10
8. Kết cấu chung của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học cho việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển
sản phẩm chủ lực
Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm
chủ lực trong phát triển kinh tế vùng, địa phương; các lý thuyết có liên quan và kinh
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước.
Chương 2: Thực trạng xác định và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng
sông Cửu Long thời gian qua
Chương này chủ yếu thực hiện việc phân tích, đánh giá thực trạng xác định sản
phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược
điểm trong việc xác định sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020.
Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác
định sản phẩm chủ lực ĐBSCL; đề xuất Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL một
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM
CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực
11
Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm
này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ. Điển hình nhất là Nhật bản, 20 năm sau thế chiến thứ 2 (1951 – 1973) đã trở
thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được
xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy
ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập
kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang
nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá
rẻ... đã đưa nền kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình
hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn
nền kinh tế hàng đầu thế giới (WB, 2007). Tương tự, thông qua hai cuộc “Cách mạng
xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông
nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định
và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53]
Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới
và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ
XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu
mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của
đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ
kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương
lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi
nói về sản phẩm chủ lực.
v Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước
+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) là sản phẩm giúp gia tăng kim ngạch và
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ cũng như tạo điều kiện
đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm
năng lượng, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định
12
số: 21/2001/QĐbKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1].
+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ
Chí Minh giai đoạn 20022005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp
với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này
phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao
đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế
của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ Chí Minh giai đoạn
20022005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều
nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và
thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐUB) [2].
+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp
Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố
Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong
phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước; Được tạo ra trên dây chuyền thiết bị có công nghệ ngang tầm khu
vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời
kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định
ở mức cao và thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực với tỷ trọng đóng góp vào tổng
GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐUB) [17].
+ Cùng một quan niệm với Tp Hồ Chí Minh và Tp Hà Nội, tỉnh Đồng Nai với
“Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn
20062010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản
phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong một thời kỳ nhất định. Đây là những sản
phẩm công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành công nghiệp có nhịp độ tăng
trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và ảnh hưởng đến sự phát triển đối
với nhiều sản phẩm công nghiệp khác cũng như có sức cạnh tranh cao trên thị trường
trong nước và xuất khẩu (Quyết định số 955/QĐUBND). Nói cách khác, đối với tỉnh
Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng
và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9].
13
v Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu
+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh,
Chuyên gia nghiên cứu khu công nghiệp, trong một bài viết của mình cũng đã sử dụng
khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai
phát triển mạnh về công nghệ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong
nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có
tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng
mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình
hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là
sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng
cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô
hình nữa.
+ Với TS Lê Tấn Bửu, Trưởng khoa Thương mạiDu lịchMarketing, trường Đại
học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến
nông, thủy sản vì đây là thế mạnh của Việt Nam mà trọng điểm là ĐBSCL, đồng thời
chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội.
Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi
thời kỳ khác nhau việc nhận thức về sản phẩm chủ lực có khác nhau. Chính từ sự nhận
thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển
sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một
vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là
lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để
tập trung đầu tư phát triển là nhiệm vụ có tính chiến lược đối với mỗi quốc gia, địa
phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án cần đi đến một nhận
thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực.
1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực
Trước hết, cần bắt đầu với thuật ngữ “chủ lực”. Theo Từ điển tiếng Việt thông
dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác
dụng quyết định. Ứng với tiếng Anh là “driving force” (lực lượng có tính dẫn đạo) hay
“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ
lực lượng quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định chiến trường như “quân chủ lực”, “bộ
đội” chủ lực...Lực lượng này được sử dụng khi cần giải quyết các mục tiêu chiến lược,
14
quyết định đến phạm vi toàn cục. Đặc trưng của chủ lực là tập trung với số lượng lớn,
được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác
chiến trên diện rộng.
Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm
dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức là sản phẩm hữu
hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản
phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính
năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm
chế biến có thịt đóng hộp, cá đóng hộp, thịt đông lạnh, cá đông lạnh..., ngành hóa mỹ
phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu
tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng
với sản phẩm chủ lực hay ngành hàng chủ lực như: key products, main products, major
products hoặc key sectors, main sectors.
Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí
chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main
products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến),
Canned (đóng hộp)...
Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ yếu của Công
ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết
kế và cài đặt tất cả các bảng phân phối điện), Control Board (Bảng kiểm soát điện),
Electric Box (Hộp điện), Capacitor Bank medium and low Voltage (Tụ bù trung áp và
thấp áp)….
Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ
sản phẩm chính của Sumikin Bussan Special Steel Co., Ltd là: Tubes and Pipes (ống
nước, ống kết cấu cho xe ô tô, máy móc và ống thép đặc biệt cho các nhà máy hóa dầu);
Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire
Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm
chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với
nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử,
điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay.
Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có
15
các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và
thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền
thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình)....
Từ những kết quả phân tích đã trình bày ở phần trên, có thể nhận diện sản phẩm
chủ lực thông qua định nghĩa như sau: “Sản phẩm chủ lực là sản phẩm hàng hóa hoặc
dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn và năng lực cạnh
tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời
nó còn có thể là sản phẩm thể hiện tính đặc thù riêng, mang ý nghĩa văn hóa của một
quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” 1 .
