Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực đồng bằng sông cửu long đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 130 trang )

10 

8. Kết cấu chung của luận án 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án 
được kết cấu thành ba chương: 
Chương 1: Cơ sở khoa học cho  việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển 
sản phẩm chủ lực 
Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm 
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm 
chủ  lực  trong  phát  triển  kinh  tế  vùng,  địa  phương;  các  lý  thuyết  có  liên  quan  và  kinh 
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước. 
Chương  2:  Thực  trạng  xác  định  và  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực  Đồng  bằng 
sông Cửu Long thời gian qua 
Chương  này  chủ  yếu  thực  hiện  việc  phân  tích,  đánh  giá  thực  trạng  xác  định  sản 
phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược 
điểm trong việc xác định  sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở 
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020. 
Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực  và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng 
bằng sông Cửu Long đến năm 2020 
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác 
định  sản phẩm  chủ lực  ĐBSCL;  đề  xuất  Danh mục  sản phẩm  chủ  lực  ĐBSCL  đến năm 
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ  yếu phát triển  sản phẩm  chủ lực của ĐBSCL một 
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 

Chương 1 
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM 
CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC 
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực 
1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực 
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực



11 

Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy 
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm 
này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng 
lãnh  thổ.  Điển  hình nhất  là Nhật bản,  20 năm  sau  thế  chiến  thứ  2  (1951  –  1973) đã  trở 
thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được 
xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy 
ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập 
kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang 
nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá 
rẻ... đã đưa nền  kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình 
hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn 
nền  kinh  tế  hàng  đầu  thế  giới  (WB,  2007).  Tương  tự,  thông  qua  hai  cuộc  “Cách  mạng 
xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông 
nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định 
và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53] 
Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới 
và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ 
XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu 
mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của 
đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ 
kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và 
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương 
lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi 
nói về sản phẩm chủ lực. 
v  Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước 
+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi 
trường  (nay  là  Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ)  là  sản  phẩm  giúp  gia  tăng  kim  ngạch  và 

chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm  chế biến, sản 
phẩm  có hàm  lượng  công nghệ  cao,  thúc đẩy  xuất  khẩu dịch  vụ  cũng  như  tạo điều  kiện 
đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm 
năng lượng, giảm giá thành và nâng cao  chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định


12 

số: 21/2001/QĐ­bKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản 
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1]. 
+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ 
Chí Minh giai đoạn 2002­2005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp 
với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này 
phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao 
đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế 
của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp  Hồ Chí Minh giai đoạn 
2002­2005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều 
nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và 
thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐ­UB) [2]. 
+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp 
Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố 
Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong 
phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường 
trong  và ngoài nước;  Được tạo ra  trên dây  chuyền  thiết bị  có  công nghệ  ngang  tầm  khu 
vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời 
kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định 
ở  mức  cao  và  thuộc nhóm sản  phẩm  xuất  khẩu  chủ  lực  với  tỷ  trọng  đóng góp vào  tổng 
GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐ­UB) [17]. 
+  Cùng  một  quan  niệm  với  Tp  Hồ  Chí  Minh  và  Tp  Hà  Nội,  tỉnh  Đồng  Nai  với 
“Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn 

2006­2010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản 
phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc 
thực  hiện các mục  tiêu, nhiệm  vụ đặt  ra  trong  một  thời kỳ  nhất định.  Đây  là  những  sản 
phẩm  công  nghiệp  chiếm  tỷ trọng  cao  trong cơ  cấu  ngành công nghiệp  có  nhịp  độ tăng 
trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và  ảnh hưởng đến sự phát triển đối 
với  nhiều  sản  phẩm  công  nghiệp  khác  cũng  như  có  sức  cạnh  tranh  cao  trên  thị  trường 
trong  nước  và  xuất  khẩu  (Quyết  định  số  955/QĐ­UBND).  Nói  cách  khác,  đối  với  tỉnh 
Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng 
và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng 
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9].


13 

v  Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu 
+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh, 
Chuyên  gia  nghiên  cứu  khu  công  nghiệp,  trong  một  bài  viết  của  mình  cũng  đã  sử  dụng 
khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai 
phát  triển  mạnh  về  công  nghệ,  có  khả  năng  cạnh  tranh  trên  thị  trường  quốc  tế  và  trong 
nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có 
tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng 
mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình 
hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ  Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là 
sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng 
cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô 
hình nữa.
+  Với  TS  Lê Tấn  Bửu,  Trưởng  khoa  Thương  mại­Du  lịch­Marketing,  trường  Đại 
học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến 
nông,  thủy  sản  vì  đây  là  thế  mạnh  của  Việt  Nam  mà  trọng  điểm  là  ĐBSCL,  đồng  thời 
chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội. 

Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi 
thời  kỳ khác  nhau  việc nhận  thức  về  sản  phẩm  chủ  lực  có  khác nhau.  Chính  từ  sự nhận 
thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển 
sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một 
vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là 
lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để 
tập  trung  đầu  tư  phát  triển  là  nhiệm  vụ  có  tính  chiến  lược  đối  với  mỗi  quốc  gia,  địa 
phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án  cần đi đến một nhận 
thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực. 
1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực 
Trước  hết,  cần  bắt  đầu  với  thuật  ngữ  “chủ  lực”.  Theo  Từ  điển  tiếng  Việt  thông 
dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác 
dụng  quyết  định. Ứng  với  tiếng  Anh là  “driving  force”  (lực lượng  có tính dẫn đạo) hay 
“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ 
lực  lượng quan trọng nhất  có  ý nghĩa  quyết  định  chiến  trường  như  “quân  chủ  lực”, “bộ 
đội”  chủ lực...Lực lượng  này  được  sử  dụng  khi  cần  giải  quyết  các mục  tiêu  chiến lược,


