Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Định hướng chiến lược và một số giải pháp phát triển du lịch sinh thái vùng duyên hải cực nam trung bộ đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 151 trang )

11

Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
1.1 Khái niệm về du lịch bền vững và du lịch sinh thái:
Trong thập kỷ qua, ngành du lịch đạt được những thành tựu to lớn, tăng trưởng
khoảng 25%. Hiện tại du lịch chiếm 10% hoạt động kinh tế thế giới, du lịch đã góp
phần trong việc tạo ra thu nhập, nguồn ngoại tệ và việc làm, trở thành một ngành kinh
tế mũi nhọn tại nhiều nước [88, 23].
Bên cạnh mặt tích cực đạt được, du lịch đại chúng cũng tạo ra những thách thức
và rủi ro to lớn, nếu không được kiểm soát và định hướng phát triển theo lộ trình bền
vững và khoa học thì hậu quả mang đến sẽ không lường được.
Phát triển du lịch bền vững (DLBV) là xu hướng tất yếu của thời đại ngày nay. Vì
phát triển DLBV được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp của ba yếu
tố tương tác lớn là tự nhiên, kinh tế và môi trường.
1.1.1 Khái niệm về du lịch bền vững:
Theo Hội đồng Du lịch Lữ hành Thế giới (WTTC) và Tổ chức Du lịch Thế giới
(UNWTO): “Du lịch bền vững là loại hình du lịch đáp ứng được nhu cầu hiện tại
của du khách và của những điểm đến mà vẫn bảo đảm và cải thiện nguồn lực cho
tương lai. Du lịch bền vững dẫn tới một phương thức quản lý tất cả các nguồn lực
sao cho thỏa mãn nhu cầu kinh tế, xã hội, thẫm mỹ và vẫn giữ gìn được sự trọn vẹn
của văn hóa và môi trường sống”[11,25].
1.1.2 Khái niệm DLST:
DLST được quan niệm là một loại hình du lịch bền vững gắn với môi trường thiên
nhiên. Các khái niệm phổ biến về DLST mà các nhà nghiên cứu về du lịch đã đưa ra
và được đa số các diễn đàn quốc tế về DLST thừa nhận như:
Ban đầu, có một khái niệm DLST tương đối đầy đủ bao hàm cả du lịch thiên nhiên
lẫn du lịch văn hóa, do nhà bảo vệ môi trường người Mêhicô Hector CeballosLascurain đưa ra: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị
thay đổi với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan vớí ý thức trân trọng thế
giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá” [23,33]



12

Năm 1993 Allen đưa ra một định nghĩa đề cập sâu sát đến lĩnh vực họat động trách
nhiệm của du khách, đó là: “DLST được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên
khác về mức độ giáo dục cao đối với môi trường và sinh thái, thông qua những hướng
dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. DLST tạo ra mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên hoang dã đã cùng với ý thức giáo dục để biến bản thân khách du lịch thành
những người đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường. Phát triển DLST sẽ làm giảm
thiểu tác động của khách du lịch đến văn hóa và môi trường đảm bảo cho địa phương
được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và chú trọng đến những đóng góp
tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên” [23,10]
Đối với các tổ chức quốc tế, định nghĩa về DLST do Hiệp hội du lịch sinh thái quốc
tế (TIES) đưa ra hiện được sử dụng khá phổ biến như sau:
“Du lịch sinh thái là việc đi lại của có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà
bảo tồn được môi trường và cải thiện được phúc lợi cho người dân địa phương” [10,31]

Sơ đồ 1.1: Sự tiếp cận của phát triển bền vững là nền tảng của DLST (UNWTO, 2009)
1.1.3 Một số định nghĩa về DLST ở Việt Nam:
Luật Du lịch Việt Nam 2005, định nghĩa về DLST: “là hình thức du lịch dựa vào
thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm
phát triển bền vững” [27,23]
Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra một định nghĩa tương tự về DLST:
“ DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục
môi trường có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích
cực của cộng đồng địa phương” [25, 35]


13


Sơ đồ 1.2: DLST là một khái niệm của phát triển bền vững (UNWTO, 2009)
Hay một dạng mở rộng khác của DLST về văn hóa bản địa: “Du lịch văn hóa là hình
thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhắm bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [10,20]
“DLST là hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi
trường, có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại
các lợi ích về tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn”
[10,21]

“DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng
để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những
cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ,
hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia
cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triển môi trường và tài nguyên thiên
nhiên một cách bền vững” [23,25]
Nhìn chung các khái niệm về DLST đang sử dụng tại Việt Nam đều có sự thống
nhất trên quan điểm về nội dung đề cập là: thiên nhiên, bản sắc văn hóa, trách nhiệm
và lợi ích của cộng đồng, và phát triển bền vững, tuy nhiên còn đề cập chung chung và
chưa toàn diện.
1.1.4 Một số đề xuất bổ sung của tác giả luận án về lý luận DLST:
+ Về khái niệm DLST chung:
“DLST là dạng du lịch thay thế tích cực (alternative) của du lịch đại chúng (mass
tourism), đây là loại hình du lịch chú trọng đến việc phát triển tình cảm và trách


14

nhiệm của người tham gia đối với vẻ đẹp thiên nhiên hoặc giá trị văn hóa bản địa.
Gắn hoạt động với giáo dục môi trường tự nhiên-xã hội để nâng cao hiểu biết cho du
khách về thiên nhiên-sinh thái, về các giá trị lịch sử-văn hóa truyền thống của điểm

đến. Từ đó đề cao trách nhiệm của người tham gia và góp phần bảo vệ và phát triển
nguồn tài nguyên thiên - tài nguyên nhân văn và lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa
phương một cách bền vững”[11,10].
+ Bổ sung của tác giả về khái niệm DLST liên quan đến vùng DHCNTB:
*Khái niệm DLST biển-đảo: là một loại hình DLST cụ thể, dựa vào môi trường
biển, bờ và hải đảo, có trách nhiệm hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn môi trường thiên
nhiên, các giá trị văn hóa của cộng đồng cư dân đang sinh sống ở vùng duyên hải và
hải đảo. DLST biển- đảo chú trọng đề cao sự tham gia tích cực của người dân địa
phương vào việc hoạch định quản lý và khai thác một cách có hiệu quả các nguồn tài
nguyên du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát triển bền vữn, tạo điều kiện mang lại lợi ích
kinh tế - xã hội cho toàn cộng đồng.
DLST biển-đảo có thể chia làm 3 khu vực không gian hoạt động cơ bản: khu vực bờ
và mép nước; khu vực mặt nước và hải đảo; khu vực dưới mặt nước và đáy biển.
 Khu vực bờ và mép nước: phân bố không gian từ mép nước trở vào là nơi thiết
lập các cơ sở hạ tầng dịch vụ cho toàn hoạt động DLST biển-đảo (xây dựng
các khu nghỉ dưỡng sinh thái, resort, khách sạn, các băng rừng cây xanh tạo
sinh cảnh và chắn gió cát, đường sá, bến cảng, nhà hang,…). Các loại hình
khai thác tổng hợp bao gồm: du lịch khám phá đồi cát di động và rừng Savan,
tham gia nghỉ dưỡng biển, tham gia các hoạt động thể thao biển và giải trí trên
bờ, kết hợp tham gia các loại hình DLST văn hóa với cộng đồng ngư dân sống
ven biển (lễ hội Cầu Ngư, lễ hội Nghinh Ông Nam Hải, lễ tế tại các vạn chài,
homestay ở các làng chài ven biển và các làng chài nông ngư kết hợp…)
 Khu vực mặt nước và hải đảo: đây là vùng có không gian địa lý rộng lớn, toàn
bộ mặt biển và các hải đảo. Đối với khu vực mặt nước có thể tổ chức khai thác
các loại hình: thưởng ngoạn, câu cá bằng du thuyền; tham gia đánh bắt hải đặc
sản trên biển cùng với ngư dân, đua thuyền vượt đại dương, các môn thể thao