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản
của sản phẩm chủ lực như sau:
1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao
Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra
để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng
hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến
nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng,
mẫu mã kiểu dáng và các tính năng khác phải giống nhau giữa các cá thể. Rõ ràng, sản
phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ
công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi
lực yếu, sức cạnh tranh không cao.
2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế
Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng,
thiết kế kỹ thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo tiêu chuẩn quốc tế; có khả năng tiêu thụ tốt
không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước
mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp.
Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực
cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.
3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh
1
Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có
16
Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều
ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác
và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực
cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ
này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công
nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương
hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất
lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ,
nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo.
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ
Một sản phẩm chủ lực còn là sản phẩm thể hiện lợi thế đặc trưng của quốc gia,
vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản
phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ
cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính lợi thế cạnh tranh của
quốc gia hay vùng lãnh thổ (vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động…). Ngoài ra,
nhiều sản phẩm chủ lực còn là biểu tượng văn hóa của quốc gia hay vùng lãnh thổ, góp
phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.
5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường
Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên
liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho
môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc
quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu
tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi
trường so với sản phẩm được thay thế.
1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án
Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu
trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với
từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới.
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực
Khái niệm trong Luận án
Các khái niệm trước đây
17
Nêu bật mục đích chính của sản phẩm Chỉ cho biết sản phẩm nói chung chứ chưa
được tạo ra là để trao đổi mua bán, đặc thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua
biệt là mua bán quốc tế.
bán, nhất là mua bán quốc tế.
Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào
trên tiềm năng, lợi thế chung của vùng, điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và
miền quyết định một cách khách quan.
do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan
Bao gồm cả sản phẩm công nghiệp, nông Thường chỉ đề cập chủ yếu đến sản phẩm
nghiệp thủy sản và dịch vụ
công nghiệp, hoặc nông nghiệp
Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá Chú trọng đến khía cạnh tạo ra giá trị sản
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến lượng, tốc độ tăng trưởng, hiệu quả... riêng
các ngành nghề khác
của sản phẩm chủ lực mà thôi.
Sản phẩm không những mang giá trị vật Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật
chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá chất, giá trị kinh tế mà thôi
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa…
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh
thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể:
1) Xác định đúng sản phẩm chủ lực đồng nghĩa với việc xác định được năng lực
cạnh tranh cốt lõi của quốc gia, vùng lãnh thổ…, để từ đó có chính sách đầu tư đúng
hướng, tập trung và có chiều sâu.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu
tư phát triển một cách có trọng tâm, trọng điểm và theo chiều sâu trên cơ sở lợi thế so
sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua
đó tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.
18
2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa,
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng,
có tác động lôi kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ các ngành
nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một
ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này,
có thể xác định được những ngành nào có khả năng lan tỏa đến nó để có chính sách
khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ.
3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh
tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu.
Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp,
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó.
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn
kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững.
4) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa là xác định đúng đối tượng
khách hàng và thị trường tiêu thụ để tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý và thực
hành chất lượng phù hợp.
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng.
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng.
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (17231790)
Adam Smith được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại. Tác phẩm lớn nhất của
ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của
chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá.
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong
mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm
19
bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó,
A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá
rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi
thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương.
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi
phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí
sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối
với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi
bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao
sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem
lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước.
Ngày nay, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam việc khai thác lợi thế
tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm,
đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ.
Khi nhập công nghệ sản xuất, lao động trong nước sẽ học được cách sử dụng máy móc
thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này,
vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển (có lợi thế tuyệt
đối về công nghệ) và các nước đang phát triển (có lợi thế tuyệt đối về nguồn lực) thông
qua bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất và yếu kém về kiến thức
công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55].
1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (17721823)
Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các
quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại
thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định đúng lợi thế so sánh. Nghĩa là việc
chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động
cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập
lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự
khác nhau giữa các nước trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi
hỏi lao động đơn vị khác nhau.
Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công
nghệ như nhau: các nước phát triển có cung về tư bản nhiều hơn các nước đang phát
20
triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên
một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy
giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại
ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản.
Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước
đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế
so sánh cao một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có
lợi thế so sánh về những hàng hóa này. Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất
khẩu nhiều sản phẩm thô hoặc sơ chế như dầu thô, than đá, thủy sản đông lạnh... hoặc
hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc,
thiết bị từ các nước phát triển [3].
1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (17721823)
Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình
phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng
thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là
cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và
cuốn ''Lợi thế cạnh tranh quốc gia” vào năm 1990. Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh
quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh
vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter
thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết
các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi
thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của
một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành
của quốc gia đó. Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri
thức mới thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. M. Porter cho rằng các nền kinh tế đều
phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất,
cạnh tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh
tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt
với cạnh tranh quốc tế.
Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc
gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác
21
định được một nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào sẽ là cơ sở để chính quyền địa
phương hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phù hợp để
sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất và vị thế cạnh tranh.
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của Porter
Nền kinh tế định
hướng yếu tố
Nền kinh tế định
hướng đầu tư
Nền kinh tế định
hướng sáng tạo
Hiệu quả nhờ
chi phí đầu vào
Hiệu quả nhờ
đầu tư mạnh
Hiệu quả nhờ
đổi mới
Nguồn: Porter (1990)
Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao
độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên
ưu thế quyết định sự thành công trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số
ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong
và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước,
nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành
phụ trợ. Như vậy, lợi thế cạnh tranh có thể hiểu là lợi thế về nguồn lực, cơ hội hoặc điều
kiện tự nhiên... mà một doanh nghiệp, ngành, quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể tạo ra một
số ưu thế vượt trội về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc tế
giúp cho các doanh nghiệp có được “Quyền lực thị trường” để thành công trong kinh
doanh quốc tế. Theo Michael.E Porter, lợi thế cạnh tranh của quốc gia, địa phương hay
vùng lãnh thổ có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngành và sản phẩm.
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có lợi thế cạnh tranh tốt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các
ngành và doanh nghiệp thông qua việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm ưu việt hơn
so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ông cho rằng, bí quyết mà một quốc gia gặt hái
được sự thành công quốc tế trong một ngành nhất định nằm trong bốn thuộc tính lớn của
một quốc gia. Bốn thuộc tính này định hình nên môi trường cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh và được coi là các
yếu tố quyết định của mô hình, là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu,
22
các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
Ông còn đưa ra thêm 2 yếu tố bổ sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ. (Xem
Michael E. Porter, 2008) [21].
Hình 1.2 Mô hình Kim cương trong năng lực cạnh tranh của M. Porter
SỰ
NGẪU
NHIÊN
CHIẾN LƯỢC
CÔNG TY, CẤU
TRÚC VÀ CẠNH
TRANH NỘI ĐỊA
ĐIỀU KIỆN
YẾU TỐ SẢN
XUẤT
CÁC ĐIỀU
KIỆN VỀ
CẦU
CÁC NGÀNH
CÔNG NGHIỆP
PHỤ TRỢ VÀ CÓ
LIÊN QUAN
CHÍNH
PHỦ
Nguồn: Lợi thế cạng tranh quốc gia của Michael M. Porter
Qua mô hình kim cương, Michael M. Porter đưa ra 4 yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh và 2 yếu tố chi phối các yếu tố quyết định của một ngành bao gồm:
v Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành:
+ Chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa. Những điều kiện kinh tế,
chính trị xã hội của một quốc gia ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức và quản lý doanh
nghiệp cũng như đặc tính của cạnh tranh trong nước.
+ Các điều kiện về phía cầu. Thị trường trong nước với số cầu lớn và có những
khách hàng đòi hỏi cao và những cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ tạo ra khả năng
cạnh tranh cao hơn cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
+ Điều kiện về các yếu tố sản xuất. Bao gồm chất lượng lao động, vốn rẻ, cơ sở hạ
tầng mạnh và công nghệ cao trong khu vực hay quốc gia sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh
của ngành, của khu vực và của cả quốc gia.
+ Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Năng lực cạnh tranh của một ngành
phụ thuộc vào các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ.
23
v Các yếu tố chi phối các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành:
+ Vai trò của chính phủ. Chính phủ có thể tác động tới năng lực cạnh tranh của
ngành thông qua cả 4 nhóm nhân tố: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của
ngành. Các tác động của chính phủ có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
· Đối với các yếu tố sản xuất và các ngành hỗ trợ và liên quan; chính phủ có
thể tác động thông qua chính sách thuế, vốn, trợ cấp, quy hoạch phát triển ngành,…
· Đối với nhu cầu trong nước, chính phủ tác động bằng những quy định mang
tính chất định hướng nhu cầu như quy định tiêu chuẩn đối với từng mặt hàng trong ngành,
các biện pháp kích thích hoặc kiềm hãm nhu cầu đối với một loại sản phẩm nhất định.
· Đối với cơ cấu và môi trường cạnh tranh, sự tác động của chính phủ thể hiện
thông qua những quy định về thị trường tín dụng, chính sách thuế và các quy định về cạnh
tranh trong sản xuất, kinh doanh của ngành hàng cụ thể.
+ Sự ngẫu nhiên hay vai trò của cơ hội. Cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan
đến tình trạng sản xuất, kinh doanh hiện tại của ngành hàng nào đó tại quốc gia. Những cơ
hội có thể đến với mặt hàng có thể là: những cuộc khủng hoảng kinh tế, thiên tai, chiến
tranh ở các quốc gia, khu vực trên thế giới; sự tiến bộ về công nghệ sinh học; sự bãi bỏ các
hàng rào thuế quan hay phi thuế quan của chính phủ các nước đối với mặt hàng nào
đó…làm nhu cầu ở những nơi này tăng lên, đẩy giá cả thế giới lên cao hay ngược lại.