14 

quyết  định  đến  phạm  vi  toàn  cục.  Đặc  trưng  của  chủ  lực  là  tập  trung  với  số  lượng  lớn, 
được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác 
chiến trên diện rộng. 
Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm 
dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức  là sản phẩm hữu 
hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản 
phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính 
năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm 
chế  biến  có  thịt  đóng  hộp,  cá  đóng  hộp,  thịt  đông  lạnh,  cá  đông  lạnh...,  ngành  hóa  mỹ 
phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu 

tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng 
với  sản phẩm  chủ  lực  hay  ngành hàng  chủ lực  như:  key products, main products, major 
products  hoặc key sectors, main sectors. 
­ Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí 
chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main 
products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến), 
Canned (đóng hộp)... 
­ Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ  yếu của Công 
ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết 
kế và cài  đặt tất  cả  các bảng  phân  phối  điện),  Control  Board  (Bảng  kiểm  soát  điện), 
Electric  Box  (Hộp  điện), Capacitor  Bank  medium  and  low  Voltage  (Tụ  bù  trung  áp  và 
thấp áp)…. 
­ Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ 
sản  phẩm  chính  của  Sumikin  Bussan  Special  Steel  Co.,  Ltd  là:  Tubes  and  Pipes  (ống 
nước, ống kết  cấu cho xe ô  tô,  máy  móc  và ống  thép đặc  biệt cho  các nhà máy hóa dầu); 
Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire 
Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm 
chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với 
nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử, 
điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay. 
­ Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa 
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có


15 

các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và 
thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền 
thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình).... 
Từ những  kết  quả phân tích đã  trình bày ở phần  trên,  có  thể nhận diện  sản phẩm 

chủ  lực  thông qua định  nghĩa như  sau:  “Sản  phẩm  chủ  lực  là  sản  phẩm hàng hóa  hoặc 
dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn  và năng lực cạnh 
tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời 
nó  còn  có  thể là  sản phẩm  thể hiện  tính đặc  thù riêng,  mang  ý nghĩa  văn hóa  của  một 
quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” 1 . 
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực 
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản 
của sản phẩm chủ lực như sau: 
1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao 
Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra 
để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng 
hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến 
nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng, 
mẫu mã  kiểu dáng  và  các tính năng  khác phải  giống nhau  giữa  các  cá  thể.  Rõ  ràng,  sản 
phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ 
công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi 
lực yếu, sức cạnh tranh không cao. 
2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế 
Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng, 
thiết  kế  kỹ  thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo  tiêu  chuẩn quốc  tế;  có  khả năng tiêu thụ  tốt 
không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu 
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng 
sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước 
mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp. 
Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực 
cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững. 
3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh 


Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có



16 

Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều 
ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác 
và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực 
cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ 
này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công 
nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương 
hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất 
lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ, 
nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo. 
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ 
Một  sản  phẩm  chủ  lực  còn  là  sản  phẩm  thể  hiện  lợi  thế  đặc  trưng  của  quốc  gia, 
vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản 
phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ 
cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính  lợi thế cạnh tranh của 
quốc  gia hay  vùng  lãnh  thổ  (vị  trí địa  lý,  tài nguyên  thiên nhiên,  lao động…).  Ngoài  ra, 
nhiều  sản phẩm chủ lực còn là  biểu tượng văn hóa của quốc gia  hay vùng lãnh thổ, góp 
phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế. 
5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường 
Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên 
liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ  không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho 
môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc 
quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu 
tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi 
trường so với sản phẩm được thay thế. 

1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án 

Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu 
trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với 
từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới. 
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực 
Khái niệm trong Luận án 

Các khái niệm trước đây


17 

Nêu  bật  mục  đích  chính  của  sản  phẩm  Chỉ  cho  biết  sản  phẩm  nói  chung  chứ  chưa 
được  tạo  ra  là  để  trao  đổi  mua  bán,  đặc  thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua 
biệt là mua bán quốc tế. 

bán, nhất là mua bán quốc tế. 

Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa  Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào 
trên  tiềm  năng,  lợi  thế  chung  của  vùng,  điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và 
miền quyết định một cách khách quan. 

do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan 

Bao  gồm  cả  sản phẩm  công nghiệp, nông  Thường  chỉ  đề  cập  chủ  yếu  đến  sản  phẩm 
nghiệp ­ thủy sản và dịch vụ 

công nghiệp, hoặc nông nghiệp 

Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá  Chú  trọng  đến  khía  cạnh  tạo  ra  giá  trị  sản 
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến  lượng,  tốc  độ  tăng  trưởng,  hiệu  quả...  riêng 

các ngành nghề khác 

của sản phẩm chủ lực mà thôi. 

Sản  phẩm  không  những  mang  giá  trị  vật  Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật 
chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá  chất, giá trị kinh tế mà thôi 
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa… 
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng 
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực 
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh 
thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể: 
1)  Xác định  đúng  sản phẩm chủ  lực đồng nghĩa  với  việc  xác  định  được  năng  lực 
cạnh  tranh  cốt  lõi  của  quốc  gia,  vùng  lãnh  thổ…,  để  từ  đó  có  chính  sách  đầu  tư  đúng 
hướng, tập trung và có chiều sâu. 
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu 
tư  phát  triển  một  cách  có  trọng  tâm,  trọng  điểm  và  theo  chiều  sâu  trên  cơ  sở  lợi  thế  so 
sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng 
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua 
đó  tạo môi trường  thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được 
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế ­ 
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.


18 

2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa, 
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng, 
có tác động lôi  kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển. 
Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ  các ngành 
nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một 

ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm 
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này, 
có  thể  xác  định  được  những  ngành  nào  có  khả  năng  lan  tỏa  đến  nó  để  có  chính  sách 
khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ. 
3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh 
tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu. 
Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp, 
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó. 
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn 
kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững. 
4)  Xác  định  đúng  sản  phẩm  chủ  lực  cũng  có  nghĩa  là  xác  định  đúng  đối  tượng 
khách hàng và  thị  trường  tiêu  thụ để  tăng  cường áp  dụng  các hệ  thống quản  lý  và thực 
hành chất lượng phù hợp. 
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được 
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng. 
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất 
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn 
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. 
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực 
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723­1790) 
Adam  Smith được  coi  là  cha đẻ  của kinh  tế học hiện đại.  Tác phẩm  lớn nhất  của 
ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của 
chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá. 
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong 
mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi 
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm


19 


bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó, 
A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá 
rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi 
thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương. 
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí 
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi 
phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí 
sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối 
với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi 
bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao 
sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem 
lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước. 
Ngày  nay,  đối  với  các  nước  đang  phát  triển  như  Việt  Nam  việc  khai  thác  lợi  thế 
tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm, 
đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ. 
Khi nhập  công nghệ  sản  xuất,  lao động  trong  nước  sẽ học  được  cách  sử dụng máy móc 
thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này, 
vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển  (có lợi thế tuyệt 
đối về công nghệ) và các nước đang phát triển  (có lợi thế  tuyệt đối về nguồn lực) thông 
qua  bù đắp  sự  yếu  kém  về  khả  năng  sản  xuất tư  liệu sản  xuất  và  yếu  kém về  kiến thức 
công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55]. 
1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1772­1823) 
Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các 
quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại 
thương  có  lợi  cho  mọi  quốc  gia  miễn  là  xác  định  đúng  lợi  thế  so  sánh.  Nghĩa  là  việc 
chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động 
cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập 
lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự 
khác  nhau  giữa  các  nước  trong công  nghệ sản  xuất  dẫn  đến năng  suất vật  chất  và  đòi 

hỏi lao động đơn vị khác nhau. 
Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công 
nghệ  như  nhau:  các  nước  phát  triển có  cung  về tư  bản nhiều  hơn các  nước  đang  phát


20 

triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên 
một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy 
giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại 
ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản. 
Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước 
đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công. 
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế 
so sánh cao một cách  tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có 
lợi  thế  so  sánh  về  những hàng  hóa này.  Điều  này  lý  giải  vì  sao Việt  Nam lại xuất 
khẩu nhiều  sản  phẩm  thô  hoặc  sơ  chế  như  dầu  thô, than  đá,  thủy  sản  đông  lạnh...  hoặc 
hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc, 
thiết bị từ các nước phát triển [3]. 
1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (1772­1823) 
Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình 
phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng 
thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là 
cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và 
cuốn  ''Lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia”  vào  năm  1990.  Trong  tác  phẩm  Lợi  thế  cạnh  tranh 
quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh 
vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter 
thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết 
các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi 
thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của 

một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành 
của  quốc  gia  đó. Khi nền  tảng  của  cạnh  tranh  càng  chuyển  dịch sang  sự  sáng  tạo  và  tri 
thức mới  thì vai  trò  của quốc  gia càng  tăng lên. M.  Porter  cho  rằng  các nền  kinh  tế đều 
phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất, 
cạnh  tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh 
tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt 
với cạnh tranh quốc tế. 
Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc 
gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác


21 

định được một nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào sẽ là cơ sở để chính quyền địa 
phương hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phù hợp để 
sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất và vị thế cạnh tranh. 
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của Porter 
Nền kinh tế định 
hướng yếu tố 

Nền kinh tế định 
hướng đầu tư 

Nền kinh tế định 
hướng sáng tạo 

Hiệu quả nhờ 
chi phí đầu vào 

Hiệu quả nhờ 

đầu tư mạnh 

Hiệu quả nhờ 
đổi mới

Nguồn: Porter (1990) 
Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao 
độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên 
ưu  thế  quyết  định  sự  thành  công  trong  cạnh  tranh.  Các  quốc  gia  thành  công  ở  một  số 
ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong 
và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ 
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, 
nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành 
phụ trợ. Như vậy, lợi thế cạnh tranh có thể hiểu là lợi thế về nguồn lực, cơ hội hoặc điều 
kiện tự nhiên... mà một doanh nghiệp, ngành, quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể tạo ra một 
số ưu thế vượt trội về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc tế 
giúp  cho  các  doanh  nghiệp  có  được  “Quyền  lực  thị  trường”  để  thành  công  trong  kinh 
doanh  quốc tế.  Theo  Michael.E Porter,  lợi  thế  cạnh  tranh  của quốc  gia,  địa phương hay 
vùng lãnh thổ có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngành và sản phẩm. 
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có lợi thế cạnh tranh  tốt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các 
ngành và doanh nghiệp thông qua việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm ưu việt hơn 
so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ông cho rằng, bí quyết mà một quốc gia gặt hái 
được sự thành công quốc tế trong một ngành nhất định nằm trong bốn thuộc tính lớn của 
một  quốc  gia.  Bốn  thuộc  tính  này  định  hình  nên  môi  trường  cạnh  tranh  của  các  doanh 
nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh và được coi là các 
yếu tố quyết định của mô hình, là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, 


22 


các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, 
Ông  còn  đưa ra  thêm 2  yếu  tố bổ  sung là  vai  trò  của nhà nước  và  yếu  tố thời  cơ.  (Xem 
Michael E. Porter, 2008) [21]. 
Hình 1.2  Mô hình Kim cương trong năng lực cạnh tranh của M. Porter 
SỰ 
NGẪU 
NHIÊN 

CHIẾN LƯỢC 
CÔNG TY, CẤU 
TRÚC VÀ CẠNH 
TRANH NỘI ĐỊA 

ĐIỀU KIỆN 
YẾU TỐ SẢN 
XUẤT 

CÁC ĐIỀU 
KIỆN VỀ 
CẦU 

CÁC NGÀNH 
CÔNG NGHIỆP 
PHỤ TRỢ VÀ CÓ 
LIÊN QUAN 

CHÍNH 
PHỦ

Nguồn: Lợi thế cạng tranh quốc gia của Michael M. Porter 

Qua mô hình  kim  cương,  Michael  M. Porter đưa ra 4  yếu  tố  quyết  định  năng  lực 
cạnh tranh và 2 yếu tố chi phối các yếu tố quyết định của một ngành bao gồm: 
v  Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 
+  Chiến  lược  công  ty,  cấu  trúc  và  cạnh  tranh  nội  địa.  Những  điều  kiện  kinh  tế, 
chính trị xã hội của một quốc gia ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức và quản lý doanh 
nghiệp cũng như đặc tính của cạnh tranh trong nước. 
+  Các  điều kiện  về  phía  cầu.  Thị  trường  trong  nước  với  số  cầu  lớn và  có những 
khách hàng đòi hỏi cao và những cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ tạo ra khả năng 
cạnh tranh cao hơn cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 
+ Điều kiện về các yếu tố sản xuất. Bao gồm chất lượng lao động, vốn rẻ, cơ sở hạ 
tầng mạnh và công nghệ cao trong khu vực hay quốc gia sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh 
của ngành, của khu vực và của cả quốc gia. 
+ Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Năng lực cạnh tranh của một ngành 
phụ thuộc vào các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ. 