15


mạo hiểm trên biển,.. Đối với các hải đảo, đặc biệt với những đảo lớn có cư
dân hình thành lâu đời với các làng cá, vạn chài thì khai thác các loại hình
DLST tự nhiên và văn hóa như ở đất liền. Đối với các đảo hoang, cảnh quan
thiên nhiên hoang sơ và đẹp có thể tổ chức tham quan cảnh đẹp, khám phá,
cắm trại, câu cá, lặn biển, du lịch mạo hiểm,..
 Khu vực dưới mặt nước và đáy biển: để có thể tiếp cận đối tượng, đòi hỏi phải
có thiết bị chuyên dụng, hiện nay chỉ mới khai thác có mức độ, các loại hình
khai thác phổ biến gồm: lặn khảo sát khám phá, nghiên cứu khoa học, xem săn
bắt hải sản ở các rạn đá san hô, hang động biển, lặn khám phá các quần thể san
hô, cá,..
+ Những nét mới theo nhận định của tác giả:

- Dựa trên chu trình biện chứng phát triển: nêu rõ khái niệm DLST là loại hình du
lịch thay thế với yếu tố tích cực hơn du lịch đại chúng đang bộc lộ nhiều mâu thuẩn
trong việc khai thác-phát triển và bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên.
- Mở rộng đối tượng tham gia trong hoạt động DLST không những chỉ những du
khách mà còn đề cập đến những người tham gia tổ chức hoạt động du lịch sinh thái
(sketholders)
- Nêu rõ những du khách DLST là những người thực sự có tình cảm và trách nhiệm
với môi trường thiên nhiên, và họ có tình cảm thực đối với vẻ đẹp của thiên nhiên
cũng như tích cực đề cao giá trị của văn hóa bản địa.
- Khẳng định tính bền vững không những về mặt bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên
mà còn bảo tồn và phát triển một cách bền vững những giá trị văn hóa bản địa, cân
bằng về nguồn thu nhập cho người dân địa phương.
- Tác giả đã tổng hợp đưa ra khái niệm DLST đặc thù cho vùng biển và các hải đảo
với sự phân tích và tổ chức phân bổ hoạt động DLST cụ thể, theo trình tự có hệ thống
không gian địa lý liên quan: Du lịch sinh thái biển-đảo.
1.1.5 Tổ chức lãnh thổ DL- DLST:
Khái niệm: tổ chức lãnh thổ du lịch nói chung là sự phân vùng quy hoạch không gian
của du lịch căn cứ trên các điều kiện tài nguyên du lịch, hiện trạng các cơ sở hạ tầng,



16

cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động ngành cùng các mối liên hệ với điều kiện phát sinh
của ngành với các ngành khác, với các địa phương [22,45]
Tổ chức lãnh thổ DLST là môt bộ phận không thể tách rời của du lịch, trong DLST
việc tổ chức phân vùng tổ chức lãnh thổ được tổ chức chuyên môn hóa và chú trọng
nhiều hơn đến đặc điểm phân bố các tài nguyên DLST, đến lợi ích thụ hưởng của cộng
đồng, đến sự bảo tồn và phát triển tài nguyên này để đạt mục tiêu phát triển DLBV.
1.2 Những nguyên tắc và điều kiện cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
1.2.1 Những nguyên tắc của DLST bền vững:
Các cơ sở nền tảng ban đầu làm kim chỉ nam cho hoạt động DLST bao gồm:
-

Nghiên cứu và bảo tồn các giá trị thiên nhiên, giá trị văn hóa.

-

Tăng cường nội dung giáo dục môi trường.

-

Tổ chức đồng bộ và chuyên nghiệp về nghiệp vụ du lịch và lữ hành nhằm
giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường.

-

Hướng mọi khả năng đến việc góp phần bảo vệ môi trường.


Từ đó DLST khi hướng đến mục tiêu bền vững đã xây dựng các nguyên tắc cơ bản sau
đây:
a. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên một cách bền vững: bao gồm tài nguyên tự
nhiên, tài nguyên nhân văn. Cân đối hài hòa trong việc sử dụng một cách bền
vững nguồn tài nguyên là nền tảng cơ bản nhất của việc phát triển DLST .
b. Bảo tồn tính đa dạng về tự nhiên, văn hóa,… (chủng loài các hệ động thực vật,
bản sắc văn hóa dân tộc,…) vì DLST lấy bảo tồn là tiêu chí hàng đầu trong
hoạt động, khai thác du lịch chỉ là hoạt động thứ yếu.
c. Thúc đẩy chương trình giáo dục và huấn luyện để cải thiện, quản lý di sản và
các loại tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả. Tác động giảm thiểu mức
tiêu thụ tài nguyên hiện có, giảm thiểu lượng chất thải một cách triệt để nhằm
nâng cao chất lượng môi trường.
d. Trong quá trình khai thác họat động DLST, cần phối hợp mục tiêu hỗ trợ phát
triển kinh tế địa phương, vì trách nhiệm của DLST là đóng góp vào phúc lợi


17

của cộng đồng địa phương như là một sự đầu tư gián tiếp cho bảo tồn, góp
phần tạo tính tương tác bền vững cho hoạt động DLST từ địa bàn sở tại.
e. Phối hợp lồng ghép hài hòa giữa chiến lược phát triển du lịch của địa phương,
vùng và của quốc gia.
f. Tạo điều kiện thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương.Với sự tham gia
tích cực của cộng đồng sở tại không chỉ đem lại lợi ích cho riêng cộng đồng,
cho môi trường sinh thái mà còn góp phần tăng cường khả năng đáp ứng tính
đa dạng sản phẩm của DLST.
g. Triển khai các họat động tư vấn các nhóm lợi ích và công chúng. Tư vấn giữa
công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan nhằm
đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy
sinh.

h. Marketing du lịch một cách trung thực và có trách nhiệm. Phải cung cấp cho
du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn
trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa khu du lịch,
qua đó góp phần thỏa mãn nhu cầu của du khách.
i. Tổ chức đào tạo các thành viên quản lý, chuyên nghiệp hóa các nhân viên

phục vụ trong họat động kinh doanh du lịch nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
du lịch. [10,34]
1.2.2 Các điều kiện cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
Xuất phát từ nguyên tắc và mục tiêu của DLST, có thể tổng quát hóa các điều kiện
để phát triển DLST theo năm nội dung cơ bản sau đây:
- Điều kiện thứ nhất: để có thể tổ chức tốt được loại hình DLST tại một điểm đến điều
kiện trước tiên là ở đó phải tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa
dạng sinh học cao, có sức hấp dẫn du khách. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng
sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu khu vực và các động thực vật bao gồm: Sinh thái
tự nhiên (Natural Ecology); Sinh thái động vật (Animal Ecology); Sinh thái thực vật
(Plant Ecology); Sinh thái nông nghiệp điển hình (Agricultural Ecology); Sinh thái khí
hậu (Ecoclimate); Sinh thái nhân văn (Human Ecology) [10,32]