Hiện nay, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước những
cơ hội và thách thức lớn khi hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Làm thế nào để tận dụng tốt
thời cơ cũng như có biện pháp ngăn chặn những tác động tiêu cực từ hội nhập là một câu
hỏi mà các quốc gia đều quan tâm. Câu trả lời là: mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cần phải
phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình trong mối tương quan với nền kinh tế thế giới.
1.1.3.4 Thuyết cụm phát triển của Michael E. Porter
Được phát triển bởi M. Porter (1990), lý thuyết cụm được sử dụng một các phổ
biến trong việc hoạch định các chính sách công cộng và kinh tế. Cụm được tạo thành khi
các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các ngành, sản phẩm
tương tự vào trong một vùng nhằm tăng khả năng cạnh tranh bằng việc tăng năng suất,
khuyến khích các công ty mới cải tiến, thậm chí giữa các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những
cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. “Cụm là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành
sản xuất, dịch vụ nhằm tận dụng các cơ hội qua liên kết địa lý” (Chritian Ketels, 2003).
24
Các công ty thành viên của cụm sẽ chia sẻ các yêu cầu và các mối quan hệ bên trong với
nhà cung cấp và khách hàng. Các mối quan hệ bên trong công ty yêu cầu các dịch vụ bổ
sung từ các nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các công ty chủ chốt.
Cụm sẽ tạo ra lực lượng lao động, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối
quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ
hỗ trợ và các bên hữu quan [47], [50], [51].
Ban đầu, Porter cung cấp các nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế
nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia.
Một cụm giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hoá, dịch vụ, trong đó các ngành sản
xuất được liên kết với nhau bởi dòng hàng hoá và dịch vụ mạnh hơn dòng liên kết chúng
với phần còn lại của nền kinh tế. Các quan hệ trong cụm được phân thành 3 loại:
(1) quan hệ mua bán bởi sự tập trung và hội nhập dọc giữa quá trình sản xuất
chính với các đầu vào và phân phối hàng hoá và dịch vụ;
(2) quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh và các đối tác nhằm khai thác thông tin về
sản phẩm và qui trình, mở rộng sự cải tiến và các liên kết chiến lược; và
(3) quan hệ giữa thị phần và nguồn tài nguyên bằng sự chia sẻ công nghệ, lực lượng
lao động và thông tin.
Việc sử dụng khái niệm cụm như là công cụ để hiểu được quá trình phát triển sản
phẩm chủ lực ở cấp độ vùng và sự ảnh hưởng của nó đến việc định dạng và chuyển giao
chính sách phát triển cụm và phát triển kinh tế vùng. Ở cấp vùng, các chính sách phát triển
cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn với các chiến lược phát triển địa
phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về nguyên tắc được sử dụng như là công
cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên kết hoạt động của ngành sản phẩm đó.
1.1.3.5 Phát triển bền vững sản phẩm chủ lực
Năm 1980, lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế IUCN công bố), thuật ngữ "phát
triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không
thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Đến năm 1987, khái niệm này được phổ
biến rộng rãi thông qua nội dung của Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our
Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới WCED (nay là Ủy ban
Brundtland). Theo báo cáo này thì phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng
25
được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm hài
hòa giữa phát triển kinh tế hiệu quả với xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ. Để
đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế xã hội, nhà quản lý, các tổ chức xã hội...
phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế xã
hội và môi trường.
Sản phẩm chủ lực và sự phát triển bền vững
Quá trình toàn cầu hóa đi đôi với tự do hóa thương mại phát triển nhanh chóng nhờ
sự thúc đẩy bởi các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đã làm thay đổi quan trọng diện
mạo của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở tất cả các nước. Quá trình này đã mang đến
nhiều cơ hội cũng như thách thức mới với nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Do vậy, việc
phát triển sản phẩm chủ lực nhất thiết phải cân nhắc đến tính bền vững, lâu dài của chúng
và đặt trong mối quan hệ tam giác “triple bottom line”, với 3 cạnh nối các đỉnh: kinh tế, xã
hội và môi trường.
Hình 1.3 Quan hệ giữa Con người – Tài nguyên – Lợi nhuận với Sản phẩm
CON
NGƯỜI
Nguồn: Theo thiết kế sản phẩm
SẢN
PHẨM
CHỦ LỰC
1) Liên quan
người: Phát triển sản
đáp ứng các yêu cầu
hướng tới phát triển bền vững
TÀI
NGUYÊN
LỢI
NHUẬN
về xã hội và
đến yếu tố Con
phẩm chủ lực phải
công bằng.
Phát triển sản phẩm chủ lực sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động ở
26
nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm thiểu tình trạng mất cân bằng trongthu
nhập thu nhập giữa thành thị và nông thôn.
2) Liên quan đến yếu tố tài nguyên: Phát triển sản phẩm chủ lực trong giới hạn khả
năng cho phép của tài nguyên, nguồn lực và hệ sinh thái.
