Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 139 trang )


PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế 
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái 
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí 
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước 
trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc 
tế  mà thời  gian  qua đã giúp  cho  các  lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ  và đặc biệt  là nông 
nghiệp ở ĐBSCL đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ  tăng trưởng GDP lập nên kỷ 
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh 
tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và 
nông nghiệp  công nghệ cao; thu nhập bình quân  đầu người tăng lên và đời sống xã hội 
không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế 
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương 
trong vùng và cả nước…. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua 
cũng  bộc  lộ  khá nhiều  yếu  kém:  tăng  trưởng xuất  khẩu  không ổn  định,  còn  chứa  đựng 
nhiều  yếu  tố  không bền  vững  và dễ bị  tổn  thương bởi  những  cú  sốc từ bên ngoài;  sản 
phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí 
tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh 
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp…. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên 
cứu, sự phát triển kinh tế ­ xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có 
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát 
triển của vùng cũng rất thiếu đồng bộ, chưa cân xứng  giữa  các ngành nghề, lĩnh vực và 
giữa các địa phương; phát triển nặng về chiều rộng, chạy theo số lượng nên chất lượng, 
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao… 
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ 
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia 
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu 
quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào 
khác  có  được ngoài vùng đất nầy. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm cách nào để  ĐBSCL xác 


định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát

triển; làm cách nào để cho sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với 
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm 
chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường 
hội nhập và cạnh tranh quốc tế… 
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những 
sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển 
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở 
thời điểm hiện nay. Và, đây cũng  chính là  lý do mà  tác  giả  chọn đề tài: “Xác định sản 
phẩm  chủ  lực  và  phát  triển  sản phẩm  chủ  lực  Đồng bằng  sông  Cửu  Long  đến  năm 
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân. 
2.  Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án 
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 
Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây: 
1) Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và 
tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho 
toàn vùng. 
2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020. 
3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL trong thời gian tới. 
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt các 
nhiệm vụ trọng tâm như sau: 
1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm 
sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn và 
phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020. 
2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm 
chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ 
thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020. 

3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những 
hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ 
lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020.

4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét 
chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp 
khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài . 
3.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 
3.1.  Đối tượng nghiên cứu 
Đối  tượng nghiên  cứu  của luận  án  là các  sản  phẩm  hàng hóa  và  dịch vụ  chủ lực 
mang  đặc trưng  cho lợi  thế,  tiềm  năng và  gắn chặt  với quá trình  phát triển kinh  tế  của 
vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng 
bằng sông Cửu Long giai từ nay đến năm 2020. 
2.2.  Phạm vi nghiên cứu 
Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng 
phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trò chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế 
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 
Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngoài các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sông 
Cửu  Long, khi nghiên cứu nhu  cầu thị trường thì phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra 
nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước. 
4.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu 
Phát triển cụm công nghiệp gắn với phát triển vùng  lãnh thổ và địa phương, hoặc 
phát triển ngành hoặc sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều 
công trình trong và ngoài nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên, 
nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh 
tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, quá trình nghiên cứu, 
Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra. 
4.1. Tài liệu nước ngoài 
1)  Thuyết  lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia  của  M.Porter  (1990).  Porter  cho  rằng, 
các lý thuyết phát triển truyền thống như lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi  thế  so 

sánh của David Ricardo  xem nền kinh tế như  là sự “định hướng bởi  yếu tố nguồn  lực”. 
Tức,  lợi  thế  của một quốc  gia  trong  thương mại quốc  tế  được  xác định bởi  các  yếu  tố 
nguồn lực như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động và qui mô dân số địa phương vì 
chúng tạo  ra chi phí thấp. Tuy nhiên, theo Porter thì "sự thịnh vượng của quốc gia được 
tạo ra chứ không phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao 
hiệu quả thông qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị

độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter 
và các lý thuyết  cạnh tranh khác vào việc xác định lợi thế cạnh tranh để phát triển cụm 
chuyên môn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21]. 
2) Lý  thuyết cụm  phát triển  của M.  Porter (1990).  Ban  đầu, Porter  cung cấp các 
nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho 
các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi 
thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp 
vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn 
với  các  chiến  lược  phát  triển  địa  phương.  Trong  trường  hợp  này,  sự  tiếp  cận  cụm  về 
nguyên tắc được sử dụng như là công cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên 
kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận 
dụng  thành  công  lý thuyết này  vào  lựa  chọn  và  phát  triển ngành/sản  phẩm  chủ  lực  tập 
trung theo không gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48]. 
3) Sự phát triển của khái niệm cụm ­ Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian 
H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael 
M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, 
Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính 
sách phát triển kinh tế và xem đây như là mô hình phát triển kinh tế mới. Thông qua công 
trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu 
của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng 
của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong môi trường cạnh tranh toàn cầu [48]. 
4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng 
nông thôn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát 

triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức 
độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các 
sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị 
trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm. 
Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm 
là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có 
thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45]. 
5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong 
bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các

giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà 
nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng 
thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã 
nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc 
gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường 
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa, 
dịch vụ chủ lực của địa phương [47]. 
Ngoài các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này 
được  tác  giả  tham  khảo  như:  “Regional  innovation  systems  (RIS)  in  China  của  Jon 
Sigurdson”  đăng  trên  Working  Paper  No  195,  July  2004  [49];  “Sustaining  the  Green 
Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative 
industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in 
Japanese  alcoholic  beverages  and  fermented  foods,  Tokyo  University  of  Agriculture 
Sedagaya­ku,  Tokyo,  Japan  [54];  “Identifying  and  assessing  the  factors  that  influence 
cluster’s competitiveness in Oregon, and some initial suggestions”, Luận án Tiến sĩ của 
Sam Gi Hong (2007) [52]....Nhìn  chung các tài liệu này đều nhấn mạnh đến vai trò của 
phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề 
xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững. 
4.2 Tài liệu trong nước 
1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các 

tỉnh  vùng  Bắc  Trung  bộ”  của  Nguyễn  Hồng  Lĩnh  (2007).  Luận  án  đã  vận  dụng  các lý 
thuyết  liên quan, đặc biệt  là mô hình kim cương  của  M. Porter để phân tích tìm ra  các 
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn 
các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo 
sát thực tế; rút kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông 
Nam  Á  và  dựa  trên  tiềm  năng,  lợi  thế  của  vùng,  Luận  án  đã  xác  định  các  ngành  công 
nghiệp chế biến nông, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9]. 
2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo 
Chương  trình,  sẽ  hình  thành và  phát  triển  hàng  hóa mang  thương hiệu  Việt  Nam  bằng 
công nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên 
việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015 
phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến và do các

doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mô sản 
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng 
thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường 
quốc tế [24]. 
3) Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 – 
2005 của Bộ Khoa học­Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) với 
chủ đề “ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm 
chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu 
xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng 
công nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.  Nội dung chủ yếu của Chương trình 
là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có 
năng  suất, chất lượng cao, chống  chịu sâu bệnh…; xây dựng  các mô hình thâm canh và 
sản xuất công nghiệp trong nuôi trồng nông, lâm, thủy hải sản theo hướng bền vững và 
bảo vệ môi trường sinh thái...[1] 
4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực 
Thành phố Hà Nội”. Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của 
Thành phố là các tiêu chí gồm sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; được 

tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ công nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với 
trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của 
Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng 
cao, ổn định; hoặc thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, đóng  góp tỷ trọng lớn vào 
tổng  GDP  công  nghiệp.  Qui  trình  xét  chọn  có  4  bước:  đề  xuất  doanh  nghiệp  tham  gia 
Chương trình; khảo sát sản phẩm công nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và công nhận 
sản phẩm chủ lực...[17]. 
5) Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí 
Minh  giai  đoạn 2002  –  2005”. Theo  Chương trình này, Hệ  thống  tiêu  chí  lựa  chọn  sản 
phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng 
ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham 
gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn công nghệ, nâng cao 
trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thông qua các hoạt 
động hướng dẫn, tư vấn hay môi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín, 
giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2].

Ngoài ra, Luận án còn tham khảo nhiều tài liệu chương trình phát triển sản phẩm 
chủ lực tương tự của các địa phương khác cũng như hội thảo, hội nghị,... liên quan đến 
vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa,  dịch vụ chủ lực 
Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng 
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy 
(Tp Cần Thơ) giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn  đến năm 2020” và các bài viết khác của 
các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy 
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng 
như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm công, nông, nghiệp và thủy sản chủ 
lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu và giải quyết vấn 
đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững. 
5. Tính mới của Luận án 
So với các công trình nghiên cứu cũng như chương trình phát triển sản phẩm chủ 
lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau: 

1) Hoàn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương 
pháp xác  định  sản phẩm chủ lực để  vận dụng vào  giải quyết  các vấn đề có tính lý luận 
cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long 
đến năm 2020. 
2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm 
chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét 
chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo 
đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa 
có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn. 
3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hoàn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho 
việc công nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực 
một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thông qua 
đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực không thể chối cải của các sản phẩm này bằng 
một số chỉ tiêu định lượng quan trọng. 
4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện 
việc xem xét, tính toán và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển 
vọng  trong vùng để  từ  đó  lập  ra bảng  Danh mục những  sản  phẩm  chủ lực  ĐBSCL đến 
năm 2020.