23 

v  Các yếu tố chi phối các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 
+  Vai  trò  của  chính phủ.  Chính phủ  có  thể tác động  tới năng  lực  cạnh  tranh  của 
ngành thông qua cả 4 nhóm nhân tố: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các 
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của 
ngành. Các tác động của chính phủ có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
·  Đối với các yếu tố sản xuất và các ngành hỗ trợ và liên quan; chính phủ có 
thể tác động thông qua chính sách thuế, vốn, trợ cấp, quy hoạch phát triển ngành,…
·  Đối với nhu cầu trong nước, chính phủ tác động bằng những quy định mang 
tính chất định hướng nhu cầu như quy định tiêu chuẩn đối với từng mặt hàng trong ngành, 
các biện pháp kích thích hoặc kiềm hãm nhu cầu đối với một loại sản phẩm nhất định.
·  Đối với cơ cấu và môi trường cạnh tranh, sự tác động của chính phủ thể hiện 
thông qua những quy định về thị trường tín dụng, chính sách thuế và các quy định về cạnh 

tranh trong sản xuất, kinh doanh của ngành hàng cụ thể. 
+ Sự ngẫu nhiên hay vai trò của cơ hội. Cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan 
đến tình trạng sản xuất, kinh doanh hiện tại của ngành hàng nào đó tại quốc gia. Những cơ 
hội có thể đến với mặt hàng có thể là: những cuộc khủng hoảng  kinh tế,  thiên tai, chiến 
tranh ở các quốc gia, khu vực trên thế giới; sự tiến bộ về công nghệ sinh học; sự bãi bỏ các 
hàng  rào  thuế  quan  hay  phi  thuế  quan  của  chính  phủ  các  nước  đối  với  mặt  hàng  nào 
đó…làm nhu cầu ở những nơi này tăng lên, đẩy giá cả thế giới lên cao hay ngược lại. 
Hiện nay, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước những 
cơ hội và thách thức lớn khi hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Làm thế nào để tận dụng tốt 
thời cơ cũng như có biện pháp ngăn chặn những tác động tiêu cực từ hội nhập là một câu 
hỏi mà các quốc gia đều quan tâm. Câu trả lời là: mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ  cần phải 
phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình trong mối tương quan với nền kinh tế thế giới. 
1.1.3.4  Thuyết cụm phát triển của Michael E. Porter 
Được  phát  triển  bởi  M.  Porter  (1990),  lý  thuyết  cụm  được  sử  dụng  một  các  phổ 
biến trong việc hoạch định các chính sách công cộng và kinh tế. Cụm được tạo thành khi 
các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các ngành, sản phẩm 
tương  tự  vào  trong một  vùng  nhằm  tăng  khả năng  cạnh  tranh  bằng  việc  tăng năng  suất, 
khuyến khích các công ty mới cải tiến, thậm chí giữa các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những 
cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. “Cụm là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành 
sản xuất, dịch vụ nhằm  tận dụng các cơ hội qua liên kết địa lý” (Chritian Ketels, 2003).


24 

Các công ty thành viên của cụm sẽ chia sẻ các yêu cầu và các mối quan hệ bên trong với 
nhà cung cấp và khách hàng. Các mối quan hệ bên trong công ty yêu cầu các dịch vụ bổ 
sung từ các nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các công ty chủ chốt. 
Cụm sẽ tạo ra lực lượng lao động, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối 
quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ 
hỗ trợ và các bên hữu quan [47], [50], [51]. 

Ban  đầu,  Porter  cung  cấp  các  nguyên  lý  cụm  cho  các  cụm  quốc  gia  và  quốc  tế 
nhưng  sau  đó đã  nhận  ra sự  thích  hợp  cho  các cụm  vùng  kinh  tế  trong nội bộ quốc gia. 
Một cụm giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hoá, dịch vụ, trong đó các ngành sản 
xuất được liên kết với nhau bởi dòng hàng hoá và dịch vụ mạnh hơn dòng liên kết chúng 
với phần còn lại của nền kinh tế. Các quan hệ trong cụm được phân thành 3 loại: 
(1)  quan hệ  mua  ­  bán  bởi  sự  tập  trung  và  hội  nhập  dọc  giữa  quá  trình  sản  xuất 
chính với các đầu vào và phân phối hàng hoá và dịch vụ; 
(2) quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh và các đối tác nhằm khai thác thông tin về 
sản phẩm và qui trình, mở rộng sự cải tiến và các liên kết chiến lược; và 
(3) quan hệ giữa thị phần và nguồn tài nguyên bằng sự chia sẻ công nghệ, lực lượng 
lao động và thông tin. 
Việc sử dụng khái niệm cụm như là công cụ để hiểu được quá trình phát triển sản 
phẩm chủ lực ở cấp độ vùng và sự ảnh hưởng của nó đến việc định dạng và chuyển giao 
chính sách phát triển cụm và phát triển kinh tế vùng. Ở cấp vùng, các chính sách phát triển 
cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn với các chiến lược phát triển địa 
phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về nguyên tắc được sử dụng như là công 
cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. 
1.1.3.5 Phát triển bền vững sản phẩm chủ lực 
Năm 1980, lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được Hiệp hội 
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế ­ IUCN công bố), thuật ngữ "phát 
triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không 
thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã 
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Đến năm 1987, khái niệm này được phổ 
biến  rộng  rãi thông  qua  nội  dung  của Báo  cáo  Brundtland (còn  gọi  là  Báo  cáo Our 
Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới ­ WCED (nay là Ủy ban 
Brundtland).  Theo báo  cáo này  thì  phát  triển bền  vững  là "sự phát triển  có  thể đáp  ứng


25 


được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng 
nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm hài 
hòa giữa phát triển kinh tế hiệu quả với xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ. Để 
đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế ­ xã hội, nhà quản lý, các tổ chức xã hội... 
phải  bắt  tay  nhau  thực  hiện  nhằm  mục  đích  dung  hòa  3  lĩnh  vực  chính:  kinh  tế ­ xã 
hội và môi trường. 
Sản phẩm chủ lực và sự phát triển bền vững 
Quá trình toàn cầu hóa đi đôi với tự do hóa thương mại phát triển nhanh chóng nhờ 
sự thúc đẩy bởi các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đã làm thay đổi quan trọng diện 
mạo của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở tất cả các nước. Quá trình này đã mang đến 
nhiều cơ hội cũng như thách thức mới với nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Do vậy, việc 
phát triển sản phẩm chủ lực nhất thiết phải cân nhắc đến tính bền vững, lâu dài của chúng 
và đặt trong mối quan hệ tam giác “triple bottom line”, với 3 cạnh nối các đỉnh: kinh tế, xã 
hội và môi trường. 
Hình 1.3  Quan hệ giữa Con người – Tài nguyên – Lợi nhuận với Sản phẩm 

CON 
NGƯỜI 

Nguồn: Theo thiết kế sản phẩm 

SẢN 
PHẨM 
CHỦ LỰC 

1)  Liên  quan 
người: Phát triển sản 
đáp  ứng  các  yêu  cầu 

hướng tới phát triển bền vững 


TÀI 
NGUYÊN 

LỢI 
NHUẬN 

về  xã  hội  và 

đến  yếu  tố  Con 
phẩm  chủ  lực  phải 
công bằng. 

Phát triển sản phẩm chủ lực sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động ở


26 

nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm thiểu tình trạng mất cân bằng trongthu 
nhập thu nhập giữa thành thị và nông thôn. 
2)  Liên quan đến yếu tố tài nguyên: Phát triển sản phẩm chủ lực trong giới hạn khả 
năng cho phép của tài nguyên, nguồn lực và hệ sinh thái. 
Phát triển sản phẩm chủ lực phải góp phần giảm sử dụng năng lượng hóa thạch, hạn 
chế sử dụng các hóa chất độc hại, giảm chất thải công nghiệp và làm sạch các khu vực bị ô 
nhiễm, đồng thời ngăn ngừa việc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên tái tạo và nước; 
chặn đứng phá rừng, xói mòn đất, rửa trôi chất màu và phá hủy hệ sinh thái, giảm đốt củi 
và sử dụng phân gia súc. 
3) Liên quan đến yếu tố lợi nhuận: Phát triển sản phẩm chủ lực phải tạo ra giá trị 
một cách công bằng cho người tiêu dùng và các bên liên quan trong chuỗi giá trị. 
Phát triển sản phẩm chủ lực cần bảo đảm  khả năng sinh lời cho các doanh nghiệp 

và  các bên liên quan,  tạo  ra giá  trị  hữu dụng cao  cho người  tiêu  dùng, đảm bảo  nối  kết 
giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các công ty lớn và các công ty đa quốc gia, công 
nghiệp hóa, hiện đạt hóa và không ngừng tăng quy mô sản xuất hợp lý [42]. 

1.2. Phương pháp xác định và phát triển sản phẩm chủ chủ lực 
1.2.1. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 
1.2.1.1. Khái niệm tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một hoặc một số chỉ tiêu định lượng hoặc 
định  tính mà  theo đó, người  ta  có  thể nhận biết  được sản phẩm  nào  có ưu  thế  trong  sản 
xuất, kinh doanh hoặc cạnh tranh trên thương trường để công nhận là sản phẩm chủ lực. 
Theo quan điểm của một số  nhà nghiên cứu thì có thể tiếp cận vấn đề  này từ các 
khía cạnh như sau: 
Một là, phải xem xét, đánh giá và lựa chọn sản phẩm chủ lực dựa trên cả hai nhóm 
tiêu chí, tiêu chí cần và tiêu chí đủ. 
+ Nhóm tiêu chí cần: là những yếu tố nội tại của một sản phẩm cụ thể nào đó mà 
chúng có thể giúp sản phẩm đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội, đặc biệt là đáp ứng 
được các mục tiêu của nhà quản lý như: có quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao, nộp ngân sách 
lớn,  giải  quyết  nhiều  lao  động...  Khi  một  sản  phẩm  có  đủ  các  yếu  này  thì  sản phẩm  đó 
được coi là sản phẩm chủ lực. 
+ Nhóm tiêu chí đủ: là những yếu tố mà sản phẩm chủ lực đòi hỏi về phía xã hội. 
Chẳng hạn như: phải có tài nguyên, nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng thương hiệu, chính


27 

sách hợp lý… Trên thực tế, khi các doanh nghiệp hay nhà nước đáp ứng tốt những đòi hỏi 
này thì sản phẩm bình thường vẫn có thể trở thành sản phẩm chủ lực. 
Có  thể nói rằng, tiêu chí cần  là mục tiêu  cuối cùng mà một sản phẩm  phải hướng 
tới, còn tiêu chí đủ là những yếu tố mà “xã hội” phải quan tâm đảm bảo để sản phẩm đạt 
đến mục tiêu của mình. 

Hai là, khi xem xét, đánh giá lựa chọn sản phẩm chủ lực phải cân nhắc đầy đủ cả 
hai tiêu chí, tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính. 
Mặc dù mọi phương pháp xác định sản phẩm chủ lực đều cố gắng lượng hóa đến 
mức tối đa để có thể đưa ra kết quả khách quan, chính xác, nhưng trên thực tế không thể 
quy tất cả các yếu tố kinh tế và xã hội thành các con số. Đó là chưa kể còn có nhiều biến 
số khó lường có thể làm đảo lộn mọi tính toán. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng cả 
hai loại tiêu chí định tính và định lượng. Tiêu chí định lượng dựa trên các số liệu thống kê, 
phân tích bằng các thuật toán, còn tiêu chí định tính  chủ  yếu dựa trên các yếu tố kinh tế, 
chính trị, xã hội được xác định bằng kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia [37]. 
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cũng cần phải vận dụng linh hoạt, không cứng 
nhắc khi sử dụng các tiêu chí. Chẳng hạn, có tiêu chí về lý thuyết có thể định lượng như 
nhu cầu thị trường, giá trị thương hiệu, nhưng nếu không thể đo đếm, tính toán được các 
chỉ tiêu đo lường một cách chính xác thì đành phải sử dụng nó như là tiêu chí định tính, 
với vai trò đánh giá của các chuyên gia. Tuy vậy, khi xây dựng tiêu chí, cần cố gắng lượng 
hóa cả các đánh giá định lượng và định tính thành điểm số để dễ so sánh và lựa chọn. 
1.2.1.2. Yêu cầu đối với tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực chỉ bảo đảm được chất lượng tốt và khả thi khi 
nó thỏa mãn các yêu cầu sau: 
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính định lượng. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có 
thể xây dựng dưới dạng định tính hoặc định lượng. Tuy nhiên, để bảo đảm rõ ràng, minh 
bạch thì các tiêu chí cần được lượng hóa. Những tiêu chí không thể lượng hóa được như 
chỉ  tiêu  đánh giá độ mạnh của  thương hiệu, biểu  trưng  văn hóa địa phương…thì cần  có 
tiêu chí trung gian khác làm cơ sở đánh giá. 
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính khách quan, khoa học. Tiêu chí xác định sản  phẩm 
chủ lực được xây dựng dựa trên các số liệu, dữ kiện khách quan, không áp đặt theo cảm 
tính hay ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Đồng thời nó còn phù hợp với qui luật vận động của 
các yếu tố kinh tế, xã hội – văn hóa.


28 


+  Tiêu  chí  phải  bảo  đảm  tính  đặc  trưng  của  địa  phương.  Tiêu  chí  xác  định  sản 
phẩm chủ lực phải thể hiện được những đặc trưng của từng vùng, miền. Đây là cơ sở phân 
biệt một hàng hóa của địa phương này với hàng hóa của địa phương khác. 
+  Tiêu  chí  phải bảo  đảm  dễ  hiểu,  dễ  thực  hiện.  Xây  dựng  tiêu  chí  xác  định  sản 
phẩm chủ lực không nên sử dụng các mô hình toán phức tạp, triết lý cao siêu hay viện dẫn 
quanh co làm cho việc áp dụng tiêu chí vào thực tế gặp khó khăn phức tạp. 
+Tiêu chí phải bảo đảm tính công khai. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực của địa 
phương cần được xây dựng tập thể và công bố rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan đều 
biết. Việc xây dựng và công bố này nhất thiết phải được thực hiện ngay từ khi ban hành 
chương trình hay qui định về hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương. [2], [8]... 
1.2.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 
Việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có ý nghĩa rất quan trọng cả về 
mặt giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Cụ thể: 
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là thước đo giá trị nội tại và khách quan của 
hàng hóa. Nó phản ảnh trung thực về khả năng đáp ứng những đòi hỏi của thị trường, của 
xã hội cũng như của nhà quản lý. Thông qua các tiêu chí đánh giá, người ta có thể nhận 
biết được sản phẩm chủ lực đang sở hữu những tính năng, chất lượng gì và có khả năng 
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng tới đâu. 
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực còn là những yêu sách về phía xã hội và nhà 
quản lý. Nếu đáp ứng được những yêu sách này thì sản phẩm sẽ đủ điều kiện trở thành sản 
phẩm chủ lực. Như vậy, cũng có thể xem hệ thống tiêu chí đánh giá là khuôn mẫu cho các 
chính sách đầu tư về công nghệ, sử dụng tài nguyên, đào tạo tay nghề và các chính sách hỗ 
trợ của Nhà nước. 
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, khi được thừa nhận, là một văn bản có giá 
trị pháp lý, chi phối mọi hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh, nhà hoạch định chính 
sách  và  nhà  quản  lý.  Để  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực,  các  nhà  sản  xuất  phải  điều  chỉnh 
công nghệ, tổ chức lại sản xuất và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hợp chuẩn. Sẽ 
không  còn  tùy  tiện,  chủ quan xem  thường qui  chuẩn  thường  thấy  ở  đối  tượng này.  Nhà 
hoạch định chính sách và nhà quản lý sẽ lấy đó làm mục tiêu để định ra các biện pháp tổ 

chức thực hiện thích hợp. 
+  Tiêu  chí  xác  định  sản  phẩm  chủ  lực  là  một  bản  tuyên  ngôn  về  chất  lượng  của 
hàng hóa,  thể  hiện  sự  cam  kết  về  trách  nhiệm  của doanh nghiệp, nhà  sản  xuất với  cộng


29 

đồng,  xã  hội.  Thông  qua  hệ  thống  tiêu  chí  xác  định  sản  phẩm  chủ  lực,  người  tiêu  dùng 
hiểu được rằng nhà sản xuất sẽ làm  gì, làm như thế nào và chịu trách nhiệm ra sao trong 
việc cung cấp các tiện ích để thỏa mãn nhu cầu của họ ở chính trong sản trong phẩm của 
các nhà sản xuất. 
+ Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là bản tuyên bố sứ mạng của các 
doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh, có giá trị lâu dài về mục đích  và giúp  phân 
biệt được doanh nghiệp này với những doanh nghiệp khác. Có thể gọi đó là phát biểu của 
một doanh nghiệp về triết lý kinh doanh, những nguyên tắc kinh doanh, thể hiện niềm tin 
và tầm nhìn của doanh nghiệp [2], [8], [16], [17], [37].... 
1.2.1.4. Nội dung các tiêu chí 
Xuất phát từ các vấn đề đã bàn luận trên đây, có thể thấy việc xác định sản phẩm 
chủ lực của quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ  cần dựa trên các tiêu chí định lượng 
và định tính sau đây: 
v  Nhóm tiêu chí định lượng: 
Có  tác  dụng đánh  giá  khả  năng  sản  xuất,  mức  đóng  góp  vào  tăng  trưởng  kinh  tế 
vùng và lợi thế cạnh tranh về mặt định lượng thông qua các số liệu thống kê hoặc điều tra 
thu thập được qua các thời kỳ. Nhóm này có 10 tiêu chí gồm: 
(1) Tỷ trọng của sản phẩm so với toàn vùng (ROV). 
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực vùng với tổng giá trị 
sản lượng của vùng được tạo ra trong một thời kỳ xác định. Tiêu chí này phản ảnh mức độ 
tập trung lao động xã hội của sản phẩm tại một vùng, miền hay địa phương được thể hiện 
thông qua giá trị sản lượng, giá trị gia tăng....(Lindqvist et al, 2003; Karlsson, năm 2008; 
Solvell  et  al,  2009).  Tiêu  chí  này  còn  phản  ảnh  tầm  quan  trọng  của  sản  phẩm  chủ  lực 

thông qua sự đóng góp giá trị của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương. 
Tỷ trọng này được tính theo công thức : 

R OV = 

OV P 
x 100 
OV R 

Trong đó :
·  OVP : Giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực
·  OVR : Tổng giá trị sản lượng của toàn vùng 

(1.1)


30 

Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực đang xét càng quan trọng đối 
với vùng vì nó đóng góp giá trị lớn và  có sức tác động mạnh đến kết quả sản xuất kinh 
doanh của toàn vùng. 
(2) Hệ số địa phương hóa của sản phẩm trong vùng (LQ ir ) 
Hệ số địa phương hóa (Location Quotient ) giúp đo lường mức độ tập trung chuyên 
môn  hóa  của  vùng,  miền  hay  địa  phương  về  lĩnh  vực  khu  vực  i  trong  mối  quan  hệ với 
vùng lãnh thổ lớn hơn R (thường là một quốc gia) và trong toàn bộ nền kinh tế (tức là, tất 
cả  các  lĩnh  vực  của nền  kinh  tế của  một quốc  gia).  Thông qua hệ số này,  người  ta thấy 
được mức độ tập trung chuyên môn hóa của một ngành hay sản phẩm nào đó tại một vùng, 
miền hay địa phương so với mức độ tập trung chuyên môn hóa ngành, sản phẩm đó của 
vùng lớn hơn hay trên cả nước ((Maggioni và Riggi năm 2008). 
Hệ số địa phương hóa được thể hiện theo công thức: 


LQ ir  = 

X ir  / X Ir 
X iR  / X IR 

(1.2)

Trong đó: 
Xir: Giá trị sản lượng sản phẩm loại i của vùng, miền, địa phương r 
X Ir : Tổng giá trị sản lượng trong vùng, miền, địa phương r 
X iR : Giá trị sản lượng sản phẩm i toàn ngành (khu vực lớn hơn hay cả nước R) 
XIR: Tổng giá trị sản lượng của cả nước (hoặc khu vực lớn hơn hay cả nước R) 
Thực tế nghiên cứu của các nước cho thấy nếu LQ <1, cho biết vùng, miền hay địa 
phương đang xét có ít tiềm năng phát triển sản phẩm i; LQ> 1, cho biết vùng, miền hay địa 
phương đang xét nhiều  hay ít tiềm  năng phát triển  sản phẩm  i  và  khi  LQ≥1,25, cho  biết 
vùng, miền hay địa phương đang xét có tiềm năng đặc biệt phát triển sản phẩm i để cạnh 
tranh toàn cầu (Florida State University, 2010). 
(3) Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm trong vùng (Grw). 
Tiêu chí này cho biết mức độ tăng trưởng về sản lượng, giá trị sản lượng hoặc giá 
trị gia tăng của sản phẩm chủ lực. Nó phản ảnh khả năng và triển vọng phát triển của hàng 
hóa chủ lực trong tương lai. 
Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm có thể nhận được từ số báo cáo hàng năm của địa 
hoặc tính theo công thức : 


31 

Grw = 


OV 1  - OV 0 
x 100 
OV 0 

(1.3)

Trong đó : 
OV 1  : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm xem xét 
OV0  : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm định gốc so sánh 
Tiêu chí này có thể xem xét qua nhiều năm. Nếu tốc độ tăng trưởng trung bình càng 
cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực của vùng, miền hay địa phương đang xét càng có khả năng 
và triển vọng tăng trưởng tốt, ổn định và bền vững. 
(4) Hệ số vượt trội của sản phẩm (C Grw ). 
Tiêu chí này phản ảnh khả năng vượt trội của hàng hóa chủ lực đối với toàn ngành 
kinh tế. Nếu hệ số này càng cao chứng tỏ hàng hóa chủ lực đang xét giữ vai trò quyết định 
trong việc hình thành mức tăng trưởng chung cho toàn ngành. 
Công thức xác định hệ số vượt trội có dạng : 

CGrw  = 

G RWi 
G RWs 

(1.4) 

Trong đó: 
G Rwi : là tốc độ phát triển của sản phẩm i 
GRWs: là tốc độ phát triển chung của toàn bộ ngành (khu vực) kinh tế 
Sử dụng hệ số vượt trội để đánh giá mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng sản phẩm i 
đến  toàn bộ ngành  kinh  tế  (nông nghiệp,  công  nghiệp,  thương mại dịch  vụ)  sản phẩm i. 

Nếu  CGrw  <  1,  việc  phát  triển  sản  phẩm  i  sẽ  làm  tăng  tỷ  trọng  giá  trị  sản  phẩm  i  trong 
ngành  nên  sẽ  ảnh  hưởng  tiêu  cực  đến  tăng  trưởng  ngành  kinh  tế  (kéo  giảm  tốc  độ  tăng 
trưởng của ngành); Nếu CGrw >1, việc phát triển sản phẩm y sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản 
phẩm i trong ngành nên sẽ ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (đẩy nhanh 
tốc độ tăng trưởng của ngành). 
(5) Tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm so với toàn vùng (REX) 
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực với tổng giá trị xuất 
khẩu  của  toàn  vùng.  Tiêu  chí  này  phản  ảnh  tầm quan  trọng  của  sản phẩm  chủ  lực  trong 
lĩnh vực xuất khẩu thông qua mức đóng góp của nó trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn 
vùng cũng như khả năng đóng góp ngoại tệ cho địa phương thông qua sự đóng góp giá trị 
xuất khẩu của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương. 


