Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

11 bài tập cá nhân tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.19 KB, 5 trang )

ĐỀ BÀI: Số 01
Anh Hồng và chị Thuỷ kết hôn tháng 12/1998, trên cơ sở tự nguyện, có đăng
ký kết hôn. Thời gian đầu của thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chung sống hạnh phúc.
Khoảng cuối năm 1999, vợ chồng có mâu thuẫn, do anh Hồng nghi ngờ vợ ngoại
tình. Đến tháng 12 năm 2005, chị Thuỷ sinh con. Tháng 1/2007, anh Hồng làm đơn
xin ly hôn và chia tài sản chung với chị Thuỷ nhưng chị Thuỷ không đồng ý ly hôn.
Theo tài liệu trong hồ sơ thì trong thời gian sống chung anh chị có vay của ông C số
tiền là 100 triệu đồng. Nay ông C cũng đề nghị Tòa án buộc anh Hồng và chị Thủy
trả số nợ trên khi giải quyết việc ly hôn, phân chia tài sản chung vợ chồng. Tháng
6/2007, Toà án sơ thẩm đã xử ly hôn và giao con chung cho chị Thuỷ nuôi, buộc anh
Hồng phải cấp dưỡng nuôi con; phần vay nợ của ông C Toà án tách ra giải quyết
riêng bằng vụ án đòi nợ.
Hỏi:
a) Theo anh (chị), Toà án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản vợ
chồng và giải quyết yêu cầu đòi nợ trong cùng một vụ án không? Tại sao?
b) Giả sử chị Thuỷ đang nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi thì anh Hồng có quyền yêu
cầu Toà án giải quyết việc ly hôn không?

1


BÀI LÀM
a) Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản vợ chồng và giải quyết
yêu cầu đòi nợ trong cùng một vụ án.
Căn cứ Điều 5, Mục III. Về dân sự, Công văn của Tòa án nhân dân tối cao
số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ hướng
dẫn: “Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà người khác nợ
vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác thì cần phải đưa người nợ hoặc chủ
nợ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ
các trường hợp sau đây:
- Vợ chồng cùng đồng ý không buộc người nợ phải trả nợ cho họ;


- Chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ.
- Chủ nợ chưa có yêu cầu vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ”.1
Như vậy, khi giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản nếu vợ chồng không yêu
cầu người nợ phải trả cho họ hoặc chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng phải trả nợ
cho mình hoặc chủ nợ chưa yêu cầu vợ chồng phải trả nợ thì Tòa án sẽ không giải
quyết yêu cầu đòi nợ và giải quyết ly hôn, chia tài sản vợ chồng trong cùng một vụ
án. Sau này nếu chủ nợ yêu cầu thì họ có thể khởi kiện thành một vụ án khác và việc
chưa giải quyết khoản nợ này cũng sẽ không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ các
bên.
Tuy nhiên, theo đề bài trên, vì ông C cũng có yêu cầu vợ chồng họ phải trả
nợ nên Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản và yêu cầu đòi nợ cùng
một vụ án.
Căn cứ khoản 4, Điều 56 BLTTDS 2004, thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ở đây (người nợ hoặc chủ nợ) có thể tham gia tố tụng trong vụ giải quyết yêu
cầu ly hôn, chia tài sản của vợ chồng do tự mình yêu cầu, có thể theo yêu cầu của
Tòa án nhân dân, có thể theo yêu cầu của nguyên đơn hay bị đơn.
Trên thực tế có rất nhiều vụ Tòa án đã giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản của
vợ chồng và giải quyết yêu cầu đòi nợ trong cùng một vụ án. Đơn cử, như vụ: Vụ ly
hôn giữa chị Đỗ Thị Kiển và anh Nguyễn Văn Thế (cùng trú xã Mỹ Thọ) được
TAND huyện Phù Mỹ đưa ra xét xử vào tháng 12/2008. Theo bản án, buộc anh Thế
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 2 con là cháu Nguyễn Thanh Tâm (SN 1992) và Nguyễn
Thanh Tịnh (SN 2002) đến khi đủ 18 tuổi với số tiền mỗi tháng là 250.000
đồng/cháu. Ngoài ra, chị Kiển được sở hữu 1 ngôi nhà cấp 4, sử dụng 262 m2 đất
vườn thừa và một số vật dụng gia đình khác. Phần anh Thế, anh được sử dụng xe
1



2



máy loại cúp đam 50, sở hữu 100 m2 đất ở và các vật dụng khác và có nghĩa vụ trả
số nợ chung của hai vợ chồng khi chưa ly hôn2
Việc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào một vụ kiện đã phát
sinh giữa nguyên đơn và bị đơn vẫn có lợi cho họ hơn, nhất là trong những tranh
chấp về tài sản vì nếu họ không tham gia tố tụng ngay thì sau khi Tòa án đã xử,
những quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án xác định, mà lúc
đó người thứ ba mới khởi kiện thì việc xử lý sẽ khó khăn, phức tạp hơn.
b) Nếu chị Thủy đang nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi thì anh Hồng không có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Căn cứ khoản 2, Điều 85 BLTTDS 2004, Quyền yêu cầu Toà án giải quyết
việc ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp
vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền
yêu cầu xin ly hôn”. Theo quy định trên, nếu chị Thủy đang nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi
(dưới 12 tháng tuổi), thì pháp luật không cho phép anh Hồng thực hiện quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Cũng theo Luật hôn nhân và gia đình, xuất phát từ
nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi đã quy định
điều kiện hạn chế ly hôn đối với người chồng, trong khi vợ đang có thai hoặc đang
nuôi con dưới mười hai tháng tuổi.
Và ở đây, điều kiện hạn chế ly hôn này chỉ áp dụng đối với người chồng, mà
không áp dụng đối với người vợ. Trong trường hợp người vợ đang có thai hoặc đang
nuôi con dưới 12 tháng tuổi, xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng rất sâu sắc, tình cảm
yêu thương giữa vợ chồng đã hết, nếu duy trì quan hệ hôn nhân sẽ không có lợi cho
sức khỏe của mình, của thai nhi hay của con mới sinh, mà người vợ có yêu cầu ly
hôn thì tòa án vẫn thụ lý đơn yêu cầu xin ly hôn của người vợ và giải quyết theo thủ
tục chung.
Thực tiễn cho thấy đã có nhiều trường hợp người chồng yêu cầu ly hôn vợ
mình khi người vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lấy ví dụ
trường hợp: Anh T. và chị Hồng kết hôn và chung sống với nhau đến nay đã hơn
mười năm. Họ có ba đứa con gái, đứa lớn nhất 10 tuổi, đứa thứ hai 2,5 tuổi và đứa

bé nhất chỉ mới 6 tháng tuổi. Cho rằng vợ không biết sinh con trai nên mới đây anh
T. cứ một mực đòi ly hôn và yêu cầu để anh ấy nuôi cả ba đứa con 3; Nhưng trường
hợp trên không được Tòa án giải quyết (bác đơn xin ly hôn của anh T).

2

Nguồn: />
Nguồn: />3

3


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2009.
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS)
3. Công văn của Tòa án nhân dân tối cao số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về
việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ.
4. Các website :



4


ĐỀ BÀI: Số 01
Anh Hồng và chị Thuỷ kết hôn tháng 12/1998, trên cơ sở tự nguyện, có đăng
ký kết hôn. Thời gian đầu của thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chung sống hạnh phúc.
Khoảng cuối năm 1999, vợ chồng có mâu thuẫn, do anh Hồng nghi ngờ vợ ngoại
tình. Đến tháng 12 năm 2005, chị Thuỷ sinh con. Tháng 1/2007, anh Hồng làm đơn

xin ly hôn và chia tài sản chung với chị Thuỷ nhưng chị Thuỷ không đồng ý ly hôn.
Theo tài liệu trong hồ sơ thì trong thời gian sống chung anh chị có vay của ông C số
tiền là 100 triệu đồng. Nay ông C cũng đề nghị Tòa án buộc anh Hồng và chị Thủy
trả số nợ trên khi giải quyết việc ly hôn, phân chia tài sản chung vợ chồng. Tháng
6/2007, Toà án sơ thẩm đã xử ly hôn và giao con chung cho chị Thuỷ nuôi, buộc anh
Hồng phải cấp dưỡng nuôi con; phần vay nợ của ông C Toà án tách ra giải quyết
riêng bằng vụ án đòi nợ.
Hỏi:
a) Theo anh (chị), Toà án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn, chia tài sản vợ
chồng và giải quyết yêu cầu đòi nợ trong cùng một vụ án không? Tại sao?
b) Giả sử chị Thuỷ đang nuôi con nhỏ dưới 1 tuổi thì anh Hồng có quyền yêu
cầu Toà án giải quyết việc ly hôn không?

5



×