5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL 
thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển sản phẩm chủ lực của 
vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ 
nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020. 
6.  Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài 
6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề 
Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thông qua các phương pháp chủ yếu như: 
+ Tiếp cận hệ thống: Trong quá trình nghiên cứu xác định  sản phẩm chủ lực của 
Đồng bằng sông Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ không có tính đặc thù hoặc tính 
đặt thù không cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ 
cùng  loại  trong cả nước. Nghĩa  là  xem hàng hóa, dịch  vụ  đó  của Đồng bằng  sông  Cửu 

Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước. 
+ Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua tài 
liệu, sách báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng để xây dựng các mô hình lý thuyết 
về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở 
chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó. 
+ Các phương pháp hỗ trợ khác: Sử dụng các  phương  pháp  mô hình hóa, sơ  đồ 
hóa, phương pháp thống kê, phương pháp hồi qui tuyến tính…, đặc biệt trong phân tích 
cạnh tranh sẽ áp dụng mô hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác 
định lợi thế cạnh tranh ngành hàng. 
6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính 
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu 
thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ 
đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây 
dựng  cơ sở lý  thuyết  một cách  khoa học và khách quan  về  sản phẩm  chủ  lực.  Công  cụ 
được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là: Khảo sát thực tế tại các địa phương, thảo 
luận nhóm; Thảo luận tay đôi; Quan sát  ... 
6.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng 
Các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực như: 
Hệ số lợi thế hiển thị ngành (RCA); Hệ số thương mại ròng (NTR); Hệ số địa phương hóa 
(LQ); Hệ số bảo hộ hiệu dụng (EPR); Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)...

7. Khung nghiên cứu 
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN 
PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC 
Cơ sở lý luận xác định SP chủ lực 
và phát triển sản phẩm chủ lực 
­  Lý luận chung về SP chủ lực 
­ Thuyết lợi thế tuyệt đối  (A.Smith) 
và lợi thế so sánh của (D.Ricardo) 
­ Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia 

và Cụm phát triển của M. Porter 
Phương pháp xác định và phát 
triển SP chủ lực 
­ Các tiêu chí đánh giá và thang 
điểm đánh giá xét chọn SP chủ lực 
­ Qui trình xác định SP chủ lực 
­ Các nội dung và nguyên tắc cơ 
bản hỗ trợ phát triển SP chủ lực 
Chương 2. THỰC TRẠNG  XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ 
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL THỜI GIAN QUA 
Thực  trạng  phát  triển 
sản phẩm chủ lực 
­ Lĩnh vực nông nghiệp 
và thủy sản 
­ Lĩnh vực công nghiệp 
­ Lĩnh vực thương mại 
và dịch vụ 
Thực  trạng  xác  định 
sản phẩm chủ lực 
­  Xây dựng  tiêu  chí  và 
qui trình xác định 
­  Danh  mục  sản  phẩm 
chủ  lực 
­ Nhận xét, đánh giá 
Đánh  giá  tiềm  năng 
phát  triển  sản  phẩm 
chủ lực ĐBSCL 
­ Vận dụng mô hình 
kim cương (M.Porter) 
và các lý thuyết đã 

khác trình bày 
Chương 3. XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT 
TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020 
Xây  dựng  Hệ  thống 
tiêu  chí  xác  định  sản 
phẩm chủ lực ĐBSCL 
­Hệ thống tiêu chí 
­Thang điểm và phương 
pháp tính toán 
Xây  dựng  Danh  mục 
SP chủ lực ĐBSCL 
­ Sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL 2006­2010 
­  Sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL đến năm 2020 
Giải  pháp  triển  sản 
phẩm chủ lực  ĐBSCL 
­ Giải pháp phát triển 
sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL đến 2020
10 
8. Kết cấu chung của luận án 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án 
được kết cấu thành ba chương: 
Chương 1: Cơ sở khoa học cho việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển 
sản phẩm chủ lực 
Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm 
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm 
chủ  lực  trong  phát  triển  kinh  tế  vùng,  địa  phương;  các  lý  thuyết  có  liên  quan  và  kinh 
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước. 

Chương 2: Thực trạng xác  định  và  phát triển  sản phẩm chủ  lực Đồng  bằng 
sông Cửu Long thời gian qua 
Chương  này  chủ  yếu thực hiện  việc  phân  tích, đánh  giá  thực  trạng  xác  định  sản 
phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược 
điểm trong việc xác định sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở 
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020. 
Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng 
bằng sông Cửu Long đến năm 2020 
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác 
định  sản phẩm chủ lực  ĐBSCL; đề  xuất Danh mục  sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển  sản phẩm chủ lực của ĐBSCL một 
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 
Chương 1 
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM 
CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC 
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực 
1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực 
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực
11 
Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy 
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm 
này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng 
lãnh thổ. Điển hình nhất là Nhật bản, 20 năm  sau  thế  chiến thứ  2  (1951  – 1973) đã trở 
thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được 
xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy 
ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập 
kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang 
nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá 
rẻ... đã đưa nền kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình 
hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn 

nền  kinh  tế  hàng đầu  thế  giới  (WB, 2007).  Tương  tự,  thông qua hai  cuộc  “Cách  mạng 
xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông 
nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định 
và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53] 
Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới 
và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ 
XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu 
mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của 
đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ 
kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và 
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương 
lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi 
nói về sản phẩm chủ lực. 
v  Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước 
+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi 
trường  (nay  là  Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ)  là  sản  phẩm  giúp  gia  tăng  kim  ngạch  và 
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản 
phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ cũng như tạo điều kiện 
đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm 
năng lượng, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định
12 
số: 21/2001/QĐ­bKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản 
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1]. 
+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ 
Chí Minh giai đoạn 2002­2005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp 
với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này 
phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao 
đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế 
của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ Chí Minh giai đoạn 
2002­2005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều 

nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và 
thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐ­UB) [2]. 
+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp 
Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố 
Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong 
phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường 
trong và ngoài nước; Được tạo ra trên dây chuyền thiết bị có công nghệ ngang  tầm khu 
vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời 
kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định 
ở mức  cao và thuộc nhóm sản phẩm xuất  khẩu chủ  lực  với tỷ trọng đóng góp vào tổng 
GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐ­UB) [17]. 
+  Cùng  một quan  niệm  với Tp  Hồ  Chí  Minh  và  Tp  Hà  Nội,  tỉnh  Đồng  Nai  với 
“Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn 
2006­2010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản 
phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc 
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong một thời kỳ nhất định. Đây là những sản 
phẩm công nghiệp chiếm tỷ trọng cao  trong cơ cấu ngành công nghiệp có nhịp độ tăng 
trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và ảnh hưởng đến sự phát triển đối 
với  nhiều  sản phẩm  công  nghiệp  khác  cũng như  có sức  cạnh tranh  cao  trên  thị  trường 
trong  nước  và  xuất  khẩu  (Quyết  định  số 955/QĐ­UBND).  Nói  cách  khác,  đối  với  tỉnh 
Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng 
và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng 
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9].
13 
v  Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu 
+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh, 
Chuyên gia  nghiên  cứu  khu  công nghiệp,  trong một bài viết  của mình  cũng đã sử dụng 
khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai 
phát  triển mạnh  về công nghệ,  có khả năng cạnh  tranh trên thị trường quốc  tế  và  trong 
nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có 

tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng 
mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình 
hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là 
sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng 
cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô 
hình nữa.
+ Với TS  Lê Tấn  Bửu, Trưởng khoa Thương mại­Du lịch­Marketing, trường Đại 
học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến 
nông,  thủy  sản  vì đây  là  thế mạnh  của  Việt  Nam  mà  trọng điểm  là  ĐBSCL,  đồng  thời 
chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội. 
Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi 
thời kỳ khác nhau  việc nhận  thức về  sản phẩm chủ lực có khác nhau. Chính từ sự nhận 
thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển 
sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một 
vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là 
lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để 
tập  trung  đầu  tư  phát  triển  là  nhiệm  vụ  có  tính  chiến  lược  đối  với  mỗi  quốc  gia,  địa 
phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án cần đi đến một nhận 
thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực. 
1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực 
Trước  hết,  cần  bắt  đầu  với  thuật  ngữ  “chủ  lực”.  Theo  Từ  điển  tiếng  Việt  thông 
dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác 
dụng quyết định. Ứng với tiếng Anh là “driving force” (lực lượng  có tính dẫn đạo) hay 
“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ 
lực lượng quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định chiến trường như “quân chủ lực”, “bộ 
đội” chủ lực...Lực lượng này được sử dụng khi  cần giải quyết các mục tiêu chiến lược,
14 
quyết  định đến phạm vi  toàn  cục. Đặc trưng của chủ  lực  là tập  trung  với số  lượng lớn, 
được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác 
chiến trên diện rộng. 

Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm 
dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức là sản phẩm hữu 
hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản 
phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính 
năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm 
chế  biến có  thịt  đóng hộp,  cá  đóng  hộp,  thịt  đông  lạnh,  cá  đông  lạnh...,  ngành  hóa mỹ 
phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu 
tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng 
với sản phẩm  chủ lực hay ngành hàng  chủ lực như: key products, main products, major 
products  hoặc key sectors, main sectors. 
­ Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí 
chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main 
products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến), 
Canned (đóng hộp)... 
­ Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ yếu của Công 
ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết 
kế và cài  đặt tất  cả  các bảng  phân  phối  điện),  Control  Board  (Bảng  kiểm  soát  điện), 
Electric  Box  (Hộp  điện), Capacitor  Bank  medium  and  low  Voltage  (Tụ  bù  trung  áp  và 
thấp áp)…. 
­ Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ 
sản  phẩm  chính  của  Sumikin  Bussan  Special  Steel  Co.,  Ltd  là:  Tubes  and  Pipes  (ống 
nước, ống kết cấu cho xe ô  tô, máy móc và ống thép đặc biệt cho các nhà máy hóa dầu); 
Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire 
Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm 
chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với 
nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử, 
điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay. 
­ Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa 
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có
15 

các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và 
thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền 
thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình).... 
Từ những  kết quả phân tích đã trình bày ở phần trên, có thể nhận diện sản phẩm 
chủ lực  thông qua định nghĩa như sau: “Sản phẩm chủ lực  là sản phẩm hàng hóa  hoặc 
dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn và năng lực cạnh 
tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời 
nó còn  có thể là sản phẩm  thể hiện  tính đặc thù riêng, mang  ý nghĩa văn hóa  của  một 
quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” 


1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực 
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản 
của sản phẩm chủ lực như sau: 
1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao 
Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra 
để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng 
hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến 
nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng, 
mẫu mã kiểu dáng và các tính năng khác phải  giống nhau  giữa  các cá thể. Rõ ràng, sản 
phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ 
công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi 
lực yếu, sức cạnh tranh không cao. 
2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế 
Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng, 
thiết kế kỹ thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo  tiêu  chuẩn quốc tế; có khả năng tiêu thụ tốt 
không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu 
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng 
sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước 
mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp. 

Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực 
cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững. 
3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh 

Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có
16 
Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều 
ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác 
và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực 
cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ 
này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công 
nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương 
hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất 
lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ, 
nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo. 
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ 
Một  sản  phẩm chủ lực  còn  là  sản phẩm  thể hiện  lợi  thế  đặc trưng của quốc  gia, 
vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản 
phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ 
cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính lợi thế cạnh tranh của 
quốc  gia hay vùng lãnh thổ (vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động…). Ngoài ra, 
nhiều  sản phẩm chủ lực còn là biểu tượng văn hóa của quốc gia hay vùng lãnh thổ, góp 
phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế. 
5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường 
Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên 
liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho 
môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc 
quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu 
tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi 
trường so với sản phẩm được thay thế. 

1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án 
Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu 
trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với 
từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới. 
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực 
Khái niệm trong Luận án  Các khái niệm trước đây
17 
Nêu  bật  mục  đích  chính  của  sản  phẩm 
được  tạo  ra  là  để  trao  đổi  mua  bán,  đặc 
biệt là mua bán quốc tế. 
Chỉ  cho biết  sản  phẩm  nói  chung  chứ  chưa 
thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua 
bán, nhất là mua bán quốc tế. 
Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa 
trên  tiềm  năng,  lợi  thế  chung  của  vùng, 
miền quyết định một cách khách quan. 
Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào 
điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và 
do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan 
Bao  gồm  cả sản phẩm công nghiệp, nông 
nghiệp ­ thủy sản và dịch vụ 
Thường  chỉ  đề  cập  chủ  yếu  đến  sản  phẩm 
công nghiệp, hoặc nông nghiệp 
Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá 
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến 
các ngành nghề khác 
Chú  trọng  đến  khía  cạnh  tạo  ra  giá  trị  sản 
lượng,  tốc  độ  tăng  trưởng,  hiệu  quả...  riêng 
của sản phẩm chủ lực mà thôi. 
Sản  phẩm  không  những  mang  giá  trị  vật 

chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá 
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa… 
Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật 
chất, giá trị kinh tế mà thôi 
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng 
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực 
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh 
thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể: 
1) Xác định đúng  sản phẩm chủ lực đồng nghĩa với việc xác định  được năng lực 
cạnh  tranh  cốt  lõi của quốc  gia,  vùng  lãnh  thổ…,  để  từ  đó  có  chính  sách  đầu  tư đúng 
hướng, tập trung và có chiều sâu. 
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu 
tư phát triển một  cách  có  trọng  tâm,  trọng điểm và  theo  chiều  sâu trên  cơ  sở lợi  thế so 
sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng 
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua 
đó tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được 
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế ­ 
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.
18 
2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa, 
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng, 
có tác động lôi  kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển. 
Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ các ngành 
nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một 
ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm 
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này, 
có  thể  xác  định  được  những  ngành  nào  có  khả  năng  lan  tỏa  đến  nó  để  có  chính  sách 
khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ. 
3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh 
tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu. 

Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp, 
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó. 
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn 
kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững. 
4)  Xác  định  đúng  sản  phẩm  chủ  lực  cũng  có  nghĩa  là  xác  định  đúng  đối  tượng 
khách hàng và  thị trường tiêu thụ để tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý và thực 
hành chất lượng phù hợp. 
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được 
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng. 
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất 
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn 
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. 
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực 
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723­1790) 
Adam Smith được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại. Tác phẩm lớn nhất của 
ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của 
chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá. 
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong 
mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi 
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm
19 
bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó, 
A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá 
rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi 
thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương. 
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí 
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi 
phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí 
sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối 

với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi 
bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao 
sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem 
lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước. 
Ngày nay,  đối  với các nước đang  phát  triển  như  Việt  Nam  việc  khai  thác lợi  thế 
tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm, 
đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ. 
Khi nhập  công nghệ  sản xuất, lao động trong nước sẽ học được cách sử dụng máy móc 
thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này, 
vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển (có lợi thế tuyệt 
đối về công nghệ) và các nước đang phát triển (có lợi thế tuyệt đối về nguồn lực) thông 
qua bù đắp sự  yếu kém về khả năng  sản xuất tư liệu sản xuất  và  yếu kém về kiến thức 
công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55]. 
1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1772­1823) 
Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các 
quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại 
thương  có  lợi  cho  mọi  quốc  gia  miễn  là  xác  định  đúng  lợi  thế  so  sánh.  Nghĩa  là  việc 
chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động 
cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập 
lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự 
khác  nhau  giữa  các  nước  trong công  nghệ sản  xuất  dẫn  đến năng  suất vật  chất  và  đòi 
hỏi lao động đơn vị khác nhau. 
Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công 
nghệ  như  nhau:  các  nước  phát  triển có  cung  về tư  bản nhiều  hơn các  nước  đang  phát
20 
triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên 
một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy 
giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại 
ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản. 
Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước 

đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công. 
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế 
so sánh cao một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có 
lợi  thế  so  sánh  về  những hàng  hóa này.  Điều  này  lý  giải  vì  sao Việt  Nam lại xuất 
khẩu nhiều sản  phẩm  thô  hoặc  sơ chế  như  dầu thô, than  đá,  thủy  sản  đông  lạnh...  hoặc 
hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc, 
thiết bị từ các nước phát triển [3]. 
1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (1772­1823) 
Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình 
phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng 
thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là 
cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và 
cuốn  ''Lợi  thế  cạnh  tranh quốc  gia”  vào  năm  1990.  Trong  tác  phẩm  Lợi  thế  cạnh  tranh 
quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh 
vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter 
thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết 
các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi 
thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của 
một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành 
của quốc gia  đó. Khi nền tảng của cạnh tranh càng  chuyển dịch sang  sự sáng tạo và tri 
thức mới thì vai  trò của quốc gia càng tăng lên. M. Porter cho rằng các nền kinh tế đều 
phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất, 
cạnh tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh 
tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt 
với cạnh tranh quốc tế. 
Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc 
gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác
21 
định được một nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào sẽ là cơ sở để chính quyền địa 
phương hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phù hợp để 

sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất và vị thế cạnh tranh. 
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của Porter 
Nguồn: Porter (1990) 
Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao 
độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên 
ưu  thế  quyết  định  sự  thành  công  trong  cạnh  tranh.  Các  quốc  gia  thành  công  ở  một  số 
ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong 
và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ 
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, 
nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành 
phụ trợ. Như vậy, lợi thế cạnh tranh có thể hiểu là lợi thế về nguồn lực, cơ hội hoặc điều 
kiện tự nhiên... mà một doanh nghiệp, ngành, quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể tạo ra một 
số ưu thế vượt trội về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc tế 
giúp  cho  các  doanh  nghiệp  có  được  “Quyền  lực  thị  trường”  để  thành  công  trong  kinh 
doanh  quốc tế. Theo Michael.E Porter,  lợi thế cạnh tranh  của quốc  gia, địa phương hay 
vùng lãnh thổ có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngành và sản phẩm. 
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có lợi thế cạnh tranh tốt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các 
ngành và doanh nghiệp thông qua việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm ưu việt hơn 
so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ông cho rằng, bí quyết mà một quốc gia gặt hái 
được sự thành công quốc tế trong một ngành nhất định nằm trong bốn thuộc tính lớn của 
một  quốc  gia.  Bốn  thuộc  tính này  định  hình  nên môi trường cạnh  tranh  của  các doanh 
nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh và được coi là các 
yếu tố quyết định của mô hình, là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, 
Nền kinh tế định 
hướng yếu tố 
Nền kinh tế định 
hướng đầu tư 
Nền kinh tế định 
hướng sáng tạo 
Hiệu quả nhờ 

chi phí đầu vào 
Hiệu quả nhờ 
đầu tư mạnh 
Hiệu quả nhờ 
đổi mới
22 
các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, 
Ông còn đưa ra thêm 2  yếu tố bổ sung là vai trò của nhà nước và  yếu tố thời cơ. (Xem 
Michael E. Porter, 2008) [21]. 
Hình 1.2  Mô hình Kim cương trong năng lực cạnh tranh của M. Porter 
Nguồn: Lợi thế cạng tranh quốc gia của Michael M. Porter 
Qua mô hình kim cương, Michael M. Porter đưa ra 4  yếu tố quyết định năng lực 
cạnh tranh và 2 yếu tố chi phối các yếu tố quyết định của một ngành bao gồm: 
v  Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 
+ Chiến  lược công ty,  cấu  trúc  và  cạnh tranh nội địa.  Những  điều  kiện  kinh  tế, 
chính trị xã hội của một quốc gia ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức và quản lý doanh 
nghiệp cũng như đặc tính của cạnh tranh trong nước. 
+ Các điều kiện về phía cầu. Thị trường trong nước với số cầu lớn và có những 
khách hàng đòi hỏi cao và những cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ tạo ra khả năng 
cạnh tranh cao hơn cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 
+ Điều kiện về các yếu tố sản xuất. Bao gồm chất lượng lao động, vốn rẻ, cơ sở hạ 
tầng mạnh và công nghệ cao trong khu vực hay quốc gia sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh 
của ngành, của khu vực và của cả quốc gia. 
+ Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Năng lực cạnh tranh của một ngành 
phụ thuộc vào các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ. 
CHIẾN LƯỢC 
CÔNG TY, CẤU 
TRÚC VÀ CẠNH 
TRANH NỘI ĐỊA 
CÁC NGÀNH 

CÔNG NGHIỆP 
PHỤ TRỢ VÀ CÓ 
LIÊN QUAN 
CÁC ĐIỀU 
KIỆN VỀ 
CẦU 
ĐIỀU KIỆN 
YẾU TỐ SẢN 
XUẤT 
SỰ 
NGẪU 
NHIÊN 
CHÍNH 
PHỦ
23 
v  Các yếu tố chi phối các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 
+ Vai trò của chính phủ. Chính phủ có thể tác động tới năng lực cạnh  tranh của 
ngành thông qua cả 4 nhóm nhân tố: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các 
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của 
ngành. Các tác động của chính phủ có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
·  Đối với các yếu tố sản xuất và các ngành hỗ trợ và liên quan; chính phủ có 
thể tác động thông qua chính sách thuế, vốn, trợ cấp, quy hoạch phát triển ngành,…
·  Đối với nhu cầu trong nước, chính phủ tác động bằng những quy định mang 
tính chất định hướng nhu cầu như quy định tiêu chuẩn đối với từng mặt hàng trong ngành, 
các biện pháp kích thích hoặc kiềm hãm nhu cầu đối với một loại sản phẩm nhất định.
·  Đối với cơ cấu và môi trường cạnh tranh, sự tác động của chính phủ thể hiện 
thông qua những quy định về thị trường tín dụng, chính sách thuế và các quy định về cạnh 
tranh trong sản xuất, kinh doanh của ngành hàng cụ thể. 
+ Sự ngẫu nhiên hay vai trò của cơ hội. Cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan 
đến tình trạng sản xuất, kinh doanh hiện tại của ngành hàng nào đó tại quốc gia. Những cơ 