32 

Tỷ trọng này được tính theo công thức : 

R EX = 

EX P 
x 100 
EX R 

(1.5)

Trong đó :
·  EXP : Giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực
·  EXR : Tổng giá trị xuất khẩu của toàn vùng 
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ tính chủ lực của sản phẩm đang xét càng mạnh 
vì nó ảnh hưởng lớn đến thành tích xuất khẩu chung của toàn vùng. 

(6) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu nội địa (RCA D ) 
Là  chỉ  tiêu  phản  ảnh  khả  năng  cạnh  tranh  trong  xuất  khẩu  của  vùng  về  một  sản 
phẩm cụ thể trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả nước về sản phẩm đó. Nếu tỷ 
trọng  xuất  khẩu  của  vùng  về  sản phẩm  chủ  lực lớn hơn  tỷ trọng  sản phẩm cùng  loại đó 
trong tổng xuất khẩu của cả nước thì vùng, địa phương đang xét được coi là vùng có lợi 
thế so sánh về loại sản phẩm đó. 
Công thức tính hệ số này như sau: 

RCA D  = 

EX ir  / EX r 
EX iN  / X N 

(1.6) 

Trong đó: 
EX ir : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của vùng, địa phương r 
EXr: Tổng giá trị xuất khẩu của vùng, địa phương r 
EX iN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của cả nước 
EXN: Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả nước 
Nếu hệ số RCA D  lớn hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là có 
lợi thế  so  sánh  nội  địa  về sản phẩm  i.  Hệ  số này  càng  cao  thì lợi  thế  so  sánh càng  cao. 
Ngược lại, nếu RCAD  nhỏ hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là không 
có lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i. 
(7) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu thế giới của sản phẩm (RCAW) 
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa 
chủ lực trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả thế giới về hàng hóa đó. Nếu tỷ 
trọng xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa chủ lực lớn hơn tỷ trọng hàng hóa đó trong tổng 
xuất khẩu của cả thế giới thì quốc gia đó được coi là có lợi thế so sánh về hàng hóa đó. 



33 

Công thức tính hệ số này như sau: 

RCA W  = 

EX iN  / EX N 
EX iw  / X W 

(1.7) 

Trong đó: 
EXiN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của quốc gia 
EX N : Tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia 
EXiw: Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của thế giới 
EX W : Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả thế giới 
Nếu hệ số RCAW  lớn hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là có lợi thế so sánh 
quốc  tế  về  sản phẩm  i.  Hệ số  này  càng  cao  thì  lợi thế  so  sánh  càng  cao.  Ngược  lại, nếu 
RCA W  nhỏ hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là không có lợi thế so sánh quốc tế 
về sản phẩm i. 
8) Hệ số thương mại ròng của sản phẩm (NTR) 
Là chỉ  tiêu phản  ảnh mối  tương  quan  giữa  xuất  và  nhập khẩu  của hàng hóa cùng 
loại với hàng hóa chủ lực. 
Công thức tính hệ số thương mại ròng: 

NTR = 

EX i  - IM i 
EX i  + IM i 


(1.8)

Trong đó: 
EX i : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i 
IMi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm i 
Nếu hệ số NTR có giá trị lớn hơn 0 thì quốc gia đang xem xét có lợi thế so sánh ở 
sản phẩm i, còn nếu NTR nhỏ hơn 0 thì quốc gia đang xem xét không có lợi thế so sánh ở 
sản phẩm i. Giá trị NTR gần bằng 0 là tình trạng lợi thế không rõ ràng 
(9) Hệ số bảo hộ hiệu dụng của hàng hóa chủ lực (EPR) 
Hệ số bảo hộ hiệu dụng của một sản phẩm là chênh lệch giữa giá trị gia tăng tính 
theo  giá  trong  nước  của ngành  sản phẩm đó và  giá trị gia  tăng  tính theo  giá  thế  giới  rồi 
chia cho giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. ERP Là chỉ tiêu phản ảnh mức độ bảo hộ 
trong nước đối với hàng hóa chủ lực hoặc nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng hóa chủ lực 
thông qua thuế quan. 


34 

Mức bảo hộ hiệu dụng làm tăng giá trị gia tăng trong nước và được tính toán bằng 
công thức: 

ERP = 

AV PD  - AV PW 
AV PW 

(1.9) 

Trong đó: 

AVPD : là giá trị gia tăng tính theo giá trong nước; 
AV PW : là giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. 
Hệ số bảo hộ hiệu dụng có thể có giá trị âm, có thể có giá trị dương hoặc bằng 0. 
Hệ số này thường có giá trị âm đối với những ngành công nghiệp có thế mạnh xuất khẩu, 
bởi vì khi đó thuế nhập khẩu đối với ngành đó bằng 0, trong khi đó đầu vào sản xuất lại 
phải chịu thuế nhập khẩu. Việc tính toán AVPD  và AVPW  cần dựa vào bảng cân đối liên 
ngành  I/0. 
10) Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC) 
DRC là chỉ số thường được dùng để đánh giá lợi thế so sánh của ngành hàng thông 
qua  xem  xét  tính  hiệu  quả  của  nguồn  lực  trong  nước  được  sử  dụng  để  sản  xuất  ra  sản 
phẩm. DRC biểu thị tổng chi phí của các nguồn lực trong nước được sử dụng tương ứng 
với 1 đơn vị tiền tệ thu được từ sản phẩm đem bán. Do đó, DRC nhỏ hơn 1 có nghĩa là sản 
phẩm có lợi thế so sánh và ngược lại. DRC càng nhỏ thì lợi thế so sánh càng cao. 
Công thức tính: 

DRC = 

( PV  - DIV  - FIV ) 
FIV i 
P i ( 1 ) 
PV i 

(1.10 
)

Trong đó: 
PVi: Giá trị sản xuất của một đơn vị sản phẩm i 
DIV i : Giá trị đầu vào nội địa trong một đơn vị sản phẩm i 
FIVi: Giá trị đầu vào nhập khẩu trong một đơn vị sản phẩm i 
P i : Giá nhập khẩu của một đơn vị sản phẩm i (tính theo giá nội địa) 

Hệ số DRC>1 có nghĩa là phải tốn hơn 1 đồng chi phí nguồn lực trong nước để tạo 
ra 1 đồng giá trị gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả. [10], [43], [46] 
v  Nhóm tiêu chí định tính: 


×