Phát triển sản phẩm chủ lực phải góp phần giảm sử dụng năng lượng hóa thạch, hạn
chế sử dụng các hóa chất độc hại, giảm chất thải công nghiệp và làm sạch các khu vực bị ô
nhiễm, đồng thời ngăn ngừa việc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên tái tạo và nước;
chặn đứng phá rừng, xói mòn đất, rửa trôi chất màu và phá hủy hệ sinh thái, giảm đốt củi
và sử dụng phân gia súc.
3) Liên quan đến yếu tố lợi nhuận: Phát triển sản phẩm chủ lực phải tạo ra giá trị
một cách công bằng cho người tiêu dùng và các bên liên quan trong chuỗi giá trị.
Phát triển sản phẩm chủ lực cần bảo đảm khả năng sinh lời cho các doanh nghiệp
và các bên liên quan, tạo ra giá trị hữu dụng cao cho người tiêu dùng, đảm bảo nối kết
giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các công ty lớn và các công ty đa quốc gia, công
nghiệp hóa, hiện đạt hóa và không ngừng tăng quy mô sản xuất hợp lý [42].
1.2. Phương pháp xác định và phát triển sản phẩm chủ chủ lực
1.2.1. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
1.2.1.1. Khái niệm tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một hoặc một số chỉ tiêu định lượng hoặc
định tính mà theo đó, người ta có thể nhận biết được sản phẩm nào có ưu thế trong sản
xuất, kinh doanh hoặc cạnh tranh trên thương trường để công nhận là sản phẩm chủ lực.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu thì có thể tiếp cận vấn đề này từ các
khía cạnh như sau:
Một là, phải xem xét, đánh giá và lựa chọn sản phẩm chủ lực dựa trên cả hai nhóm
tiêu chí, tiêu chí cần và tiêu chí đủ.
+ Nhóm tiêu chí cần: là những yếu tố nội tại của một sản phẩm cụ thể nào đó mà
chúng có thể giúp sản phẩm đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội, đặc biệt là đáp ứng
được các mục tiêu của nhà quản lý như: có quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao, nộp ngân sách
lớn, giải quyết nhiều lao động... Khi một sản phẩm có đủ các yếu này thì sản phẩm đó
được coi là sản phẩm chủ lực.
+ Nhóm tiêu chí đủ: là những yếu tố mà sản phẩm chủ lực đòi hỏi về phía xã hội.
Chẳng hạn như: phải có tài nguyên, nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng thương hiệu, chính
27
sách hợp lý… Trên thực tế, khi các doanh nghiệp hay nhà nước đáp ứng tốt những đòi hỏi
này thì sản phẩm bình thường vẫn có thể trở thành sản phẩm chủ lực.
Có thể nói rằng, tiêu chí cần là mục tiêu cuối cùng mà một sản phẩm phải hướng
tới, còn tiêu chí đủ là những yếu tố mà “xã hội” phải quan tâm đảm bảo để sản phẩm đạt
đến mục tiêu của mình.
Hai là, khi xem xét, đánh giá lựa chọn sản phẩm chủ lực phải cân nhắc đầy đủ cả
hai tiêu chí, tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính.
Mặc dù mọi phương pháp xác định sản phẩm chủ lực đều cố gắng lượng hóa đến
mức tối đa để có thể đưa ra kết quả khách quan, chính xác, nhưng trên thực tế không thể
quy tất cả các yếu tố kinh tế và xã hội thành các con số. Đó là chưa kể còn có nhiều biến
số khó lường có thể làm đảo lộn mọi tính toán. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng cả
hai loại tiêu chí định tính và định lượng. Tiêu chí định lượng dựa trên các số liệu thống kê,
phân tích bằng các thuật toán, còn tiêu chí định tính chủ yếu dựa trên các yếu tố kinh tế,
chính trị, xã hội được xác định bằng kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia [37].
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cũng cần phải vận dụng linh hoạt, không cứng
nhắc khi sử dụng các tiêu chí. Chẳng hạn, có tiêu chí về lý thuyết có thể định lượng như
nhu cầu thị trường, giá trị thương hiệu, nhưng nếu không thể đo đếm, tính toán được các
chỉ tiêu đo lường một cách chính xác thì đành phải sử dụng nó như là tiêu chí định tính,
với vai trò đánh giá của các chuyên gia. Tuy vậy, khi xây dựng tiêu chí, cần cố gắng lượng
hóa cả các đánh giá định lượng và định tính thành điểm số để dễ so sánh và lựa chọn.
1.2.1.2. Yêu cầu đối với tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực chỉ bảo đảm được chất lượng tốt và khả thi khi
nó thỏa mãn các yêu cầu sau:
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính định lượng. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có
thể xây dựng dưới dạng định tính hoặc định lượng. Tuy nhiên, để bảo đảm rõ ràng, minh
bạch thì các tiêu chí cần được lượng hóa. Những tiêu chí không thể lượng hóa được như
chỉ tiêu đánh giá độ mạnh của thương hiệu, biểu trưng văn hóa địa phương…thì cần có
tiêu chí trung gian khác làm cơ sở đánh giá.