18

Các yếu tố sinh thái đặc thù nêu trên góp phần nêu bật tính chất DLST là loại hình
du lịch dựa vào thiên nhiên. Tuy nhiên ngày nay DLST cũng còn phát triển hoạt động
dưới nhiều loại hình khác như: du lịch sinh thái vùng nông thôn (Rural tourism), du
lịch trang trại điển hình (Farm tourism), DLST văn hóa (Cultural Ecotourism).
- Điều kiện thứ hai: nói lên tính chất quản lý tổ chức của con người nghĩa là:
+ Đòi hỏi tính chuyên nghiệp của nhân viên tác nghiệp trong hoạt động DLST. Vì
để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người
hướng dẫn viên du lịch ngoài khả năng về ngôn ngữ truyền đạt, còn là người có am

hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hóa cộng đồng sở tại. Yếu tố này rất quan
trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến đến hiệu quả của hoạt động DLST. Trong nhiều
trường hợp, cần thiết phải có sự cộng tác của người địa phương để có những hiểu biết
tốt nhất truyền đạt đến cho du khách.
+ Đòi hỏi người quản lý điều hành phải có nguyên tắc cụ thể. Trước đây các nhà
điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có bất kỳ
cam kết nào cho việc bảo tồn hoặc quản lý các khu thiên nhiên, họ chỉ đơn giản là tạo
cho du khách cơ hội để nhận biết những giá trị tự nhiên và văn hóa mặc cho sau này
những giá trị này suy giảm hay vĩnh viễn biến mất. Ngược lại các nhà điều hành và
quản lý DLST luôn có sự cộng tác chặt chẽ giữa với các nhà quản lý của những khu
bảo tồn thiên nhiên và cả cộng đồng địa phương để thiết lập những nguyên tác quản lý
với mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn
hóa bản địa, cải thiện cuộc sống và nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa
phương và khách du lịch.
- Điều kiện thứ ba: mục đích hạn chế đến mức tối đa các tác động có thể có do hoạt
động DLST gây ra cho tự nhiên và môi trường, do đó DLST phải tính đến điều kiện
“sức chứa” hoặc “sức tải”. Khái niệm sức chứa được hiểu ở 4 khía cạnh: vật lý, sinh
học, tâm lý học và xã hội học. Sức chứa về khía cạnh vật lý được hiểu là lượng khách
tối đa mà điểm đến DLST có thể tiếp nhận, điều này liên quan đến những tiêu chuẩn
tối thiểu về không gian đối với mỗi du khách cũng như đối với nhu cầu sinh hoạt của
họ. Công thức chung để xác định sức chứa của một điểm du lịch như sau:


19

AR
CPI = --------a

Trong đó: CPI: sức chứa thường xuyên (Instantaneous carrying capacity)
AR: Diện tích của khu vực du lịch (Size of Area )

a: Tiêu chuẩn không gian tối thiểu cho một du khách.[30,24]
Hoặc công thức liên quan đến sức chứa hàng ngày:
CPD = CPI x TR =

TR
a

Trong đó: CPD: Sức chứa hằng ngày (Daily Capacity)
TR: Công suất sử dụng mỗi ngày (Turnover rate of users per day)
- Điều kiện thứ tư: thỏa mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết của khách DLST. Việc thỏa
mãn những mong muốn của khách DLST với những kinh nghiệm, hiểu biết mới về tự
nhiên, văn hóa bản địa là một công việc rất phức tạp nhưng nó lại là yêu cầu thực sự
cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của DLST. Vì vậy những dịch vụ để làm hài lòng du
khách phải là ưu tiên hàng đầu chỉ đứng sau công tác bảo tồn những giá trị sinh thái tự
nhiên và giá trị xã hội.
- Điều kiện thứ năm: vì khách DLST luôn có nhu cầu và tư duy cao trong việc
thưởng ngoạn, đã biến loại hình du lịch này thành loại du lịch trí thức, tư duy tiên tiến.
Do đó phải xây dựng mẫu khách du lịch sinh thái điển hình, họ là những du khách
quan tâm thực sự đến giá trị tự nhiên và nhân văn ở khu vực thiên nhiên hoang dã.
1.3 Phát triển DLST bền vững ở vùng bờ biển-hải đảo:
1.3.1 Khái niệm không gian DLST vùng bờ-hải đảo: có rất nhiều cách xác định
vùng DLST bờ biển hoặc hải đảo (Coastal-Island Zones) dựa trên quan điểm thủy - địa
động lực, hải dương, địa sinh thái, quản lý phát triển, nhu cầu của du khách…Phát
triển DLST vùng biển đảo chú trọng đến không gian hẹp trong phạm vi tương tác biểnđảo, bờ và đại dương mà tại đó có các tài nguyên DLST thu hút du khách. Cụ thể đó
thường là vùng bờ biển cát có bãi tắm, các vách biển, vách núi trên các bờ hải đảo, các
vùng san hô ngầm, ven đảo và các dải đất hẹp ven biển dùng để phát triển cơ sở hạ
tầng du lịch, rừng ngập mặn, ám tiêu san hô, vùng vịnh, đầm phá, cửa sông, cồn cát,


20


các ngư trường gần bờ dùng cho phát triển du lịch câu cá, lặn khám phá…[Pearce và
Kirk,1986]
1.3.2 Các giai đoạn phát triển của DLST ven biển và hải đảo:
Theo Dobias (1989), trên cơ sở nghiên cứu các khu DL, DLST biển và đảo ở khu
vực Đông Nam Á đã đưa ra mô hình 5 giai đoạn của chu trình phát triển các khu du
lịch biển bờ và hải đảo như sau:
- Giai đoạn lều trại (bulgalow): các lều trại nhỏ được người dân điạ phương xây dựng
tạm thời nhằm thu hút chủ yếu khách du lịch nội địa và một ít khách DLST “ba lô” ít
tiền. thời kỳ này do hiểu biết về môi trường còn thấp nên đa phần lều trại đều xây
dựng ngay trên bãi biển và bờ đảo, hầu như không có hệ thống thu gom chất thải, nước
thải hầu như không được xử lý, tuy vậy tác động xấu đến môi trường còn vẫn không
đáng kể vì mức mức độ phát triển còn thấp (điển hình như ở Hòn Rơm-Mũi Né vào
năm 1995, và Vĩnh Hy năm 2005)
- Giai đoạn nâng cấp hình thành cơ sở nhỏ: người địa phương nâng cấp các lều trại của
họ trên bãi biển để đáp ứng nhu cầu của du khách, người bên ngoài bắt đầu mua đất để
kinh doanh DLST biển. Đường sá và điều kiện cơ sở hạ tầng bắt đầu được cải thiện,
tiện nghi lưu trú bắt đầu được nâng cao, thút nhiều đồi tượng du khách giàu có hơn.
Tác động xấu đến môi trường giai đoạn này vẫn chưa gia tăng. (như Hàm Tiến-Mũi
Né vào năm 2001).
- Giai đoạn phát triển các resort, khách sạn sang trọng, các khu DLST biển đảo tiện
nghi: giai đoạn này ngày càng có nhiều nhà đầu tư bên ngoài mua đất và bất động sản
của người địa phương để kinh doanh DL-DLST, các tài nguyên DLST ven bờ và vùng
hải đảo được quan tâm khai thác như các vùng sinh thái ven biển, các rạn san hô, vùng
ngư trường gần bờ. Hiện tượng gia tăng giá cả tại chỗ cùng với gia tăng lợi nhuận du
lịch. Bắt đầu xuất hiện suy thoái môi trường (Mũi Né từ năm 2005, đảo Cù lao Câu
2009)
- Giai đoạn phát triển mạnh khó kiểm soát: đa phần các cơ sở khách sạn, resort, khu
du DLST là do người bên ngoài sở hữu, họ đẩy mạnh khai thác. DL-DLST phát triển



