong các nghiên cứu, có thể phân loại
thành bảy nhóm nghiên cứu: (1) Nghiên cứu CLKT dựa trên phương pháp đo
lường; (2) Nghiên cứu dựa trên nguồn gốc nguyên nhân của sự khác biệt; (3) Nghiên
cứu dựa trên đầu vào, đầu ra và quá trình kiểm toán; (4) Nghiên cứu dựa trên khía cạnh
tổ chức; (5) Nghiên cứu dựa trên hành vi và chất lượng của KTV; (6) Nghiên cứu dựa trên
nhận thức của các đối tượng có liên quan đến CLKT và (7) Các khuynh hướng nghiên
cứu khác. Các khuynh hướng nghiên cứu này có thể được tóm tắt như sau:
 Nghiên cứu CLKT dựa trên phương pháp đo lường
Theo Arezoo Aghaei chadegani (2011), CLKT là không quan sát được trong quá
trình thực hiện cuộc kiểm toán, cần phải có một đại diện hợp lệ để có thể xem xét mối
quan hệ giữa CLKT thực tế và các nhân tố tác động đến CLKT.
Các Nhà nghiên cứu đã thực hiện việc đo lường CLKT theo 2 nhóm: (i) Đo lường

trực tiếp và (ii) Đo lường gián tiếp. Nhóm đầu tiên nghiên cứu sử dụng các biện pháp
trực tiếp để đo lường CLKT từ các kết quả của cuộc kiểm toán qua các tiêu thức:
Báo cáo tài chính phù hợp với GAAP, kết quả KSCL, tỷ lệ kiện tụng, tỷ lệ giữa ý kiến
hoạt động liên tục có liên quan đến các doanh nghiệp bị phá sản. Krishnan & Schauer (2000)
đã nghiên cứu mối quan hệ giữa quy mô DNKT và sự tuân thủ các yêu cầu của CMKiT.
Krishnan & Schauer phát hiện ra rằng DNKT càng lớn sự tuân thủ yêu cầu CMKiT
càng cao. Geiger & Raghunandan (2002) xem xét liệu việc kiểm toán đã đưa ra sự
quan tâm trong các năm trước cho khách hàng Mỹ đã kê khai phá sản. Họ phát hiện ra
rằng KTV ít có khả năng đưa ra một quan điểm liên tục trong năm đầu kiểm toán
so với những năm sau đó, điều này trái với lo ngại của một số Nhà nghiên cứu cho rằng
một mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng và KTV sẽ ảnh hưởng xấu đến CLKT.
Các biện pháp đo lường trực tiếp CLKT khác như đánh giá việc thực thi quy định của
Ủy ban Chứng khoán (Dechow & cộng sự, 1996). Tuy nhiên, các biện pháp đo lường
trực tiếp CLKT gặp khó khăn trong thực tế do hạn chế từ việc tiếp cận dữ liệu, mức độ
do khái quát kết quả không cao.


12
Nhóm nghiên cứu thứ hai áp dụng biện pháp gián tiếp như: quy mô DNKT,
nhiệm kỳ KTV, mức độ chuyên ngành, giá phí kiểm toán, uy tín làm thước đo đo lường
CLKT. Biện pháp gián tiếp phổ biến nhất về CLKT là quy mô DNKT. DeAngelo (1981)
cho rằng quy mô của DNKT là một chỉ số về CLKT vì các DNKT lớn được trang bị
nhiều hơn. Các nghiên cứu khác cũng thực hiện nghiên cứu mối quan hệ giữa quy mô
DNKT và CLKT (Krishnan & Schauer, 2000; Ajmi, 2009; Lawrence & cộng sự,
2011). Ghosh & Mood (2005) lập luận nhiệm kỳ của KTV có thể có ảnh hưởng xấu
đến CLKT. KTV có nhiệm kỳ kiểm toán dài sẽ đánh mất tính độc lập của mình để
giữ mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng. Theo Wooten (2003), DNKT có nhiều
khách hàng trong cùng một ngành mang lại việc hiểu biết sâu hơn những rủi ro
kiểm toán đặc trưng của một ngành cụ thể. Đại diện cho CLKT được sử dụng trong
nghiên cứu là giá phí kiểm toán và những phụ thuộc kinh tế của KTV.

 Nghiên cứu dựa trên nguồn gốc nguyên nhân của sự khác biệt
Theo Francis (2004), có ba nguyên nhân chính của sự khác biệt về CLKT:
sự khác biệt về thể chế giữa các quốc gia (khác biệt xuyên quốc gia), sự khác biệt
giữa các văn phòng thực hiện kiểm toán (khác biệt xuyên thành phố) và khác biệt do
mức độ chuyên ngành.
Ở cấp quốc gia, sự lựa chọn KTV chuyên ngành của Big N là cấp độ cao hơn, nơi
môi trường bảo vệ các Nhà đầu tư và chất lượng của Báo cáo tài chính là cao hơn.
(Ettredge & cộng sự, 2008).
Francis (2004) cho rằng cần phân tích chất lượng từng chi nhánh của các DNKT
lớn thay vì phân tích đối với toàn bộ công ty sẽ cụ thể hơn. Quan điểm này xuất phát
từ sự khác biệt về chất lượng giữa văn phòng kiểm toán và trụ sở chính. Đánh giá về
CLKT của một DNKT sẽ thay đổi đáng kể khi phân tích chất lượng từ toàn bộ công ty
đến các văn phòng, chi nhánh cụ thể trong công ty.
 Nghiên cứu dựa trên Đầu vào, Đầu ra và Quá trình kiểm toán
Những năm gần đây, xu hướng nghiên cứu về các nhân tố tác động đến CLKT
được tập trung vào các yếu tố của quá trình kiểm toán cũng như ngữ cảnh và tương tác
giữa các đối tượng có liên quan đến quá trình này.
Theo Francis (2011), việc kiểm toán được diễn ra trong bối cảnh một DNKT.
Doanh nghiệp này thực hiện việc tuyển dụng, đào tạo, trang bị cho KTV và xây dựng
quy trình kiểm toán và phát hành Báo cáo kiểm toán về BCTC của khách hàng.


13
Trên góc độ xem xét các nhân tố CLKT theo yếu tố quá trình, ngữ cảnh và hậu quả
kinh tế của cuộc kiểm toán, Francis (2011) đã đưa ra 6 nhân tố tác động đến CLKT
bao gồm: Nhân tố đầu vào; Nhân tố quá trình; DNKT; Thị trường kiểm toán; Thể chế
và Hậu quả kinh tế của các cuộc kiểm toán. Kết quả nghiên cứu này được sự đồng tình
của nhiều Nhà nghiên cứu khác cũng như IFAC. Trên cơ sở đó, IAASB đã có những
nghiên cứu bổ sung và đưa ra Khuôn khổ các nhân tố tác động đến CLKT.
Theo Duff (2004), có rất nhiều yếu tố đầu vào tác động đến CLKT bên cạnh các

yếu tố thuộc về CMKiT. Thuộc tính cá nhân KTV như kỹ năng và kinh nghiệm kiểm toán,
các giá trị đạo đức và tư duy cũng là yếu tố đầu vào có vai trò quan trọng. Bên cạnh
đó, yếu tố khác là nhận thức của KTV và các điều khoản hợp đồng kiểm toán cũng có
ảnh hưởng nhất định, các doanh nghiệp cần thu hút cá nhân chất lượng cao có kỹ năng
và trình độ chuyên môn cần thiết để thực hiện kiểm toán có chất lượng cao.
Defond & Zhang (2014), xem xét CLKT dựa trên đầu vào, đầu ra của quá trình
kiểm toán để tổng kết, đánh giá các nghiên cứu được thực hiện. Kết quả nghiên cứu
cho thấy quá trình kiểm toán liên quan đến các vấn đề như tính đúng đắn của các
phương pháp luận kiểm toán, hiệu quả của các công cụ kiểm toán được sử dụng,
sự đáp ứng đầy đủ của các phương tiện kỹ thuật, đều hướng tới việc hỗ trợ thực hiện
một cuộc kiểm toán chất lượng. Maijoor và Vanstraelen (2006) cũng đã thực hiện các
nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường kiểm toán đến CLKT và đã phát hiện ra rằng
một môi trường kiểm toán càng thuận lợi sẽ làm giảm ảnh hưởng của các yếu tố tác động
xấu đến CLKT.
 Nghiên cứu dựa trên khía cạnh tổ chức
Một số Nhà nghiên cứu đã xem xét CLKT từ hai khía cạnh: DNKT và nhóm
kiểm toán. Trên khía cạnh DNKT, Sun & Liu (2011) đã xem xét liệu nguy cơ khách hàng
kiện tụng, có ảnh hưởng cụ thể đến sự phân biệt giữa CLKT Big N và KTV phi Big N.
Sun & Liu (2011) phát hiện ra rằng hiệu quả của KTV Big N cao hơn so với KTV
phi Big N trong hạn chế mục tiêu quản trị thu nhập lớn đối với các khách hàng có nguy cơ
kiện tụng cao hơn so với khách hàng có nguy cơ kiện tụng thấp, điều này cho thấy rằng
nguy cơ kiện tụng cao của khách hàng có thể buộc KTV thuộc DNKT lớn thực hiện
công việc có hiệu quả hơn. Trên khía cạnh nhóm kiểm toán, Carcello & cộng sự (1992)
cho rằng đặc điểm liên quan đến các nhóm kiểm toán là quan trọng với CLKT hơn so với
những đặc điểm liên quan đến các DNKT. Schroeder & cộng sự (1986) nghiên cứu và
so sánh tác động của 15 yếu tố lên CLKT của DNKT với các nhóm kiểm toán và kết quả
khẳng định rằng các yếu tố của nhóm kiểm toán là quan trọng hơn yếu tố DNKT.


14

 Nghiên cứu dựa trên hành vi và chất lượng của KTV
Theo Rayburn & Rayburn (1996), tính cách có liên quan trực tiếp đến định hướng
đạo đức cá nhân. CLKT không chỉ thiên về các CMKiT mà còn thuộc về chất lượng
đào tạo mỗi con người về những chuẩn mực đạo đức. Rayburn & Rayburn (1996)
chỉ ra rằng các kỹ năng, phẩm chất cá nhân của lãnh đạo và nhân viên kiểm toán, sự
đào tạo của nhân viên kiểm toán là những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng
của người KTV. Đã có nhiều nghiên cứu khác nhau trên nhiều quan điểm khác nhau
về khía cạnh hành vi của CLKT bị giảm sút, chẳng hạn như Sự thuyên giảm CLKT
(Coram & Woodliff, 2003; Gundry & Liyanarachchi, 2007), Lý luận đạo đức
(Sweeney, 1995), Mối quan hệ hành vi và quan điểm (Beattie & Fearnley, 1995;
Mock & Samet, 1982), Lý luận đạo đức của KTV (Herrbach, 2001; Krohmer &
Lemaître, 2010); Danh tiếng (Carey & Simnett, 2006; Baotham, 2009), Kinh nghiệm
(Carcello & cộng sự, 1992), Khả năng (Baotham, 2009) và Độc lập (Daniels &
Booker, 2011; Baotham, 2009).
Malone & Roberts (1996), đã phát triển một mô hình toàn diện hơn về các yếu tố
để giải thích hành vi thuyên giảm CLKT. Họ xem xét mối quan hệ giữa tỷ lệ giảm
CLKT và đặc điểm cá nhân của KTV, tính chuyên nghiệp của KTV, cơ cấu, thủ tục
soát xét và KSCL của DNKT và nhận thức của KTV về áp lực thời gian. Họ kết luận
rằng chất lượng và các thủ tục soát xét, hình phạt đối với hành vi KTV làm giảm
CLKT có liên quan và tỷ lệ nghịch đến các hành vi giảm CLKT.
Baotham (2009), đã nghiên cứu ảnh hưởng tính độc lập trong kiểm toán đến
chất lượng, uy tín, danh tiếng và thành công bền vững của các KTV ở Thái Lan. Các
kết quả chỉ ra rằng tính độc lập trong kiểm toán có mối quan hệ tích cực với CLKT, độ
tin cậy và CLKT có mối liên hệ tích cực với sự tín nhiệm kiểm toán. Tương tự như vậy,
CLKT và uy tín không những ảnh hưởng đáng kể đến danh tiếng mà còn có liên quan
đến thành công bền vững. Để tạo tiền đề cho tính độc lập trong kiểm toán, việc tập trung
cao độ về đạo đức trong tư tưởng và hình thức bên ngoài có vai trò rất quan trọng.
 Nghiên cứu dựa trên nhận thức của các đối tượng có liên quan đến CLKT
Warming - Rasmussen & Jensen (2001) điều tra về CLKT ở Đan Mạch, lấy mẫu
nhận thức hai nhóm đối tượng sử dụng bên ngoài (cổ đông và các Nhà phân tích

BCTC), BGĐ doanh nghiệp được kiểm toán và KTV đối với CLKT. Nghiên cứu này
đã xác định sáu yếu tố CLKT, trong đó tập trung chủ yếu về các vấn đề luân lý và


15
đạo đức. Những Người sử dụng BCKT bên ngoài, có xu hướng đánh giá tất cả sáu
yếu tố tác động đến CLKT, cao hơn KTV và BGĐ doanh nghiệp được kiểm toán:
Uy tín, Độc lập của KTV, Sự mở rộng trong báo cáo và các vấn đề quan tâm,
Kiến thức chuyên ngành, Lòng trung thành của các cổ đông thiểu số, Thái độ hoài nghi
nghề nghiệp của KTV (Duff, 2004).
(3) Kết quả nghiên cứu đã thực hiện về Các nhân tố tác động đến CLKT
Trong ba thập kỷ qua, trên cơ sở quan điểm, khuynh hướng nghiên cứu và các
phương pháp khác nhau, nhiều kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến CLKT
đã được công bố. Do có nhiều quan điểm và khuynh hướng khác nhau về CLKT và
các nhân tố tác động đến CLKT, kết quả nghiên cứu có nhiều sự khác biệt. Tuy nhiên,
nhìn chung các mục tiêu và kết quả nghiên cứu đều hướng đến vai trò của chủ thể tác
động đến CLKT là DNKT, KTV và các nhân tố bên ngoài như các quy định pháp luật
về CLKT; Một số mô hình nghiên cứu đã có ảnh hưởng đến chính sách, các quy định
về KTĐL tại nhiều Quốc gia và được quan tâm, sử dụng, làm nền tảng cho các nghiên
cứu tiếp theo. Các mô hình, kết quả nghiên cứu điển hình này có thể kể đến như sau:
 Mô hình CLKT của Wooten (2003)
Dựa trên quan điểm về CLKT của DeAngelo (1981), Wooten đã thực hiện việc
xem xét và tổng kết (Review) các nghiên cứu trước để đưa ra các nhân tố tác động đến
CLKT và giải thích các nhân tố trong Mô hình CLKT của mình. Theo Wooten (2003),
các yếu tố tác động đến CLKT xuất phát từ hai khía cạnh có liên quan đến phát hiện
sai sót và báo cáo sai sót. Các yếu tố liên quan đến phát hiện sai sót bao gồm: Quy mô
DNKT, Nguồn nhân lực, Kinh nghiệm chuyên ngành, Quy trình kiểm soát, Giám sát,
Kế hoạch và thực hiện, Tính chuyên nghiệp, Kinh nghiệm đối với khách hàng. Các
yếu tố liên quan đến báo cáo sai sót bao gồm: Tính độc lập, Dịch vụ phi kiểm toán,
Giá phí kiểm toán, Nhiệm kỳ của KTV. Mối quan hệ giữa các nhân tố CLKT được

Wooten (2003) giải thích qua Mô hình CLKT được thể hiện qua Hình 1.2: Mô hình
CLKT của Wooten (2003). Kế thừa kết quả nghiên cứu này, các Nhà nghiên cứu
sau này đã phát triển trong các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến CLKT theo
đặc điểm của từng quốc gia. Điển hình là nghiên cứu của Tritschler (2013) với
Mô hình quả cầu CLKT.


16
Giá phí
Dịch vụ khác

Quy mô
kiểm toán

Tính
chuyên
nghiệp
Nguồn
nhân lực

Quy trình
kiểm soát

Kinh nghiệm
chuyên ngành

Nhiệm kỳ
Kinh nghiệm
đối với
khách hàng


Kế hoạch
và thực hiện

Kinh nghiệm
chuyên ngành

Giám sát

Nhân tố
Công ty
kiểm toán

Nhân tố
nhóm
kiểm toán

Tính
độc lập

Phát hiện
sai sót

Báo cáo
sai sót

Chất lượng
kiểm toán

Kết quả


Giá
phí
cao
hơn

Giảm
kiện
tụng

Danh
tiếng
tốt

Khách
hàng
đánh
giá
cao
hơn

Hình 1.2: Mô hình CLKT của Wooten (2003)
Nguồn: Wooten (2003)

 Mô hình CLKT của Duff (2004)
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng cao, thị trường kiểm toán tăng trưởng chậm
do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới cuối thập niên 1990, hoạt động
kiểm toán ngày càng bị ảnh hưởng bởi toàn cầu hóa. Sự kiện Enron dẫn đến sự
phá sản của Arthur Anderson năm 2011 đã tạo ra cuộc khủng hoảng niềm tin vào
công chúng, nhất là sự hài lòng với CLKT của các bên có liên quan. Tình trạng này đã

tạo áp lực giảm giá phí kiểm toán và lợi nhuận dịch vụ kiểm toán, buộc các KTV vừa phải
tập trung trí óc để nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, trong khi
vẫn phải duy trì hoặc nâng cao hiệu quả chuyên môn nhằm phục hồi lợi nhuận.


17
Trên cơ sở định nghĩa của DeAngelo về CLKT và quan điểm chất lượng dịch vụ
là một nguồn LTCT, phương tiện bền vững cung cấp cho khách hàng, nhằm đáp ứng
nhu cầu khách hàng một cách có hiệu quả. Duff (2004) đã thực hiện nghiên cứu về
khoảng cách kỳ vọng và CLKT trên cơ sở phân tích các thông tin được công bố
bên ngoài của 20 DNKT lớn nhất ở Anh, Duff thiết lập bảng khảo sát với 56 câu hỏi
về các khía cạnh khác nhau của CLKT, với 500 đối tượng gồm các KTV tại 16 DNKT
lớn nhất nước Anh, Giám đốc tài chính các công ty tại Anh, các Nhà quản lý quỹ
tại Anh và những Người sử dụng thông tin tài chính từ bên ngoài.
Mục đích của nghiên cứu nhằm xác định sự khác biệt trong nhận thức về các yếu tố
quyết định CLKT giữa các KTV, BGĐ DNKT và nhóm đối tượng sử dụng bên ngoài để
xác định có hay không sự tồn tại khoảng cách kỳ vọng trong CLKT. Bằng phương pháp
nghiên cứu định lượng, phân tích và đo lường nhân tố khám phá từ 109 dữ liệu thu được,
trên cơ sở Mô hình chất lượng dịch vụ (Servqual) của Parasuraman & cộng sự (1998, 1991),
Duff (2004) đã đưa ra Mô hình về CLKT (Auditqual Model).
Qua kết quả nghiên cứu của Duff (2004) đã đưa ra nhận định: CLKT là một
khái niệm đa diện, CLKT hình thành từ cả hai khía cạnh: Chất lượng dịch vụ và
chất lượng chuyên môn (năng lực và tính khách quan của KTV). Có 9 nhân tố
tác động đến CLKT, trong đó có 4 nhân tố thuộc về Chất lượng dịch vụ: Khả năng
đáp ứng; Dịch vụ phi kiểm toán; Cảm thông; Dịch vụ. 5 nhân tố thuộc về chất lượng
chuyên môn là: Danh tiếng; Quy mô; Tính độc lập; Kỹ năng; Kinh nghiệm. Các
nhân tố tác động đến CLKT được thể hiện qua Hình 1.3: Mô hình Auditqual của Duff (2004).
Danh tiếng
(Reputation)


Vị thế công ty
(Status)
Quy mô
(Capability)

Tính độc lập
(Independence)

Kỹ năng
(Expertise)

Chất lượng
chuyên môn
(Technical Quality)

Năng lực
(Knowledge)

Kinh nghiệm
(Experience)

Khả năng đáp ứng
(Responsiveness)

Dịch vụ phi kiểm toán
Cảm thông

(Non-audit service)

Chất lượng

dịch vụ
(Service Quality)

(Empathy)

Hiểu khách hàng
(Understanding)

Dịch vụ
(Client service)

Hình 1.3: Mô hình Auditqual của Duff (2004)
Nguồn: Duff (2004)


18
 Nghiên cứu Chất lượng của quá trình kiểm toán của Manita & Elommal (2010)
Các vụ bê bối tài chính cuối thập niên 1990 tại Mỹ và cụ thể tại Tunisia cho thấy
sự bất lực của phương pháp tiếp cận cổ điển và các chỉ số đo lường để ước tính sự
phù hợp của công việc kiểm toán. Manita & Elommal (2010) cho rằng việc kiểm soát
CLKT phải thực hiện ở các cấp độ của quy trình kiểm toán và khuyến khích việc
đánh giá CLKT được thực hiện bởi Ủy ban Kiểm toán.
Theo Manita & Elommal (2010), từ định nghĩa CLKT của DeAngelo (1981) nhiều
Nhà nghiên cứu như Knapp (1991); Flint (1988); Moizer (1997) đã lựa chọn cách
tiếp cận đôi để xác định CLKT, bằng cách phân biệt năng lực và kỹ thuật của các
Kiểm toán viên (chất lượng phát hiện) và tính độc lập (chất lượng công bố). Một số
Nhà nghiên cứu khác như Krishnan & Schauer (2000); Kaplan (1995) và Lennox (1999)
sử dụng định nghĩa này để xác định sản phẩm thay thế CLKT, từ nhận thức bởi thị trường
hoặc các đặc tính tự nhiên của hai khái niệm năng lực KTV và độc lập. Một số chỉ tiêu
CLKT, đã được xác định bởi các nghiên cứu như: quy mô DNKT, giá phí, danh tiếng

của DNKT, kinh nghiệm chuyên ngành... Các nghiên cứu này tập trung phân tích
"chất lượng của KTV", để ước lượng CLKT hơn là phân tích bản thân quy trình
kiểm toán, rất ít nghiên cứu được dành riêng để đánh giá chất lượng bằng cách
sử dụng quá trình kiểm toán.
Manita & Elommal (2010) đã thực hiện việc nghiên cứu tại Tunisia, với mục đích
xây dựng thước đo để đo lường chất lượng quy trình kiểm toán cho Ủy ban Kiểm toán
hoặc cho cơ quan quản lý có liên quan đến CLKT. Trên cơ sở Lý thuyết Ủy nhiệm, các
Tác giả áp dụng phương pháp tiếp cận Churchill. Kết hợp nghiên cứu định tính và
định lượng dựa trên hai bảng câu hỏi nghiên cứu với các thành viên Ủy ban Kiểm toán
và KTV. Qua nghiên cứu định tính Manita & Elommal (2010) đã xác định 27 yếu tố
chất lượng được phân phối trên ba giai đoạn của quá trình kiểm toán. Kết quả
nghiên cứu định lượng bằng phương pháp phân tích hồi quy, các yếu tố này được
tóm tắt vào 7 nhân tố chất lượng chủ yếu của quy trình kiểm toán, liên quan đến
vấn đề kỹ thuật của quá trình kiểm toán, chất lượng KTV và các đặc điểm tổ chức
của DNKT. (Xem Phụ lục 2: Bảng tổng hợp các nghiên cứu trước có liên quan đến
các nhân tố tác động đến CLKT - theo loại hình).


19
 Mô hình Quả cầu CLKT của Tritschler (2013)
Trong bối cảnh sự mất lòng tin về CLKT đã đạt được một cấp độ mới trong các
cuộc khủng hoảng tài chính 2008, 2009. Sự sụp đổ của Lehman Brothers đã gây
phản ứng dây chuyền đến ngành Ngân hàng trên toàn thế giới. Nhiều câu hỏi được
đặt ra về CLKT trong việc đánh giá các tài sản tài chính và đánh giá khả năng
hoạt động liên tục theo các nguyên tắc kế toán cơ bản đã được ban hành. Tritschler (2013)
đã nghiên cứu mối quan hệ tương quan giữa Tỷ lệ thất bại của KTV và các yếu tố
đầu vào của CLKT. Để đạt được mục tiêu này, Tritschler đã phát triển một thước đo
CLKT được gọi là “Tỷ lệ thất bại của KTV (Auditor’s Failure Rate – AFR) dựa trên
lỗi BCTC của các công ty đại chúng Đức được công bố trên Công báo Liên Bang Đức.
Dựa trên quan điểm CLKT của DeAngelo (1981), Mô hình CLKT của Wooten (2003)

và tổng hợp (review) các nghiên cứu đã thực hiện, Tritschler (2013) đã phát triển Mô hình
nghiên cứu của Wooten (2003) thành Mô hình quả cầu CLKT, trong đó hầu hết các kết quả
nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về CLKT đã được mô tả trong Mô hình này.
Theo đó, các nhân tố tác động đến CLKT bao gồm: Tính độc lập, Quy mô DNKT,
Giá phí kiểm toán, Các dịch vụ phi kiểm toán, Nhiệm kỳ kiểm toán, Trách nhiệm
pháp lý, Kiến thức về Kế toán – Kiểm toán, Mức độ chuyên ngành, Nỗ lực của KTV
và các nguồn hỗ trợ hỗn hợp, Phương pháp luận và công cụ kiểm toán, Đào tạo và
giáo dục. Mô hình này cũng được sử dụng làm Mô hình nghiên cứu trong Luận án
này. Mô hình Quả cầu các nhân tố tác động đến CLKT được thể hiện qua Hình 2.2.
 Khung CLKT của Defond & Zhang (2014)
Trên cơ sở Lý thuyết Ủy nhiệm, Lý thuyết Cung cầu, quan điểm về CLKT của
DeAngelo (1981) và xem xét CLKT dựa trên đầu vào, đầu ra của quá trình kiểm toán,
Defond & Zhang (2014) đã tổng kết, đánh giá (review) các nghiên cứu được thực hiện
từ năm 1996 – 2013 về các nhân tố tác động đến CLKT và các phương pháp đo lường
được áp dụng nhằm rút ra các nhân tố được sử dụng làm thước đo CLKT phổ biến. Từ đó
hệ thống hóa và phân loại các khuynh hướng nghiên cứu chủ yếu, các quan điểm về
CLKT, nhu cầu CLKT của khách hàng, khả năng cung cấp CLKT của KTV và
mối quan tâm của cơ quan quản lý về CLKT. Đặc biệt là xem xét sự can thiệp của Cơ quan
quản lý Nhà nước vào hoạt động KTĐL tại một số nước trong thời gian gần đây.
Theo Defond & Zhang (2014), CLKT là một cấu trúc liên tục, đảm bảo chất lượng
BCTC. CLKT cao sẽ cung cấp nhiều sự đảm bảo hơn cho một BCTC chất lượng cao.
Hầu hết biện pháp đo lường CLKT trong các nghiên cứu được xem xét không những
thất bại mà còn thiếu khả năng để phát hiện những thay đổi tinh tế về CLKT. Ít có
phương pháp đo lường trực tiếp nào thuận lợi trong việc nắm bắt tính liên tục của CLKT.


20
Do đó không có sự đồng thuận về phương pháp đo lường nào là tốt nhất trong số các
nhân tố được dùng để đo lường CLKT đã được các Nhà nghiên cứu trước sử dụng theo
các nhân tố riêng lẻ, không vẽ ra một bức tranh đầy đủ về CLKT. Các Nhà nghiên cứu cần

sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để tận dụng lợi thế những điểm mạnh và hạn
chế những điểm yếu của chúng.
Đối với tác động của các quy định trong thị trường kiểm toán Mỹ và sự can thiệp
ngày càng nhiều ở một số nước. Theo Defond & Zhang (2014): mặc dù, không thể
kết luận liệu các biện pháp can thiệp gần đây, đặc biệt ảnh hưởng chung của Luật
Sarbanes–Oxley có hiệu quả trong việc cải thiện CLKT hay không? Tuy nhiên, các
bằng chứng cho thấy quy định về Ủy ban Kiểm toán đã làm tăng nhu cầu về CLKT
của khách hàng và gây bất lợi cho kiểm toán viên trong việc khuyến khích cải tiến
công việc giám sát. Đáng chú ý, hai vấn đề trên tập trung vào nhu cầu của khách hàng,
không tác động vào phía cung của KTV. Ngược lại, có rất ít bằng chứng chống lại việc
cấm dịch vụ phi kiểm toán do ảnh hưởng xấu đến CLKT, trên thực tế đã có một số
bằng chứng nhất định cho thấy dịch vụ phi kiểm toán nâng cao CLKT. Các Tác giả
còn đưa ra các gợi ý nghiên cứu về năng lực của khách hàng, là một khu vực tương đối
mới và đang phát triển, cần tập trung vào việc nghiên cứu các cơ chế của khách hàng,
để đáp ứng nhu cầu về CLKT của họ.
Qua kết quả nghiên cứu, Defond & Zhang (2014) đã đưa ra Khung nghiên cứu về
CLKT thể hiện mối quan hệ giữa nhu cầu, năng lực của khách hàng, năng lực,
khả năng cung cấp của DNKT và sự can thiệp, điều tiết của các cơ quan chức năng
nhằm tạo nguồn cung và cầu về CLKT trên thị trường. Khuôn khổ CLKT của
Defond và Zhang được thể hiện qua Hình 1.4: Khung CLKT của Defond & Zhang (2014).

Nhu cầu khách hàng

Kiểm toán cung cấp
Động cơ

Động cơ:
- Chi phí ủy nhiệm
- Quy định pháp luật


Chất lượng
kiểm toán

Năng lực

Quy định pháp luật -

Năng lực
Đầu vào cho quá trình kiểm toán:
Sự thành thạo, năng lực chuyên môn

Ủy ban Kiểm toán:
Chức năng kiểm toán nội bộ

Quy định Ban Kiểm toán

Danh tiếng -

Can thiệp, điều tiết

Sự kiểm tra, kiểm soát

Hình 1.4: Khung CLKT của Defond & Zhang (2014)
Nguồn: Defond & Zhang (2014)


21
Các kết quả đạt được từ nghiên cứu của Defond & Zhang:
Thứ nhất, xác định CLKT cao, đảm bảo BCTC có chất lượng cao. Định nghĩa
này phản ánh bản chất liên tục của CLKT, bao gồm trách nhiệm của KTV và thừa nhận

một cách rõ ràng CLKT, như một thành phần của chất lượng BCTC.
Thứ hai, cung cấp một khuôn khổ cho việc lựa chọn có hệ thống trong số các
nhân tố thường được sử dụng CLKT và đánh giá từ kết quả của họ.
Thứ ba, nghiên cứu truyền thống tập trung chủ yếu ảnh hưởng của KTV vào CLKT,
ít quan tâm đến nhân tố khách hàng về phía cầu và khuyến khích các Nhà nghiên cứu
trong tương lai tiếp tục mở rộng kiến thức về phía nhu cầu.
Thứ tư, việc ghi nhận các nghiên cứu trước tập trung vào vận hành CLKT, ít tập trung
vào năng lực. Nên khuyến khích các Nhà nghiên cứu trong tương lai khám phá thêm
yếu tố liên quan đến năng lực.
Thứ năm, nguy cơ đáng kể của các quy định can thiệp nhằm mục tiêu cả năng lực
của KTV cung cấp lẫn nhu cầu của khách hàng về CLKT. Vậy, hướng nghiên cứu
tiếp theo tìm hiểu tốt hơn quá trình điều tiết để hiểu được tác dụng quan trọng của
quy trình quản lý vào CLKT.
 Một số nghiên cứu của các Tác giả khác
Bên cạnh các nghiên cứu tiêu biểu trên nhiều nghiên cứu khác trên thế giới cũng
đã được thực hiện và mang lại những kết quả nhất định như: Nghiên cứu của
DeAngelo (1981) về ảnh hưởng của Quy mô DNKT, kết quả nghiên cứu định lượng
của Mock & Samet (1982) đã chọn ra 32 nhân tố được dùng để đánh giá CLKT qua 5
thuộc tính là: Kế hoạch; Quản lý; Thủ tục; Đánh giá và Thực hiện. Mở rộng nghiên
cứu này Schroeder & cộng sự (1986) đã thực hiện nghiên cứu định lượng với 500 đối
tượng khảo sát từ các Chủ tịch Ủy ban Kiểm toán và các Chủ phần hùn của Big Four,
kết quả cho thấy các đối tượng khảo sát đánh giá nhân tố Nhóm kiểm toán có tầm
quan trọng hơn nhân tố DNKT, cụ thể là người phụ trách cuộc kiểm toán được
đánh giá cao hơn danh tiếng của DNKT.
Sutton & Lampe (1990) qua nghiên cứu định lượng đã đưa ra mô hình 19 nhân tố
tác động đến CLKT và phân loại thành 3 nhóm: Kế hoạch; Thực hiện kiểm toán và
Quản lý. Carcello & cộng sự (1992) bằng phương pháp nghiên cứu định lượng đã thực
hiện khảo sát 3 đối tượng: Người lập; Người sử dụng BCTC và các Chủ phần hùn của
các DNKT tại Mỹ. Kết quả phân tích nhân tố EFA cho thấy có 12 nhân tố tác động đến
CLKT. Trong đó 5 nhân tố quan trọng hàng đầu là: Kinh nghiệm của KTV đối với

khách hàng; Mức độ chuyên sâu; Mức độ tuân thủ chuẩn mực đạo đức; Mức độ chuyên
ngành; Truyền thông giữa nhóm kiểm toán và Người phụ trách cuộc kiểm toán. Bên


22
cạnh đó, nghiên cứu của O'Keefe & cộng sự (1994) cho thấy chi phí thực hiện cuộc
kiểm toán và những nguồn tài nguyên khác của DNKT được kết hợp trong quá trình
kiểm toán cũng là một trong những nhân tố của CLKT. Nghiên cứu của Libby & cộng
sự (2006) cho thấy CLKT là không đồng nhất giữa các DNKT có quy mô lớn và việc
đảm bảo CLKT không chỉ phụ thuộc vào quy mô DNKT mà còn phụ thuộc vào chính
các KTV – những Người trực tiếp thực hiện các cuộc kiểm toán tại công ty khách hàng.
Từ những nhận định trên và kết quả nghiên cứu trên góc độ xem xét các nhân tố
CLKT theo yếu tố quá trình, ngữ cảnh và hậu quả kinh tế của cuộc kiểm toán,
Francis (2011) đã đưa ra 6 nhân tố tác động đến CLKT bao gồm: Nhân tố đầu vào;
Nhân tố quá trình; DNKT; Thị trường kiểm toán; Thể chế và Hậu quả kinh tế của các
cuộc kiểm toán. Kết quả nghiên cứu này được sự đồng tình của nhiều Nhà nghiên cứu
khác cũng như IFAC. Trên cơ sở đó, IAASB đã có những nghiên cứu bổ sung và
đưa ra Khuôn khổ các nhân tố tác động đến CLKT.
(Xem Phụ lục 2: Bảng tổng hợp các nghiên cứu trước có liên quan đến các nhân
tố tác động đến CLKT - Theo loại hình).
 Các nhân tố tác động đến CLKT qua kết quả nghiên cứu trước
Như đã trình bày ở phần trên, trong 3 thập kỷ qua có nhiều kết quả nghiên cứu về
CLKT đã được công bố theo nhiều quan điểm và khía cạnh khác nhau, tuy nhiên hầu
hết các kết quả nghiên cứu đều tập trung vào chủ thể tác động đến CLKT theo 3 nhóm:
KTV/nhóm kiểm toán, DNKT và các nhân tố bên ngoài.
(1) Nhóm nhân tố thuộc về KTV/Nhóm kiểm toán
 Nhân tố thuộc về Phương pháp luận và tính cách của KTV
Theo Carcello & cộng sự (2002), DNKT có phương pháp luận kiểm toán càng tốt,
thì càng có xu hướng phát hành BCKT công bố những vi phạm của khách hàng tốt hơn.
Theo Treadway (1987), KTV nếu bỏ sót hoặc không thực hiện đúng các thủ tục

kiểm toán sẽ làm giảm CLKT và không phải CLKT của cùng một DNKT lúc nào cũng
đạt được mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm KTV/nhóm kiểm toán - những Người
trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán. Wooten (2003) cũng cho rằng các KTV có tính cách
luôn muốn tìm tòi có khuynh hướng phát hiện nhiều sai sót hơn.
Ý thức tuân thủ Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là một nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến CLKT, qua đó cũng làm ảnh hưởng đến sự hài lòng của Người sử dụng
đối với chất lượng dịch vụ kiểm toán (Boon & cộng sự, 2008).
Carcello & cộng sự (1992) cũng đã nhận định: “DNKT nào hiếm khi bị phát hiện
thấy sự cẩu thả trong các vụ kiện thì đồng nghĩa với việc DNKT đó cung cấp một sự
đảm bảo về sự thận trọng chuyên nghiệp”.


23
 Trình độ năng lực, mức độ chuyên sâu trong lĩnh vực kiểm toán
Năng lực nghề nghiệp được đánh giá là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới CLKT,
cũng như sự hài lòng của đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán (Boon & cộng sự, 2008).
Năng lực nghề nghiệp thể hiện trình độ của KTV, qua đó thể hiện sự hiểu biết và
kiến thức cá nhân của KTV (Richard, 2006). Một KTV có năng lực nghề nghiệp
đồng nghĩa với một KTV có chất lượng (tức là có khả năng hiểu biết và kinh nghiệm
để thực hiện công việc kiểm toán BCTC (Richard, 2006). Thành viên nhóm kiểm toán
có năng lực thường là các KTV có chất lượng, nắm vững các nguyên tắc, CMKiT
trên cơ sở đó đủ khả năng phát hiện các sai sót trên BCTC.
Nhân tố thuộc về kinh nghiệm của KTV: Theo Aldhizer & cộng sự (1995);
Behn & cộng sự (1999); Chen & cộng sự (2001) kinh nghiệm của KTV có ảnh hưởng
đến CLKT thông qua việc đánh giá các rủi ro và thiết kế kế hoạch kiểm toán hợp lý.
Kết quả nghiên cứu của Boon & cộng sự (2008) cũng cho rằng, nhân tố kinh nghiệm
quan trọng như mức độ chuyên sâu của KTV có ảnh hưởng tới CLKT, KTV có
kinh nghiệm kiểm toán tại khách hàng, Người sử dụng kết quả kiểm toán sẽ cảm thấy
hài lòng với chất lượng dịch vụ kiểm toán hơn.
Mức độ chuyên sâu của KTV là một nhân tố quan trọng để đảm bảo CLKT.

KTV thể hiện tính chuyên sâu nếu có hiểu biết sâu về lĩnh vực chuyên ngành của khách
hàng, có năng lực nhận biết rủi ro, cơ hội và thực tế kế toán của các khách hàng qua
quá trình đào tạo và kinh nghiệm thực tế đạt được trong quá trình kiểm toán (Craswell
& cộng sự, 1995; Hogan & Jeter, 1999; Solomon & cộng sự, 1999; Gramling & Stone,
2001; Velury & cộng sự, 2003).
Trong quá trình kiểm toán, KTV/nhóm kiểm toán được giao nhiệm vụ kiểm toán
có sự hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực chuyên ngành thường được đánh giá có mức độ
ảnh hưởng quan trọng tới CLKT (Boon & cộng sự, 2008). KTV có hiểu biết chuyên sâu
sẽ có khả năng đánh giá được tính hợp lý trong ước tính kế toán và các xét đoán
quan trọng của khách hàng khi lập và trình bày BCTC, do đó, sẽ làm tăng áp lực lên
khách hàng trong việc tuân thủ nguyên tắc, CMKiT (Kwon, 1996). Để chuyên môn
hóa theo lĩnh vực ngành nghề của khách hàng, các DNKT phải đầu tư vào công nghệ,
kỹ thuật, phương tiện vật chất, nhân sự dẫn đến việc nâng cao CLKT (Simunic &
Stein, 1987). Maletta & Wright (1996) cho rằng, trong từng ngành kinh doanh khác
nhau của khách hàng, kiểm toán luôn tiềm ẩn những rủi ro kiểm toán đặc trưng, do đó
cần có các KTV am hiểu sâu về khách hàng để giảm thiểu các rủi ro này.


24
Một số nghiên cứu khác, cũng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa sự chuyên môn
hóa với CLKT của các cuộc kiểm toán, theo các ngành nghề đặc thù. Krishnan &
cộng sự (2003) đã đưa ra kết luận, khách hàng của những DNKT chuyên ngành,
thường có ít các khoản ước tính kế toán tùy ý hơn, so với những khách hàng sử dụng
DNKT không chuyên ngành.
 Tính độc lập
Tính độc lập là một yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp và còn là quy định pháp luật
trong KTĐL, là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến CLKT cũng như sự hài lòng của
đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán (Boon & cộng sự, 2008). Khi KTV/nhóm kiểm toán
độc lập với khách hàng nghĩa là sẽ có khả năng cung cấp một cuộc kiểm toán có
chất lượng cao hơn.

Tính độc lập trong kiểm toán bao gồm độc lập trong tư tưởng và độc lập về
hình thức biểu hiện. Độc lập trong tư tưởng thể hiện KTV cần phải đưa ra ý kiến
khách quan và vô tư (Richard, 2006). Tính độc lập về hình thức biểu hiện nhằm đáp ứng
đòi hỏi về tính độc lập đối với Người sử dụng.
 Nhiệm kỳ kiểm toán
Với các vụ gian lận lớn và phá sản gần đây của các doanh nghiệp, vấn đề
mối quan hệ giữa khách hàng và DNKT ngày càng được chú trọng nhiều hơn. Theo
Mautz & Sharaf (1961), nhiệm kỳ của KTV càng dài thì CLKT càng giảm bởi lẽ nó
làm gia tăng sự phụ thuộc của KTV vào BGĐ của khách hàng. Sự thân mật của KTV
đối với khách hàng sẽ làm hạn chế thái độ hoài nghi nghề nghiệp và do vậy làm giảm
tính khách quan của KTV. Theo Shockley (1981), khi DNKT có một “sự tin tưởng”
khách hàng do có mối quan hệ lâu dài “sự tin tưởng” này có thể khiến cho KTV
sử dụng các thủ tục kiểm toán kém hữu hiệu và không sáng tạo, KTV có thể trở nên
kém nỗ lực trong việc phát hiện các sai sót trọng yếu và có khuynh hướng đồng ý với
BGĐ của khách hàng về các quyết định quan trọng.
(2) Nhóm nhân tố thuộc về DNKT
 Quy mô, mức độ chuyên ngành của DNKT
Quy mô DNKT là một trong những tiêu chí thường được sử dụng như là nhân tố
tiêu biểu cho CLKT.
DeAngelo (1981) đã tiến hành các phân tích về sự ảnh hưởng của quy mô
kiểm toán đến CLKT và kết luận rằng, DNKT quy mô lớn thường có chất lượng được
đánh giá (bởi thị trường) cao hơn các DNKT quy mô nhỏ. Theo DeAngelo, DNKT
càng nhiều khách hàng thì họ càng bị áp lực kinh tế buộc phải duy trì và nâng cao CLKT.


25
Đồng quan điểm với Dye (1993), Lennox (1999) và Shu (2000) cho rằng, CLKT
có mối quan hệ với nguồn tài chính của DNKT. Quy mô DNKT càng lớn với nguồn
tài chính dồi dào (Deep-pocket) có điều kiện duy trì chất lượng dịch vụ ở mức cao và
do vậy cũng sẽ làm giảm tối thiểu khả năng xảy ra các vụ kiện tụng.

Sau vụ phá sản của tập đoàn năng lượng hàng đầu nước Mỹ Enron năm 2001,
liên quan đến sự sụp đổ của hãng kiểm toán hàng đầu thế giới Arthur Andersen
năm 2002 đã làm lung lay quan điểm cho rằng CLKT thường được đảm bảo tốt hơn
bởi các DNKT lớn. Tuy nhiên, cho đến nay hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy
quy mô DNKT là nhân tố ảnh hưởng tới CLKT, khách hàng thường chấp nhận
mức phí kiểm toán cao hơn để mời KTV của DNKT lớn kiểm toán BCTC nhằm tăng
uy tín của chính bản thân khách hàng.
 Mức độ chuyên ngành là một chỉ số của CLKT, bởi vì các KTV am hiểu sâu
lĩnh vực chuyên ngành sẽ có khả năng đánh giá được tính hợp lý trong ước tính kế toán
và việc trình bày, công bố thông tin tài chính và do vậy, sẽ làm tăng áp lực lên
khách hàng phải tuân thủ nguyên tắc kế toán (Kwon, 1996). Theo Simunic & Stein (1987)
để chuyên môn hóa trong một lĩnh vực ngành nghề cụ thể các DNKT cần đầu tư vào
công nghệ, kỹ thuật, phương tiện vật chất, nhân sự và hệ thống KSCL để nâng cao
chất lượng dịch vụ của ngành mà mình chuyên sâu. Maletta & Wright (1996) cho rằng
trong từng ngành sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ khác nhau luôn tiềm ẩn những
vấn đề rủi ro kiểm toán đặc trưng, DNKT có mức độ chuyên ngành cao sẽ thuận tiện
trong việc nắm bắt và có kinh nghiệm trong việc đánh giá và xử lý những rủi ro này
bằng các phương pháp và thủ tục kiểm toán phù hợp.
Các nghiên cứu của Dopuch & Simunic (1980, 1982) về mức độ chuyên sâu
trong lĩnh vực chuyên môn đều sử dụng tỷ số giữa tổng giá phí kiểm toán của các
dịch vụ chuyên sâu mà công ty kiểm toán thực hiện trong lĩnh vực này so với tổng phí
kiểm toán của tất cả các công ty kiểm toán trong cùng một lĩnh vực như là một thang
đo về CLKT theo từng lĩnh vực. Cùng với quan điểm trên, một số nghiên cứu khác
cũng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa tính chuyên môn hóa với thuộc tính chất lượng.
Craswell & cộng sự (1995) đã phân tích dữ liệu của Úc vào năm 1987 cho thấy các DNKT
chuyên ngành chiếm khoảng 34% phí kiểm toán trong toàn ngành KTĐL tại nước này.
Deis & Giroux (1992) cũng đã tiến hành chọn mẫu để kiểm tra thị phần của các
Non-Big 6. Kết quả cho thấy rằng thị phần của các DNKT chuyên ngành tỷ lệ thuận
với việc kiểm soát chất lượng. Bằng chứng này chứng minh cho giả thuyết tính
chuyên môn hóa tỷ lệ thuận với CLKT. Krishnan & cộng sự (2003) cũng tiến hành



×