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính khách quan, khoa học. Tiêu chí xác định sản phẩm
chủ lực được xây dựng dựa trên các số liệu, dữ kiện khách quan, không áp đặt theo cảm
tính hay ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Đồng thời nó còn phù hợp với qui luật vận động của
các yếu tố kinh tế, xã hội – văn hóa.
28
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính đặc trưng của địa phương. Tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực phải thể hiện được những đặc trưng của từng vùng, miền. Đây là cơ sở phân
biệt một hàng hóa của địa phương này với hàng hóa của địa phương khác.
+ Tiêu chí phải bảo đảm dễ hiểu, dễ thực hiện. Xây dựng tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực không nên sử dụng các mô hình toán phức tạp, triết lý cao siêu hay viện dẫn
quanh co làm cho việc áp dụng tiêu chí vào thực tế gặp khó khăn phức tạp.
+Tiêu chí phải bảo đảm tính công khai. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực của địa
phương cần được xây dựng tập thể và công bố rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan đều
biết. Việc xây dựng và công bố này nhất thiết phải được thực hiện ngay từ khi ban hành
chương trình hay qui định về hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương. [2], [8]...
1.2.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
Việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có ý nghĩa rất quan trọng cả về
mặt giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Cụ thể:
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là thước đo giá trị nội tại và khách quan của
hàng hóa. Nó phản ảnh trung thực về khả năng đáp ứng những đòi hỏi của thị trường, của
xã hội cũng như của nhà quản lý. Thông qua các tiêu chí đánh giá, người ta có thể nhận
biết được sản phẩm chủ lực đang sở hữu những tính năng, chất lượng gì và có khả năng
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng tới đâu.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực còn là những yêu sách về phía xã hội và nhà
quản lý. Nếu đáp ứng được những yêu sách này thì sản phẩm sẽ đủ điều kiện trở thành sản
phẩm chủ lực. Như vậy, cũng có thể xem hệ thống tiêu chí đánh giá là khuôn mẫu cho các
chính sách đầu tư về công nghệ, sử dụng tài nguyên, đào tạo tay nghề và các chính sách hỗ
trợ của Nhà nước.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, khi được thừa nhận, là một văn bản có giá
trị pháp lý, chi phối mọi hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh, nhà hoạch định chính
sách và nhà quản lý. Để phát triển sản phẩm chủ lực, các nhà sản xuất phải điều chỉnh
công nghệ, tổ chức lại sản xuất và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hợp chuẩn. Sẽ
không còn tùy tiện, chủ quan xem thường qui chuẩn thường thấy ở đối tượng này. Nhà
hoạch định chính sách và nhà quản lý sẽ lấy đó làm mục tiêu để định ra các biện pháp tổ
chức thực hiện thích hợp.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một bản tuyên ngôn về chất lượng của
hàng hóa, thể hiện sự cam kết về trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà sản xuất với cộng
29
đồng, xã hội. Thông qua hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, người tiêu dùng
hiểu được rằng nhà sản xuất sẽ làm gì, làm như thế nào và chịu trách nhiệm ra sao trong
việc cung cấp các tiện ích để thỏa mãn nhu cầu của họ ở chính trong sản trong phẩm của
các nhà sản xuất.
+ Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là bản tuyên bố sứ mạng của các
doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh, có giá trị lâu dài về mục đích và giúp phân
biệt được doanh nghiệp này với những doanh nghiệp khác. Có thể gọi đó là phát biểu của
một doanh nghiệp về triết lý kinh doanh, những nguyên tắc kinh doanh, thể hiện niềm tin
và tầm nhìn của doanh nghiệp [2], [8], [16], [17], [37]....
1.2.1.4. Nội dung các tiêu chí
Xuất phát từ các vấn đề đã bàn luận trên đây, có thể thấy việc xác định sản phẩm
chủ lực của quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ cần dựa trên các tiêu chí định lượng
và định tính sau đây:
v Nhóm tiêu chí định lượng:
Có tác dụng đánh giá khả năng sản xuất, mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
vùng và lợi thế cạnh tranh về mặt định lượng thông qua các số liệu thống kê hoặc điều tra
thu thập được qua các thời kỳ. Nhóm này có 10 tiêu chí gồm:
(1) Tỷ trọng của sản phẩm so với toàn vùng (ROV).
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực vùng với tổng giá trị
sản lượng của vùng được tạo ra trong một thời kỳ xác định. Tiêu chí này phản ảnh mức độ
tập trung lao động xã hội của sản phẩm tại một vùng, miền hay địa phương được thể hiện
thông qua giá trị sản lượng, giá trị gia tăng....(Lindqvist et al, 2003; Karlsson, năm 2008;
Solvell et al, 2009). Tiêu chí này còn phản ảnh tầm quan trọng của sản phẩm chủ lực
thông qua sự đóng góp giá trị của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương.
Tỷ trọng này được tính theo công thức :
R OV =
OV P
x 100
OV R
Trong đó :
· OVP : Giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực
· OVR : Tổng giá trị sản lượng của toàn vùng
(1.1)
30
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực đang xét càng quan trọng đối
với vùng vì nó đóng góp giá trị lớn và có sức tác động mạnh đến kết quả sản xuất kinh
doanh của toàn vùng.