21

mạnh vượt tầm kiểm soát của địa phương, suy thoái mô trường diễn ra nghiêm trọng.
(Hòn Rơm –Mũi Né, Đồi Dương –Phan Thiết 2009)
- Giai đoạn suy thoái trầm trọng: suy thoái trầm trọng môi trường và tài nguyên dẫn
đến các quy chế kiểm soát môi trường chặt chẽ hơn. Nhiều hành động kiểm soát
nghiêm ngặt được tiến hành nhằm kiểm soát tình trạng suy thoái (Mũi Né 2011, Vĩnh
Hy 2012, Tuy Phong 2011).
1.3.3 Tác động môi trƣờng của DLST ven biển:
Hoạt động DLST mặc dù cốt lõi là dựa vào thiên nhiên nhưng cũng gây nên những
tác động đến các phân hệ tự nhiên, kinh tế xã hội. Tuy nhiên tác động lên phân hệ tự
nhiên thường dễ phát hiện hơn lên các phân hệ còn lại. Các tác động ngắn hạn thường
liên quan đến các giai đoạn phát triển của điểm DLST, gồm các hoạt động san ủi mặt
bằng và xây dựng, lập cầu cảng ngăn dòng chảy biển, cải tạo cảnh quan…Các tác động
dài hạn liên quan đến hoạt động của điểm DLST như biến đổi sử dụng đất,xả thải, hoạt
động của du khách, chỗ làm việc, suy thoái cảnh quan, xâm hại đa dạng sinh
học…Hoạt động DLST thường rất mâu thuẫn với hoạt động kinh tế địa phương vì cả
hai đều sử dụng chung không gian môi trường nhưng phương hướng khách nhau.
1.3.4 Quy hoạch phát triển bền vững cho DLST biển đảo:
Theo Odum (1976) chia vùng bờ biển- hải đảo thành 3 đới chính: đới dành cho phát
triển DL-DLST; đới vùng đệm hạn chế phát triển; đới phải bảo tồn nghiêm ngặt. Trong
quy hoạch DLST biển đảo khả năng tải được hiểu là cường độ sử dụng tối đa môi
trường và tài nguyên nhưng không làm suy thoái. Theo Pearce và Kirk (1986) đề xuất
khả năng tải thich hợp cho các đới DLST biển đảo gồm:
Bảng 1.1 : Các loại khả năng tải ưu tiên của các đới DLST ven biển
Không gian

Môi trƣờng vùng bờ và hải đảo


Khả năng tải ƣu tiên

DLST
Đới dịch vụ và Vùng đất phía trong bờ và đảo

Khả năng tải kinh tế

tiện nghi DLST
Đới đệm

Cồn cát và các đồi đá ven đảo

Khả năng tải sinh thái


22

……………………………………….. Khả năng tải xã hội
Đới hoạt động
nghỉ dưỡng

………………...............
Khả năng tải sinh thái

Biển

(Nguồn: Pearce và Kirk, 1986)
Một số tiêu chuẩn quy hoạch DLST được áp dụng ở một số nước Đông Nam Á và lân
cận:
 Ở Indonesia (Bali): kể từ mép nước trở vào 100m không được xây dựng bất cứ

công trình nào; nhà không cao quá 15m; mật độ phòng nghỉ không quá 85/1ha;
mật độ cây xanh trong khu du lịch phải từ 45% tổng diện tích, các khu DLST,
các resort , khách sạn tối thiểu cách nhau 30m.
 Ở ThaiLand (Phukhet): mật độ phòng tối đa 32,5 phòng/ 1 ha; nhà không quá
4 lầu; diện tích xây dựng không quá 10% diện tích mặt bằng; các khu DLDLST, khách sạn nhà hàng phải có công trình xử lý nước và rác…
 Ở Mandives: cứ hai đảo nhỏ mới được xây dựng một khu DL hoặc DLST; các
công ty du lịch có trách nhiệm xử lý toàn bộ chất thải của họ; khu DLST nhỏ
hơn 20% diện tích của đảo; nhà xây không quá 2 lầu và phải bị che khuất bởi
cây xanh (không cao quá ngọn cây); dọc bờ biển đảo phải ưu tiên để trống
12% chiều dài, 20% dành cho tiện nghi du lịch chung; mỗi điểm DLST không
đón quá 200 du khách.
Như vậy tổng hợp lại, để phát triển DLST bền vững vùng bờ biển và hải đảo, cần
được lồng ghép vào chiến lược quản lý tổng hợp vùng bờ và hải đảo của địa phương.
Quy hoạch DLST bền vững cần bao gồm những quy chế quản lý và kiểm soát chất
thải, chống xói mòn bờ bãi, duy trì bãi, bảo vệ rạn san hô và các hệ sinh thái nhạy cảm
khác cũng như các khu vực thích hợp cho phát triển DLST. Chính quyền địa phương
và cộng đồng cần tham gia vào việc hoạch định và thi hành quy hoạch DLST để giảm
xáo trộn về văn hóa - xã hội. Cần xây dựng các quy chế công nhận nhãn xanh, nhãn
sinh thái trong quy hoạch.
1.4 Tính tất yếu về sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động DLST:


23

Sự trải nghiệm của du khách tại điểm đến nhìn chung thường chịu ảnh hưởng của
thái độ của người dân địa phương đối với hoạt động DLST và khách du lịch. Sự tiếp
xúc ngắn ngủi giữa du khách và người dân bản địa có thể góp phần làm cho trải
nghiệm DLST trở nên hoàn hảo hoặc ngược lại. Sự tham gia của cộng đồng là một
trong những đặc điểm quan trọng nhất trong quá trình phát triển DLST. Điều này được
xem là thách thức và cũng là cơ hội lớn cho cả cộng đồng địa phương và các bên tham

gia. Do đó, cần xây dựng những định hướng phát triển phù hợp cùng với những hành
động kịp thời nhằm nâng cao năng lực của cộng đồng địa phương và thúc đẩy sự tham
gia của họ vào phát triển DLST [72,45]
* Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động DLST rất cần thiết là vì:
- Cộng đồng địa phương chính là người đầu tiên tiếp xúc khai thác sử dụng và có kinh
nghiệm quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa ở địa phương qua nhiều
thế hệ. Do đó, nếu họ nhận được những lợi ích thiết thực từ việc tham gia trong hoạt
động DLST thì có thể họ sẽ cam kết mạnh mẽ hơn nữa đối với quản lý bền vững các
nguồn tài nguyên này.
- Nếu cộng đồng địa phương được tham gia vào phát triển DLST thì họ sẽ càng có
thiện cảm với hoạt động DLST và những kết quả đạt được từ hoạt động này cũng sẽ
cao hơn.
- Kinh nghiệm và những hiểu biết về các nguồn tài nguyên bản địa của người dân địa
phương sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm DLST.
- Cộng đồng địa phương là những người trực tiếp tiếp xúc với du khách hàng ngày, do
đó nếu người dân có thái độ tích cực với đối với hoạt động DLST thông qua việc cùng
tham gia, hưởng lợi và cùng quyết định thì điều này sẽ mang lại những nguồn lợi đáng
kể cho chính họ, cũng như thỏa mãn được nhu cầu du khách.
1.5 Tài nguyên du lịch sinh thái:
1.5.1 Khái niệm tài nguyên DLST: tài nguyên DLST là một khái niệm rất rộng bao
gồm các yếu tố cơ bản để tạo nên các điểm, các tuyến hoặc khu DLST; có thể bao gồm
các cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, giá trị nhân văn, các công trình do nhân
loại tạo nên có thể được sử dụng để nhằm thỏa mãn cho nhu cầu về DLST.