hội có thể đến với mặt hàng có thể là: những cuộc khủng hoảng  kinh tế, thiên tai, chiến 
tranh ở các quốc gia, khu vực trên thế giới; sự tiến bộ về công nghệ sinh học; sự bãi bỏ các 
hàng  rào  thuế  quan  hay  phi  thuế  quan  của  chính  phủ  các  nước  đối  với  mặt  hàng  nào 
đó…làm nhu cầu ở những nơi này tăng lên, đẩy giá cả thế giới lên cao hay ngược lại. 
Hiện nay, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước những 
cơ hội và thách thức lớn khi hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Làm thế nào để tận dụng tốt 
thời cơ cũng như có biện pháp ngăn chặn những tác động tiêu cực từ hội nhập là một câu 
hỏi mà các quốc gia đều quan tâm. Câu trả lời là: mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cần phải 
phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình trong mối tương quan với nền kinh tế thế giới. 
1.1.3.4  Thuyết cụm phát triển của Michael E. Porter 
Được  phát  triển bởi  M.  Porter  (1990),  lý  thuyết  cụm  được  sử  dụng  một  các  phổ 
biến trong việc hoạch định các chính sách công cộng và kinh tế. Cụm được tạo thành khi 
các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các ngành, sản phẩm 
tương  tự  vào trong một vùng  nhằm  tăng khả năng cạnh tranh bằng việc tăng năng suất, 
khuyến khích các công ty mới cải tiến, thậm chí giữa các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những 
cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. “Cụm là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành 
sản xuất, dịch vụ nhằm  tận dụng các cơ hội qua liên kết địa lý” (Chritian Ketels, 2003).
24 
Các công ty thành viên của cụm sẽ chia sẻ các yêu cầu và các mối quan hệ bên trong với 
nhà cung cấp và khách hàng. Các mối quan hệ bên trong công ty yêu cầu các dịch vụ bổ 
sung từ các nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các công ty chủ chốt. 
Cụm sẽ tạo ra lực lượng lao động, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối 
quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ 
hỗ trợ và các bên hữu quan [47], [50], [51]. 
Ban đầu,  Porter  cung  cấp  các  nguyên  lý  cụm  cho  các  cụm  quốc  gia  và  quốc  tế 
nhưng  sau đó đã  nhận ra sự thích hợp cho các cụm vùng kinh tế  trong nội bộ quốc gia. 
Một cụm giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hoá, dịch vụ, trong đó các ngành sản 
xuất được liên kết với nhau bởi dòng hàng hoá và dịch vụ mạnh hơn dòng liên kết chúng 
với phần còn lại của nền kinh tế. Các quan hệ trong cụm được phân thành 3 loại: 
(1) quan hệ mua  ­ bán bởi  sự tập  trung và  hội nhập dọc  giữa  quá trình  sản  xuất 

chính với các đầu vào và phân phối hàng hoá và dịch vụ; 
(2) quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh và các đối tác nhằm khai thác thông tin về 
sản phẩm và qui trình, mở rộng sự cải tiến và các liên kết chiến lược; và 
(3) quan hệ giữa thị phần và nguồn tài nguyên bằng sự chia sẻ công nghệ, lực lượng 
lao động và thông tin. 
Việc sử dụng khái niệm cụm như là công cụ để hiểu được quá trình phát triển sản 
phẩm chủ lực ở cấp độ vùng và sự ảnh hưởng của nó đến việc định dạng và chuyển giao 
chính sách phát triển cụm và phát triển kinh tế vùng. Ở cấp vùng, các chính sách phát triển 
cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn với các chiến lược phát triển địa 
phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về nguyên tắc được sử dụng như là công 
cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. 
1.1.3.5 Phát triển bền vững sản phẩm chủ lực 
Năm 1980, lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được Hiệp hội 
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế ­ IUCN công bố), thuật ngữ "phát 
triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không 
thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã 
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Đến năm 1987, khái niệm này được phổ 
biến  rộng  rãi thông  qua  nội  dung  của Báo  cáo  Brundtland (còn  gọi  là  Báo  cáo Our 
Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới ­ WCED (nay là Ủy ban 
Brundtland). Theo báo cáo này thì phát  triển bền vững là "sự phát triển  có thể đáp ứng
25 
CON 
NGƯỜI 
SẢN 
PHẨM 
CHỦ LỰC 
TÀI 
NGUYÊN 
LỢI 
NHUẬN 

được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng 
nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm hài 
hòa giữa phát triển kinh tế hiệu quả với xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ. Để 
đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế ­ xã hội, nhà quản lý, các tổ chức xã hội... 
phải  bắt  tay  nhau  thực  hiện  nhằm  mục  đích  dung  hòa  3  lĩnh  vực  chính:  kinh  tế ­ xã 
hội và môi trường. 
Sản phẩm chủ lực và sự phát triển bền vững 
Quá trình toàn cầu hóa đi đôi với tự do hóa thương mại phát triển nhanh chóng nhờ 
sự thúc đẩy bởi các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đã làm thay đổi quan trọng diện 
mạo của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở tất cả các nước. Quá trình này đã mang đến 
nhiều cơ hội cũng như thách thức mới với nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Do vậy, việc 
phát triển sản phẩm chủ lực nhất thiết phải cân nhắc đến tính bền vững, lâu dài của chúng 
và đặt trong mối quan hệ tam giác “triple bottom line”, với 3 cạnh nối các đỉnh: kinh tế, xã 
hội và môi trường. 
Hình 1.3  Quan hệ giữa Con người – Tài nguyên – Lợi nhuận với Sản phẩm 
Nguồn: Theo thiết kế sản phẩm  hướng tới phát triển bền vững 
1)  Liên  quan  đến  yếu  tố  Con 
người: Phát triển sản  phẩm  chủ  lực  phải 
đáp  ứng  các  yêu cầu  về  xã  hội  và  công bằng. 
Phát triển sản phẩm chủ lực sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động ở

×