(2) Hệ số địa phương hóa của sản phẩm trong vùng (LQ ir )
Hệ số địa phương hóa (Location Quotient ) giúp đo lường mức độ tập trung chuyên
môn hóa của vùng, miền hay địa phương về lĩnh vực khu vực i trong mối quan hệ với
vùng lãnh thổ lớn hơn R (thường là một quốc gia) và trong toàn bộ nền kinh tế (tức là, tất
cả các lĩnh vực của nền kinh tế của một quốc gia). Thông qua hệ số này, người ta thấy
được mức độ tập trung chuyên môn hóa của một ngành hay sản phẩm nào đó tại một vùng,
miền hay địa phương so với mức độ tập trung chuyên môn hóa ngành, sản phẩm đó của
vùng lớn hơn hay trên cả nước ((Maggioni và Riggi năm 2008).
Hệ số địa phương hóa được thể hiện theo công thức:
LQ ir =
X ir / X Ir
X iR / X IR
(1.2)
Trong đó:
Xir: Giá trị sản lượng sản phẩm loại i của vùng, miền, địa phương r
X Ir : Tổng giá trị sản lượng trong vùng, miền, địa phương r
X iR : Giá trị sản lượng sản phẩm i toàn ngành (khu vực lớn hơn hay cả nước R)
XIR: Tổng giá trị sản lượng của cả nước (hoặc khu vực lớn hơn hay cả nước R)
Thực tế nghiên cứu của các nước cho thấy nếu LQ <1, cho biết vùng, miền hay địa
phương đang xét có ít tiềm năng phát triển sản phẩm i; LQ> 1, cho biết vùng, miền hay địa
phương đang xét nhiều hay ít tiềm năng phát triển sản phẩm i và khi LQ≥1,25, cho biết
vùng, miền hay địa phương đang xét có tiềm năng đặc biệt phát triển sản phẩm i để cạnh
tranh toàn cầu (Florida State University, 2010).
(3) Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm trong vùng (Grw).
Tiêu chí này cho biết mức độ tăng trưởng về sản lượng, giá trị sản lượng hoặc giá
trị gia tăng của sản phẩm chủ lực. Nó phản ảnh khả năng và triển vọng phát triển của hàng
hóa chủ lực trong tương lai.
Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm có thể nhận được từ số báo cáo hàng năm của địa
hoặc tính theo công thức :
31
Grw =
OV 1 - OV 0
x 100
OV 0
(1.3)
Trong đó :
OV 1 : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm xem xét
OV0 : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm định gốc so sánh
Tiêu chí này có thể xem xét qua nhiều năm. Nếu tốc độ tăng trưởng trung bình càng
cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực của vùng, miền hay địa phương đang xét càng có khả năng
và triển vọng tăng trưởng tốt, ổn định và bền vững.
(4) Hệ số vượt trội của sản phẩm (C Grw ).
Tiêu chí này phản ảnh khả năng vượt trội của hàng hóa chủ lực đối với toàn ngành
kinh tế. Nếu hệ số này càng cao chứng tỏ hàng hóa chủ lực đang xét giữ vai trò quyết định
trong việc hình thành mức tăng trưởng chung cho toàn ngành.
Công thức xác định hệ số vượt trội có dạng :
CGrw =
G RWi
G RWs
(1.4)
Trong đó:
G Rwi : là tốc độ phát triển của sản phẩm i
GRWs: là tốc độ phát triển chung của toàn bộ ngành (khu vực) kinh tế
Sử dụng hệ số vượt trội để đánh giá mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng sản phẩm i
đến toàn bộ ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ) sản phẩm i.
Nếu CGrw < 1, việc phát triển sản phẩm i sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm i trong
ngành nên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (kéo giảm tốc độ tăng
trưởng của ngành); Nếu CGrw >1, việc phát triển sản phẩm y sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản
phẩm i trong ngành nên sẽ ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng của ngành).
(5) Tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm so với toàn vùng (REX)
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực với tổng giá trị xuất
khẩu của toàn vùng. Tiêu chí này phản ảnh tầm quan trọng của sản phẩm chủ lực trong
lĩnh vực xuất khẩu thông qua mức đóng góp của nó trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn
vùng cũng như khả năng đóng góp ngoại tệ cho địa phương thông qua sự đóng góp giá trị
xuất khẩu của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương.
32
Tỷ trọng này được tính theo công thức :
R EX =
EX P
x 100
EX R
(1.5)
Trong đó :
· EXP : Giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực
· EXR : Tổng giá trị xuất khẩu của toàn vùng
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ tính chủ lực của sản phẩm đang xét càng mạnh
vì nó ảnh hưởng lớn đến thành tích xuất khẩu chung của toàn vùng.
(6) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu nội địa (RCA D )
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của vùng về một sản
phẩm cụ thể trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả nước về sản phẩm đó. Nếu tỷ
trọng xuất khẩu của vùng về sản phẩm chủ lực lớn hơn tỷ trọng sản phẩm cùng loại đó
trong tổng xuất khẩu của cả nước thì vùng, địa phương đang xét được coi là vùng có lợi
thế so sánh về loại sản phẩm đó.