24

Khái niệm về tài nguyên du lịch, theo Luật Du lịch 2005: “ là cảnh quan thiên
nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử-văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con
người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du

lịch, là các yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô
thị du lịch”. [27,7]
Có hai loại tài nguyên du lịch:
- Tài nguyên du lịch thiên nhiên: bao gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo,
khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ
mục đích du lịch.
- Tài nguyên du lịch nhân văn: bao gồm các truyền thống văn hóa, các yếu tố văn
hóa, văn nghệ nhân gian, di tích lịch sử-cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công
trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể
khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.
Như vậy rõ ràng tài nguyên DLST lấy cơ sở từ nguồn tài nguyên thiên nhiên và
văn hóa – nhân văn bản địa. Tuy nhiên các giá trị tự nhiên thể hiện trong một hệ sinh
thái cụ thể nào đó và các giá trị văn hóa nhân văn bản địa tồn tại và phát triển không
tách rời khỏi hệ sinh thái tự nhiên đó. Cũng như các giá trị thiên nhiên, các giá trị văn
hóa bản địa chỉ trở thành tài nguyên DLST một khi nó được khai thác để tạo ra sản
phẩm phục vụ cho mục đích phát triển du lịch.
Nhìn chung tài nguyên DLST rất đa dạng và phong phú, thông thường người ta đưa
vào khai thác và phục vụ một số dạng tài nguyên DLST chính bao gồm:
 Các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù và tập trung chú ý đến những nơi có tính đa
dạng sinh học cao với nhiều loại sinh vật đặc hữu, quý hiếm (như ở các vườn
QG, khu Bảo tồn thiên nhiên, các khu dự trữ sinh quyển…)
 Các hệ sinh thái nông nghiệp (vườn cây ăn trái, làng hoa, vườn trang trại…)
 Các giá trị văn hóa bản địa hình thành và phát triển có sự gắn kết với sự tồn tại
của hệ sinh thái tự nhiên như các phương thức canh tác truyền thống, các lễ
hội, các sinh họat truyền thống của cộng đồng…
 Các di sản văn hoá bản địa truyền thống (gồm văn hoá vật thể và phi vật thể)


25


1.5.2 Môi trƣờng và hệ sinh thái:
1.5.2.1 Khái niệm môi trƣờng:
-

Môi trường: “Môi trường là tổng hợp ở một thời điểm nhất định các trạng thái
vật lý, hóa học, sinh học và các yếu tố xã hội có khả năng gây ra một tác động
trực tiếp hay gián tiếp, tức thời hay theo kỳ hạn đối với các sinh vật hay đối với
các hoạt động của con người.” [11,33]

-

Định nghĩa môi trường trong Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (1993): “
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.

1.5.2.2 Hệ sinh thái môi trƣờng: Hệ sinh thái môi trường (Environmental
ecosystem) là một hệ thống bao gồm các quần xã sinh vật và con người, có cùng các
điều kiện môi trường bao quanh nó với sự tương tác lẫn nhau, liên tục không ngừng
mà kết quả của sự tác động đó quyết định đến chiều hướng phát triển của quần xã và
sinh cảnh của toàn hệ.

[10,57]

. Các HST chủ yếu bao gồm: HST rừng nhiệt đới; HST

núi cao; HST đất ngập nước; HST sông, hồ, suối thác; HST nông nghiệp (vườn, trang
trại); HST biển, đảo; HST đồng cỏ tự nhiên. Phần lớn các HST này thường tập trung
quanh các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên nên việc khai thác các tiềm năng DLST để
phục vụ phát triển du lịch thường gắn với các khu vực này.

1.5.2.3 Đa dạng sinh học: Công ước Quốc tế về ĐDSH định nghĩa: “ĐDSH là sự
khác biệt trong mọi cơ thể sống có từ mọi nguồn, từ các HST ở đất liền, ở biển, và ở
các HST khác ở nước, và mọi tổ hợp sinh thái mà các cơ thể sống là thành phần hợp
thành; ĐDSH cũng bao gồm sự đa dạng trong loài, giữa các loài và các HST. ĐDSH
bao gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các phần của cơ thể, các
chủng quần, hay các hợp phần sinh học khác của HST, hiện đang có giá trị sử dụng
hay có tiềm năng sử dụng cho loài người”.
Nói ngắn gọn, ĐDSH là mức độ phong phú của thiên nhiên sống, là toàn bộ tài nguyên
thiên nhiên tạo nên do tất cả các dạng sống trên trái đất. ĐDSH có ba mức độ chính: đa
dạng di truyền; đa dạng loài; đa dạng sinh thái.


26

1.5.3 Đặc điểm của tài nguyên DLST :
a. Tài nguyên DLST rất phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên có
giá trị vô cùng to lớn và đặc sắc
b. Tài nguyên DLST rất nhạy cảm với các tác động
c. Tài nguyên DLST có thời gian khai thác khác nhau
d. Tài nguyên DLST thường nằm xa các khu dân cư và được khai thác ngay tại
chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch
e. Tài nguyên DLST có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài
Tuy nhiên để có điều kiện khai thác tài nguyên DLST một cách hiệu quả đòi hỏi
phải có được một hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi, đồng bộ, từ đó mới tạo nên các
tuyến điểm du lịch nối đến các vùng tài nguyên hấp dẫn này.
1.6 Các tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển DLST bền vững:
Cơ sở để đánh giá sự phát triển bền vững của một chủ thể du lịch là những tiêu chuẩn
hoặc yếu tố được dùng để đánh giá quá trình hoạt động, để so sánh về mặt không gian
và thời gian ở phạm vi vĩ mô hoặc vi mô của nền kinh tế xã hội. Các nhóm tiêu chuẩn
hoặc yếu tố dùng làm cơ sở để đánh giá sự phát triển DLST theo hướng bền vững bao

gồm 3 tiêu chuẩn chính như sau:
1.6.1 Tiêu chuẩn về kinh tế:
Tiêu chuẩn đánh giá là:
- Mức tăng trưởng kinh tế do quá trình phát triển đem lại
- Mức đóng góp cho phát triển kinh tế địa phương.
- Sự phát triển phù hợp với mục tiêu đề ra trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
của quốc gia và địa phương.
1.6.2 Tiêu chuẩn về xã hội, con ngƣời:
- Sự khai thác hợp lý các giá trị văn hóa-xã hội
- Giáo dục, xây dựng, phục hồi và phát triển văn hóa truyền thống của dân tộc
- Sự hưởng thụ về văn hóa, mức sống và sinh hoạt của cộng động được cải thiện.
1.6.3 Tiêu chuẩn về môi trƣờng:
- Mức độ khai thác và bảo vệ tài nguyên.


27

- Sức chứa của các điểm đến DLST, mật độ phát triển cho phép.
- Quản lý môi trường của những hoạt động phát triển, quản lý chất thải.
- Bảo vệ ĐDSH và hệ sinh thái bằng việc giáo dục nâng cao nhận thức tôn trọng, bảo
vệ và phục hồi hệ sinh thái cho các địa phương tham gia vào hoạt động phát triển.
Các tiêu chuẩn đánh giá nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho việc định
lượng và định tính về những hoạt động phát triển cho một quốc gia, một vùng, một
tỉnh và từng doanh nghiệp như: giúp cho các nhà hoạch định chiến lược và đề ra chính
sách, xác định nhiệm vụ, mục tiêu phát triển DLST bền vững; giúp đưa ra các quyết
định, chương trình hoạt động để đạt được nhiệm vụ và mục tiêu phát triển bền vững.
1.7 DLST dựa vào cộng đồng góp phần phát triển bền vững:
Theo TIES và UNEP (2005): “DLST dựa vào cộng đồng (Community-Based
Ecotourism) là loại hình tập trung vào sự tham gia của người dân địa phương trong
việc quản lý DLST và phân phối lợi nhuận. Loại hình DLST này phải được tổ chức bởi

người dân địa phương và vì người dân địa phương, gắn trách nhiệm của họ với việc
quản lý, khai thác và bảo tồn các tài nguyên DLST tự nhiên và nhân văn bản địa.
DLST dựa vào cộng đồng cũng hỗ trợ cho cho việc phân phối một cách công bằng lợi
nhuận thu được từ DLST như là một nguồn thu nhập thứ hai. Phần lớn lợi nhuận do
DLST mang lại thuộc về địa phương. Các thành viên của cộng đồng dù không tham
gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh du lịch cũng sẽ có cơ hội hưởng lợi phần
nào thông qua các quỹ hỗ trợ phát triển cộng đồng hay do các hiệu quả kinh tế liên đới
do DLST mang lại”[58,47].
Mục đích của DLST dựa vào cộng đồng bao gồm 5 nội dung cơ bản như sau:
-

Bảo tồn các nguồn tài nguyên văn hóa và thiên nhiên

-

Tạo ra các phúc lợi kinh tế và những phúc lợi khác cho cộng đồng.

-

Thúc đẩy và trao quyền cho các cộng đồng nhằm xây dựng quyền sở hữu các
nguồn tài nguyên.

-

Đảm bảo chất lượng thỏa mãn cho du khách.

-

Đảm bảo sự quản lý theo hướng DLST bền vững. [58,28]



28

1.8 Những kinh nghiệm phát triển DLST ở một số nƣớc Asean và những vấn đề
rút ra cho Việt Nam:
Trong năm năm trở lại đây, một số nước trong khu vực Đông Nam Á, với xuất phát
điểm và điều kiện kinh tế - xã hội khá tương đồng với Việt Nam, nhưng với những
chính sách đầu tư, cơ chế quản lý thông thoáng cũng như các biện pháp phát triển
DLST thích hợp đã góp phần đưa hoạt động DLST nói riêng và ngành du lịch nói
chung phát triển đạt nhiều kết quả vượt trội. Đúc kết lại những kinh nghiệm cả trên
góc độ vĩ mô cũng như vi mô về xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược phát triển
DLST của các nước lận cận thuộc khối Asean trên một số vùng, miền cụ thể,... sẽ có
giá trị tham khảo hết sức bổ ích cho nhiều vùng, tỉnh và nhiều điểm đến DLST của
Việt Nam nhất là vùng DHCNTB hiện nay.
1.8.1 Kinh nghiệm của Thái Lan về phát triển DLST văn hóa tại các tỉnh vùng
Đông Bắc: Chieng Rai và Chieng Mai
+ Nét tương đồng : vùng DHCNTB có ¾ diện tích là trung du và miền núi, ở đây có
hàng trăm làng nghề truyền thống cùng với nền văn hóa giàu bản sắc của nhiều dân
tộc, đang trải qua những giai đoạn phát triển khó khăn như vùng Đông Bắc Thái Lan
của những thập niên trước đây.
Vùng Đông Bắc Thái Lan là vùng miền núi, dân cư thưa thớt và nghèo, nhưng vốn
là là cố đô cũ của Thái Lan nên có bề dày phát triển về di sản văn hóa di tích và các
làng nghề truyền thống nỗi tiếng lâu đời của nhiều cộng đồng dân tộc. Trong thập niên
90 vừa qua, trước thực trạng làng nghề dần mai một, thu nhập dân cư địa phương rất
thấp, du lịch chưa phát triển. Năm 1999, theo sáng kiến của Cục Xúc tiến xuất khẩu
(DEP) thuộc Bộ Thương mại Thái Lan phối hợp với Bộ Du lịch và Thể thao đã phát
động phong trào « mỗi làng một nghề » hay còn gọi là phong trào OTOP (one
Tambon-one product). Chương trình triển khai đầu tiên tại vùng Đông Bắc Thái Lan ở
hai tỉnh Chiêng Rai và Chieng Mai nhưng tập trung chính tại Chiêng Mai nơi có hoạt
động du lịch khá phát triển. Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện có hơn 70 làng nghề

được khôi phục và phát triển trong đó có 19 làng nghề phát triển mạnh trở thành những
điểm đến du lịch nổi tiếng thu hút du khách quốc tế đến tham quan mua sắm hàng lưu


29

niệm thủ công mỹ nghệ theo các tour DLST. Cụ thể ở Chieng Mai có các làng: Baan
Tawai, Baan Sri Pun-Krua, Baan Wua-Lai, Baan Muang Goong, Baan Roy Jaan, Baan
Noling Arb Chang, Baan Don Kaew, Baan Bor-Sarug, Baan John Pheung,… Ở Chiêng
Rai có Mae Khao Tom Suk, Mae Kham, Tao Wiang Kalong,…Các chính sách được áp
dụng tạo nên những thành công được tổ chức UNWTO ghi nhận và đúc kết đó là :
+ Chính quyền cấp tỉnh ngay từ đầu đã quan tâm hỗ trợ cho các làng nghề ở các khâu :
hỗ trợ các nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ, tổ chức huấn luyện và chuyển giao
công nghệ cho nông dân, phối hợp với các Bộ ngành trung ương hỗ trợ khâu tiếp thị,
xúc tiến bán hàng,…
+Tổ chức phát triển các trung tâm nghiên cứu và đào tạo nghệ nhân trên địa bàn mỗi
tỉnh (kinh phí do tỉnh hỗ trợ).
+Khuyến khích khôi phục và bảo tồn các giá trị bản sắc văn hóa địa phương, lưu giữ
và chuyển hóa các kết tinh vào từng sản phẩm và việc phát huy tính sáng tạo của người
thợ thủ công, các nghệ nhân để làm ra các sản phẩm này.
+Sau khi chương trình OTOP được áp dụng, trong vòng 2 năm chương trình đã đem
lại 3,66 tỷ Bath (khoảng 84,2 triệu USD) lợi nhuận cho nông dân và thúc đẩy phát
triển hoạt động du lịch nói chung và DLST văn hóa nói riêng ở các vùng sâu của Thái
Lan (TAT, Report 2005).
+Chính phủ Thái Lan từ cấp TW đến cấp tỉnh, có chính sách khuyến khích các làng
nghề sản xuất sản phẩm phục vụ du lịch chất lượng cao theo bộ tiêu chuẩn được chính
phủ công nhận trong đó phân chia chất lượng sản phẩm ra làm 5 cấp, từ cấp 1 sao đến
5 sao. Chính quyền đặc biệt hỗ trợ cho các sản phẩm đạt từ cấp 3 sao trở lên, cấp 5 sao
được ưu tiên nhất, nhờ vậy các làng nghề luôn phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm
nhằm nhận được sự hỗ trợ lớn từ chính phủ (Làng Baan Tawai, thuộc huyện Hang

Dong, tỉnh Chieng Mai là làng OTOP năm 2004 đạt giải thưởng sản phẩm cao cấp đầu
tiên do Bộ Du lịch và Thể Thao Thái Lan xét tặng) (TAT, Report 2005).
+Tổ chức khôi phục phát triển các làng nghề truyền thống còn tạo ra giá trị ở nhiều
lĩnh vực: bảo tồn và nâng cao kỹ năng nghề cho nghệ nhân và người tham gia, giữ gìn
bản sắc giá trị tri thức văn hóa truyền thống, tạo công ăn việc làm cho bộ phận người


30

dân ở nông thôn, phát triển du lịch thông qua việc cung ứng các sản phẩm du lịch từ
làng nghề ngay tại các điểm tham quan của du khách.
+ Chính quyền các tỉnh còn khuyến khích việc tổ chức các hình thức chợ đường phố
(Kad), chợ đêm (night bazaar) nhằm tạo điều kiện cho các làng nghề đem giới thiệu và
bán các sản phẩm do mình làm ra cho du khách.
+ Các sản phẩm mang nhãn OTOP được chính phủ ưu tiên trưng bày trong các hội chợ
thương mại quốc tế, được hưởng chính sách miễn hoặc giảm thuế.
+ Các tỉnh và các doanh nghiệp du lịch hỗ trợ cho các trường đại học, các viện nghiên
cứu trong việc nghiên cứu thiết kế sản phẩm, ứng dụng công nghệ thông tin, nhằm cải
tiến và nâng cao chất lượng các sản phẩm OTOP, giúp xây dựng các trang thông tin
của địa phương để quảng bá sản phẩm, giúp khách hàng nước ngoài và du khách trong
nước có thể đặt mua hàng qua mạng.
+ Chính quyền các tỉnh còn hỗ trợ cho các doanh nghiệp du lịch lữ hành tổ chức
thường xuyên các chuyến du lịch đến các làng nghề để du khách nước ngoài có thể tận
mắt thấy được sinh hoạt làng nghề, quy trình sản xuất các sản phẩm OTOP như thế
nào, và có thể tự mình sản xuất ra các sản phẩm ấy.
+ Ngoài việc tạo ra những sản phẩm độc đáo từ các làng nghề để thu hút du khách,
các doanh nghiệp du lịch Thái Lan và các địa phương còn biết cách thu hút và giữ
chân du khách bằng cung cách phục vụ rất uyển chuyển, khéo léo và thân thiện của
những nhân viên du lịch chuyên nghiệp, đến những người dân địa phương luôn tươi
cười, niềm nở, thân thiện với du khách.

+Để phát triển bền vững du lịch sinh thái văn hoá, Chính phủ và các cơ quan hữu
quan của Thái Lan, các tổ chức phi chính phủ đã kết hợp với các doanh nghiệp lữ hành
trong nước phát động một phong trào nhằm khôi phục lại giá trị nguyên bản của văn
hoá và đất nước Thái Lan (điển hình là dự án du lịch văn hoá cộng đồng tại bản Karen
–Baan Huay Hee). Trọng tâm của phong trào là phát triển du lịch sinh thái, gắn du lịch
với bảo vệ môi trường, cảnh quan và các giá trị truyền thống của đất nước. Mục tiêu
của các chương trình DLST văn hoá tập trung vào 4 mục tiêu chính: nâng cao chất
lượng cuộc sống của dân cư, bảo tồn và củng cố nền văn hoá bản địa, khuyến khích


31

động viên dân cư tự quyết định cách sinh sống cuả họ, đóng góp cho sự bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên và môi trường.
Các chương trình này được đúc kết và nhân rộng cho hơn 60 bản làng văn hoá khác
và đã mang lại nhiều kết quả to lớn và thiết thực. Thông qua các chương trình du lịch
sinh thái cộng đồng, nhiều làng mạc hẻo lánh vùng nông thôn đặc biệt là vùng Đông
Bắc Thái Lan như Mae Hong Son, Hang Dong,…Ngày nay trở thành những điểm đến
DLST hấp dẫn, dân cư trong vùng nhận thức được du lịch đã tạo thêm thu nhập cho
họ, thông qua đào tạo nghề thủ công truyền thống, huấn luyện người dân địa phương
biết sử dụng kiến thức vốn có của mình về phương pháp canh tác nông nghiệp truyền
thống để tự nuôi mình và giới thiệu cho khách du lịch tầm quan trọng của nông nghiệp
trong đời sống của họ….
Bên cạnh đó, chính phủ Thái Lan kêu gọi các khu làng mạc ở vùng nông thôn hãy giữ
nguyên vẻ đẹp nguyên sơ của mình, bảo vệ cây cối và giảm tiếng ồn, gìn giữ phong
cách kiến trúc Thái Lan.
Thái Lan là nước trong khối Asean có những điều kiện kinh tế xã hội khá tương
đồng với Việt Nam đặc biệt là vùng Đông Bắc gồm hai tỉnh Chieng Rai, Chieng Mai
nơi có tài nguyên phong phú đa dạng, về trình độ quản lý, các tập quán văn hóa truyền
thống, các làng nghề hiện có và các điều kiện dân sinh kinh tế khác rất tương tự với

vùng DHCNTB… Đặc biệt Thái Lan là quốc gia được quốc tế đánh gía cao vì có
những bước đi hợp lý và hiệu quả trong việc khai thác phát triển các hoạt động du lịch
và DLST ở những vùng chậm phát triển. Do đó những nội dung trên là những bài học
kinh nghiệm quý báu phát triển DLST gắn với phát triển cộng đồng để chúng ta đúc
kết và vận dụng.
1.8.2 Kinh nghiệm của Indonesia: xây dựng thành công vùng du lịch biển đảo
Bali
+ Nét tương đồng: Vùng biển đảo Bali trước đây là vùng kém phát triển, hoang sơ, tài
nguyên DLST chủ yếu là biển-đảo và văn hóa truyền thống, nhưng nhờ các chính sách
vĩ mô và vi mô đúng đắn, đặc biệt là sự năng động của chính quyền địa phương cấp
tỉnh, vùng, cùng sự phối hợp của các doanh nghiệp du lịch-dịch vụ, các tổ chức phi


32

chính phủ gắn với phát triển cộng đồng sở tại đã làm thay đổi một vùng biển đảo
hoang sơ thành khu du lịch sinh thái nỗi tiếng trên giới.
Indonesia là một quốc gia với tập hợp quần đảo rộng lớn, rừng nhiệt đới có diện
tích lớn nhất so với các nước Đông Nam Á, Indonesia có nhiều thiên đường biển đảo
đẹp, nổi tiếng trên thế giới. Chính phủ Indonesia đã sớm đề ra chiến lược du lịch định
hướng thiên nhiên, bảo tồn và duy trì đa dạng sinh học, phát huy bản sắc văn hoá độc
đáo của dân tộc hướng tới phát triển du lịch bền vững, nhờ vậy các năm qua tuy liên
tiếp bị thiên tai, khủng bố nhưng tốc độ phát triển của ngành kinh tế du lịch trong nước
vẫn được duy trì. Năm 2010, lượng khách du lịch quốc tế vẫn đạt khá cao khoảng
5,185 triệu lượt khách, thu nhập du lịch từ khách quốc tế hàng năm đạt trung bình từ
5,1 – 5,8 tỷ USD. [37, 21]
* Bài học kinh nghiệm từ việc xây dựng mô hình du lịch vùng biển đảo Bali:
Năm 1990, dưới sự hỗ trợ của tổ chức UNDP, dự án quy hoạch tổng thể khu du lịch
được xây dựng, và được Chính phủ thông qua.
Mô hình du lịch được định hướng và xác lập với các đặc điểm:

Dự án phát triển du lịch bền vững của Bali nhằm quản lý du lịch và quy hoạch phát
triển toàn diện cho một vùng địa lý kinh tế cụ thể. Quy hoạch nhằm tạo ra sự phát triển
cân bằng, đã tập trung định hướng thành 16 vùng hiện có, đồng thời bổ sung các vùng
mới, vùng biển đảo, đất liền. Ở 16 vùng được chia làm ba loại chính: vùng biển phía
Nam Bali, các vùng biển khác, vùng đất liền. Ba loại vùng được phân biệt về cơ bản
theo các đặc trưng: tài nguyên thiên nhiên, cường độ phát triển, các loại hoạt động, đặc
điểm nguồn khách. Mỗi vùng đều có chính sách phát triển khác nhau dựa trên đặc
trưng cơ bản.
Dự án bao gồm ba đặc điểm và bảy tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển bền vững gồm:
+ Ba đặc điểm:
 Duy trì các nguồn tài nguyên sản xuất
 Giữ vững bản chất văn hoá và sự cân bằng trong văn hoá
 Phát triển là một quá trình tăng chất lượng cuộc sống
+ Bảy tiêu chuẩn đánh gía:


33

 Hệ sinh thái
 Hiệu quả
 Công bằng
 Bản sắc văn hoá
 Cộng đồng
 Cân bằng
 Phát triển
+ Dự án du lịch Bali hội đủ các cơ hội phát triển bền vững:
 Nền văn hoá đặc sắc, giàu bản sắc, nhiều đền chùa, các điệu nhảy, âm nhạc,
nghệ thuật truyền thống
 Môi trường tự nhiên phong phú và đa dạng
 Môi trường cuộc sống hấp dẫn, sống động

 Các hoạt động thúc đẩy du lịch.
+ Dự án cũng đứng trước những thách thức:
 Phải hòa giải mâu thuẫn giữa ưu tiên quốc gia và ưu tiên địa phương.
 Phải giải quyết các vấn đề mất cân đối trong vùng thông qua đa dạng các loại
hình, quy mô phát triển du lịch một cách thích hợp.
 Phải tăng cường liên kết tích cực giữa du lịch và các thành phần kinh tế khác,
quản lý sự cạnh tranh giữa các ngành trong việc sử dụng nguồn tài nguyên, đảm
bảo thu lợi và phân phối đồng đều trong cộng đồng.
 Phải đảm bảo chất lượng môi trường tự nhiên được duy trì, giải quyết các vấn
đề xói mòn biển, cung cấp và chất lượng nguồn nước, cung cấp năng lượng và
xử lý chất thải, sự thay đổi của đất, sự phá huỷ rừng.
 Phải tính toán, theo dõi các quản lý các chuyển biến về văn hoá xã hội.
 Phải nâng cấp cơ sở hạ tầng.
 Phải cân bằng giữa nhu cầu của khách và dân địa phương.
+ Các chính sách làm cơ sở cho phát triển du lịch:
Có bốn yếu tố cơ bản để xác định các loại hình du lịch thích hợp cho Bali:
 Loại hình thu hút: văn hoá, tự nhiên và giải trí.


34

 Sự phân bổ giữa đất liền và bờ biển.
 Các đặc điểm của vùng: có ba loại tiềm năng du lịch khác nhau là điểm, tuyến,
phạm vi rộng.
 Thực trạng phát triển: phát triển nhanh, phát triển và kém phát triển.
Chính phủ Indonesia đã thực hiện quy hoạch phát triển bền vững toàn vùng Bali rồi
mới quy hoạch bền vững chi tiết ở địa phương và đảm bảo sự thống nhất từ vùng đến
địa phương.
* Kinh nghiệm quản lý trên tầm vi mô: đối với sự thành công của dự án phát triển
vùng Bali: Dưới sự hỗ trợ của chính quyền trong vùng về các mặt như đất đai, cơ sở hạ

tầng, chính sách xúc tiến quảng bá hướng dẫn lập quy hoạch… Các doanh nghiệp du
lịch ở Indonesia đã phối hợp chặt chẽ với các ngành kinh doanh khác và các địa
phương để khai thác các yếu tố văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, phối hợp hài hòa giữa
các loại hình DLST nhờ vậy nhiều vùng miền ở Indonesia luôn có những sản phẩm du
lịch đặc thù và đa dạng.
Dưới sự hỗ trợ hướng dẫn của các cơ quan quản lý của chính phủ, các doanh nghiệp
du lịch, các hợp tác xã, các tổ chức cộng đồng địa phương đã chủ động xây dựng nội
dung quy hoạch phát triển các khu DLST do mình quản lý dựa theo các tiêu chí thống
nhất gồm:
(i)

Đánh giá sự giàu có và độc đáo của tài nguyên DLST hiện có (Hệ sinh thái,
Thực vật, động vật đặc hữu và cảnh quan thiên nhiên, nền văn hóa truyền
thống và các di sản,…)

(ii)

Nền văn hóa truyền thống bản địa (yếu tố đa văn hóa kết hợp)

(iii)

Nhu cầu của khách DLST, các sản phẩm chủ lực.

(iv)

Cung cấp các lợi ích kinh tế xã hội nhằm cải thiện cuộc sống cho cộng đồng
địa phương trong quá trình hoạt động

(v)


Các mối đe dọa đến HST, ô nhiễm khi khai thác tài nguyên

(vi)

Đầu tư cơ sở hạ tầng, gắn kết với hệ thống giao thông đến các khu DLST

(vii)

Phạm vi đất đai được giao hoặc thuê.


35

Một kinh nghiệm quan trọng được rút ra đó là việc tận dụng tối đa về các nguồn tài
nguyên du lịch nhân văn để phát triển DLST văn hóa. Các doanh nghiệp du lịch biết
lựa chọn những nội dung nỗi trội đặc sắc về văn hóa của địa phương với sự tham gia
chủ động của cộng đồng để tạo ra sản phẩm du lịch văn hóa đáp ứng nhu cầu du khách
(trùng tu chùa chiềng, đền đài-nhà cửa, khôi phục lễ hội văn hóa truyền thống) Thông
thường các nước thuộc Asean, khi khai thác phát triển DLST để thu hút khách du lịch
đều dựa vào tài nguyên thiên nhiên là chính (chiếm tỷ trọng 90%) và Tài nguyên văn
hóa (ở mức 10%), nhưng đối với Indonesia các tỷ lệ này có thể khác là 60% dựa vào
thiên nhiên, 40% dựa vào yếu tố văn hóa (Galot

Sudarto,Phát triển DLST ở Inđônêsia,2008).Phát

triển DLST dựa trên yếu tố văn hóa đã giúp cho người dân trong cộng đồng tự hào về
bản sắc văn hóa của mình hơn, ý thức được DLST không chỉ là công cụ giúp cải thiện
điều kiện kinh tế mà còn là công cụ để bảo tồn, được sử dụng để quảng bá triết lý phát
triển bền vững (ví dụ thành công như ở vùng Ubud-Bali)
1.8.3 Kinh nghiệm của Maylaysia: phát triển loại hình DLST văn hóa gắn kết với

du lịch cộng đồng – Homestay.
+ Nét tương đồng: Vùng DHCNTB hiện có trên 1040 làng bản, trong đó có khoảng
400 làng nông nghiệp, ngư nghiệp ven biển và hơn 250 làng bản vùng trung du, miền
núi tiếp giáp với Lâm Đồng có nhiều điều kiện có thể triển khai loại hình du lịch
homestay để thu hút khách DLST, hiện tại loại hinh này đang dần có thị trường khách
(như vùng ven Phan Thiết, Phan Rang) nhưng bị bỏ ngỏ vì các địa phương và các
công ty du lịch chưa có kinh nghiệm triển khai.
Trong vòng 10 năm, về khối lượng, Malaysia đã gia tăng gấp ba lượng khách quốc
tế, từ 7,93 triệu lượt người năm 1999 lên 24,6 triệu lượt khách năm 2010, doanh thu du
lịch gần 3,8 lần từ 3,969 tỷ USD tăng lên 15,27 tỷ, năm 2010, tỷ trọng du lịch trong
GDP là 5,6% xếp hàng thứ hai trong các ngành có ngoại tệ lớn nhất nước. Theo thống
kê của UNWTO trong vùng Châu Á–Thái Bình dương, lượng khách quốc tế đến
Malaysia chiếm hàng thứ hai chỉ sau cường quốc du lịch là Trung Quốc [37,49]
Malaysia là một quốc gia rất coi trọng đến phát triển du lịch nói chung và DLST sinh
thái nói riêng. Hiện nay, trong các tour du khách chọn điểm đến Malaysia, có khoảng


×