Công thức tính hệ số này như sau:
RCA D =
EX ir / EX r
EX iN / X N
(1.6)
Trong đó:
EX ir : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của vùng, địa phương r
EXr: Tổng giá trị xuất khẩu của vùng, địa phương r
EX iN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của cả nước
EXN: Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả nước
Nếu hệ số RCA D lớn hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là có
lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i. Hệ số này càng cao thì lợi thế so sánh càng cao.
Ngược lại, nếu RCAD nhỏ hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là không
có lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i.
(7) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu thế giới của sản phẩm (RCAW)
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa
chủ lực trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả thế giới về hàng hóa đó. Nếu tỷ
trọng xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa chủ lực lớn hơn tỷ trọng hàng hóa đó trong tổng
xuất khẩu của cả thế giới thì quốc gia đó được coi là có lợi thế so sánh về hàng hóa đó.
33
Công thức tính hệ số này như sau:
RCA W =
EX iN / EX N
EX iw / X W
(1.7)
Trong đó:
EXiN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của quốc gia
EX N : Tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia
EXiw: Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của thế giới
EX W : Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả thế giới
Nếu hệ số RCAW lớn hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là có lợi thế so sánh
quốc tế về sản phẩm i. Hệ số này càng cao thì lợi thế so sánh càng cao. Ngược lại, nếu
RCA W nhỏ hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là không có lợi thế so sánh quốc tế
về sản phẩm i.
8) Hệ số thương mại ròng của sản phẩm (NTR)
Là chỉ tiêu phản ảnh mối tương quan giữa xuất và nhập khẩu của hàng hóa cùng
loại với hàng hóa chủ lực.
Công thức tính hệ số thương mại ròng:
NTR =
EX i - IM i
EX i + IM i
(1.8)
Trong đó:
EX i : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i
IMi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm i
Nếu hệ số NTR có giá trị lớn hơn 0 thì quốc gia đang xem xét có lợi thế so sánh ở
sản phẩm i, còn nếu NTR nhỏ hơn 0 thì quốc gia đang xem xét không có lợi thế so sánh ở
sản phẩm i. Giá trị NTR gần bằng 0 là tình trạng lợi thế không rõ ràng
(9) Hệ số bảo hộ hiệu dụng của hàng hóa chủ lực (EPR)
Hệ số bảo hộ hiệu dụng của một sản phẩm là chênh lệch giữa giá trị gia tăng tính
theo giá trong nước của ngành sản phẩm đó và giá trị gia tăng tính theo giá thế giới rồi
chia cho giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. ERP Là chỉ tiêu phản ảnh mức độ bảo hộ
trong nước đối với hàng hóa chủ lực hoặc nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng hóa chủ lực
thông qua thuế quan.
34
Mức bảo hộ hiệu dụng làm tăng giá trị gia tăng trong nước và được tính toán bằng
công thức:
ERP =
AV PD - AV PW
AV PW
(1.9)
Trong đó:
AVPD : là giá trị gia tăng tính theo giá trong nước;
AV PW : là giá trị gia tăng tính theo giá thế giới.
Hệ số bảo hộ hiệu dụng có thể có giá trị âm, có thể có giá trị dương hoặc bằng 0.
Hệ số này thường có giá trị âm đối với những ngành công nghiệp có thế mạnh xuất khẩu,
bởi vì khi đó thuế nhập khẩu đối với ngành đó bằng 0, trong khi đó đầu vào sản xuất lại
phải chịu thuế nhập khẩu. Việc tính toán AVPD và AVPW cần dựa vào bảng cân đối liên
ngành I/0.
10) Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)
DRC là chỉ số thường được dùng để đánh giá lợi thế so sánh của ngành hàng thông
qua xem xét tính hiệu quả của nguồn lực trong nước được sử dụng để sản xuất ra sản
phẩm. DRC biểu thị tổng chi phí của các nguồn lực trong nước được sử dụng tương ứng
với 1 đơn vị tiền tệ thu được từ sản phẩm đem bán. Do đó, DRC nhỏ hơn 1 có nghĩa là sản
phẩm có lợi thế so sánh và ngược lại. DRC càng nhỏ thì lợi thế so sánh càng cao.
Công thức tính:
DRC =
( PV - DIV - FIV )
FIV i
P i ( 1 )
PV i
(1.10
)
Trong đó:
PVi: Giá trị sản xuất của một đơn vị sản phẩm i
DIV i : Giá trị đầu vào nội địa trong một đơn vị sản phẩm i
FIVi: Giá trị đầu vào nhập khẩu trong một đơn vị sản phẩm i
P i : Giá nhập khẩu của một đơn vị sản phẩm i (tính theo giá nội địa)
Hệ số DRC>1 có nghĩa là phải tốn hơn 1 đồng chi phí nguồn lực trong nước để tạo
ra 1 đồng giá trị gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả. [10], [43], [46]
v Nhóm tiêu chí định tính: