Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích so sánh tư tưởng quản lý của A.Maslow và F.Herzberg? Phân tích ý nghĩa thực tiễn của những tư tưởng này trong điều kiện hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.07 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
MÔN: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ
Đề tài: Phân tích so sánh tư tưởng quản lý của A.Maslow và
F.Herzberg? Phân tích ý nghĩa thực tiễn của những tư tưởng này
trong điều kiện hiện nay.

Giảng viên: PGS.TS Phạm Ngọc Thanh
Sinh viên:

Nguyễn Thị Thu Hà

Msv:

11030188

Lớp:

K56A Khoa học quản lý

Hà Nội, 5-2013

1


Đề tài 7: Phân tích so sánh tư tưởng quản lý của A.Maslow và
F.Herzberg? Phân tích ý nghĩa thực tiễn của những tư tưởng này
trong điều kiện hiện nay?


Bài làm
I, ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết con người chỉ có thể tồn tại và phát triển thông qua
hoạt động để thỏa mãn nhu cầu nhất định. Nhu cầu là nguồn gốc của
động cơ thúc đẩy hành vi của con người mà nhu cầu của mỗi người lại rất
đa dạng. Vậy trong tổ chức người quản lý phải làm thế nào để mọi người
làm việc cùng nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung? Người quản lý chỉ
thành công khi nhận thấy được cái gì sẽ thúc đẩy mọi người đóng góp
một cách hiệu quả cho mục tiêu chung.
Có thể nêu ra những lý thuyết về nhu cầu, động cơ thúc đẩy giúp người
quản lý có thể kích thích và thỏa mãn được sự nỗ lực của mọi người đảm
bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ như: Lý thuyết phân cấp nhu cầu của
Maslow, lý thuyết hai yếu tố của Herzberg, lý thuyết mong đợi của
Vroom, lý thuyết công bằng của Stacy,… Trong phạm vi đề tài của mình
tôi xin được đề cập đến lý thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow và lý
thuyết hai yếu tố của Herzberg. Có thể nói hai lý thuyết này là quan trọng
và được nhiều nhà quản lý áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý. Vấn
đề được đề cập trong đề tài này của tôi là phân tích so sánh tư tưởng
quản lý của Maslow qua thuyết phân cấp nhu cầu với tư tưởng quản lý
của Herzberg qua thuyết hai yếu tố cũng như việc vận dụng chúng trong
thực tiễn quản lý ngày nay như thế nào.
2


II, TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
 Lý thuyết nhu cầu của Maslow:
Vài nét về tác giả và thuyết phân cấp nhu cầu.
Abraham Maslow( 1908-1970) là nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ và
là cha đẻ của ngành tâm lý học nhân văn. Ông được Thế giới biết đến qua
lý thuyết phân cấp nhu cầu. Maslow là con cả trong một gia đình người

Do Thái, ông từng học ngành Luật tại City College of New York. Sau đó
ông chuyển đến Wisconsin và theo học tại University of Wisconsin về
tâm lý học.
Maslow đã gặp gỡ nhiều nhà tâm lý học hàng đầu Châu Âu trong đó có
Kurt Goldstein, người đã giới thiệu ông ta về ý tưởng của sự tự nhận thức
về nhu cầu.
Vào năm 1954, Abraham Maslow đã đưa ra đưa ra quan điểm về nhu cầu
của con người và nhu cầu này được sắp xếp theo các thứ bậc khác nhau.
Học thuyết của ông được dựa trên những con người khoẻ mạnh, sáng tạo,
những người sử dụng tất cả tài năng, tiềm năng và năng lực trong công
việc. Vào thời điểm đó, phương pháp này khác biệt với các công trình
nghiên cứu tâm lý con người khác được dựa trên việc quan sát con người
bị chi phối bởi các phiền muộn là chủ yếu.
Nội dung của thuyết phân cấp nhu cầu
Theo Maslow con người là động vật luôn ham muốn với những nhu cầu
trong cuộc sống. Hành vi của chúng ta phụ thuộc vào việc thỏa mãn hay
không thỏa mãn các nhu cầu bản thân. Những nhu cầu ấy được sắp xếp
3


theo thứ bậc với ý nghĩa quan trọng, khi một nhu cầu được thỏa mãn thì
nhu cầu khác xuất hiện và đòi hỏi được thỏa mãn. Maslow sắp xếp các
nhu cầu của con người trong một hệ thống có mức độ quan trọng khác
nhau theo thứ tự tăng dần bao gồm năm nhu cầu: Nhu cầu về sinh lý, nhu
cầu về an toàn, nhu cầu về xã hội, nhu cầu về sự tôn trọng và nhu cầu tự
thể hiện mình. Năm nhu cầu cơ bản của con người được chia làm hai
nhóm là nhu cầu bậc thấp( nhu cầu về sinh lý, an toàn, xã hội), nhu cầu
bậc cao( nhu cầu về sự tôn trọng, tự thể hiện mình). Nhu cầu bậc thấp
xuất hiện trước tiên và được thỏa mãn trước khi nhu cầu bậc cao xuất
hiện. Con người đều cố gắng để thỏa mãn nhu cầu của mình khi nhóm

các nhu cầu thỏa mãn thì loại nhu cầu này không được coi là động cơ
thúc đẩy nữa. Điều đó có nghĩa là chỉ những nhu cầu không được thỏa
mãn mới có ảnh hưởng đến hành vi của con người.
a) Nhu cầu sinh lý: đây là những nhu cầu cơ bản và quan trọng nhất của
mỗi người như nhu cầu duy trì sự sống về thức ăn, nước uống, sưởi ấm,
tình dục,… nhu cầu sinh lý nếu không được thỏa mãn thì sẽ chi phối, ảnh
hưởng đến những nhu cầu khác và hành vi của con người. Nhu cầu này
được xếp vào bậc thấp nhất và cơ bản nhất trong các nhu cầu của
Maslow.
b) Nhu cầu an toàn: khi nhu cầu về tâm lý được đáp ứng đầy đủ thì nhu
cầu cao hơn sẽ xuất hiện và sẽ trở nên quan trọng. Nhu cầu an toàn là nhu
cầu về an ninh, bảo vệ khi bị xâm hại, ốm đau, bệnh tật, thảm họa, các sự
cố bất ngờ,…đây là những nhu cầu tránh sự nguy hiểm và sự đe dọa mất
việc, mất tài sản, mất thức ăn, mất nhà ở. Nhu cầu an toàn thể hiện trong
cả thể chất lẫn tinh thần của con người.

4


c) Nhu cầu xã hội: Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội. Con người không thể tồn tại và phát triển nếu không quan hệ và hoạt
động với người khác. Khi là thành viên của xã hội chúng ta cần được
những người khác chấp nhận. Đó là nhu cầu về tình yêu, tình bạn, sự yêu
quý, những mối quan hệ với người khác. Nhu cầu xã hội cho thấy con
người khi không thỏa mãn nhu cầu này sẽ tác động đến tinh thần của cá
nhân đó.
d) Nhu cầu được tôn trọng: Nhu cầu được người khác tôn trọng, quý
trọng, được công nhận, nhu cầu về sự tự trọng, ý thức cá nhân về quyền
làm chủ. Theo Maslow khi con người thỏa mãn nhu cầu xã hội tức là họ
được chấp nhận là thành viên trong xã hội thì họ có xu thế tự trọng, muốn

người khác tôn trọng. Nhu cầu này dẫn đến sự thỏa mãn như quyền lực,
uy tín, quyền lực, địa vị, lòng tự tin. Có nhu cầu này là con người đã ý
thức được tầm quan trọng của mình đối với người khác và sự tôn trọng tự
phía người khác với mình.
e) Nhu cầu tự thể hiện mình: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất của
con người trong hệ thống phân cấp nhu cầu của ông. Nhu cầu tự khẳng
định mình phát triển và sử dụng năng lực, khả năng một cách đầy đủ nhất
và sáng tạo nhất-đó là khi tiềm lực của con người đạt mức tối đa và hoàn
thành được mục tiêu nào đó. ông cho rằng chỉ có thể thỏa mãn được nhu
cầu tự thể hiện mình sau khi được thỏa mãn tất cả những nhu cầu khác.
Nhận xét:
Như vậy, thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow là thuyết đạt tới đỉnh cao
trong việc nhận diện những nhu cầu tự nhiên của con người. Có lẽ vì vậy
mà thuyết phân cấp nhu cầu của ông được chấp nhận ngay từ khi nó mới

5


được ra đời. Hệ thống thứ bậc nhu cầu của ông dễ hiểu, đời thường và chỉ
ra được những yếu tố thôi thúc con người hòan thành mục tiêu.
Tuy nhiên, học thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow không phải là một
sự tuyệt đối hóa và toàn vẹn. Hạn chế của thuyết ở việc những nhu cầu
không tập hợp lại theo những cách đã được dự đoán. Không thể đoán
được khi nào những nhu cầu riêng biệt trở nên quan trọng. Cũng như việc
không có mối quan hệ nào rõ ràng giữa nhu cầu và hành vi của con
người. Nhu cầu chưa được mô tả chính xác vì những nhu cầu này có thể
thay đổi theo thời gian, theo tình huống khác nhau. Hệ thống thứ bậc này
có thể khác nhau giữa các cá nhân.
 Lý thuyết hai yếu tố của Herzberg:
Vài nét về tác giả và thuyết hai yếu tố.

Frederick Herzberg( 1923-2000) là nhà tâm lý học người Mỹ, cha đẻ của
thuyết hai yếu tố. Học thuyết này đã và đang được các nhà quản lý áp
dụng rộng rãi. Ông đã từng là chủ nhiệm khoa tâm lý ở trường đại học
Khanx và là người có uy tín rất lớn trong giới khoa học quản lý.
Để xây dựng học thuyết hai nhân tố, Herzberg đã tiến hành phỏng vấn
203 nhân viên kế toán và kỹ sư tại Mỹ. Việc lựa chọn hai đối tượng trên
để phỏng vấn được lý giải bởi tầm quan trọng của các nghề này trong
hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Phát hiện của Herzberg đã tạo ra một sự
ngạc nhiên lớn vì nó đã đảo lộn nhận thức thông thường. Các nhà quản lý
thường cho rằng đối ngược với thỏa mãn là bất mãn và ngược lại. Nhưng,
Herzberg lại cho rằng đối nghịch với bất mãn không phải là thỏa mãn mà

6


là không bất mãn và đối nghịch với thỏa mãn không phải là bất mãn mà
là không thỏa mãn.
Nội dung của thuyết hai yếu tố.
Các nhân tố liên quan đến sự thỏa mãn đối với công việc được gọi là
nhân tố động viên- nhân tố bên trong. Các nhân tố liên quan đến bất mãn
được gọi là các nhân tố duy trì- nhân tố bên ngoài.
Nhân tố động viên là tác nhân của sự thoả mãn, sự hài lòng trong công
việc, như: - Đạt kết quả mong muốn.
- Sự thừa nhận của tổ chức, lãnh đạo và đồng nghiệp.
-Trách nhiệm.
- Sự tiến bộ, thăng tiến trong nghề nghiệp.
- Sự tăng trưởng như mong muốn.
Nhân tố duy trì là tác nhân của sự bất mãn của nhân viên trong công việc
tại một tổ chức, có thể là do: - Chế độ, chính sách của tổ chức.
- Sự giám sát trong công việc không thích hợp.

- Các điều kiện làm việc không đáp ứng mong
đợi của nhân viên.
- Lương bổng và các khoản thù lao không phù
hợp hoặc chứa đựng nhiều nhân tố không công bằng.
- Quan hệ với người đồng cấp nảy sinh mâu
thuẫn.
- Quan hệ với các cấp (cấp trên, cấp dưới)
không đạt được sự hài lòng.
- Sự không đảm bảo về việc làm.

7


- Địa vị chưa tương xứng.
- Đời sống cá nhân còn khó khăn.
- Các điều kiện làm việc chưa được chú trọng.
Đối với các nhân tố động viên nếu được giải quyết tốt sẽ tạo ra sự thỏa
mãn từ đó động viên người lao động làm việc tích cực, chăm chỉ hơn.
Nhưng nếu không được giải quyết tốt thì tạo ra tình trạng không thỏa
mãn chứ chưa chắc gây bất mãn. Trong khi đó đối với các nhân tố duy trì
nếu giải quyết không tốt sẽ tạo ra sự bất mãn, nếu giải quyết tốt sẽ tạo ra
tình trạng không bất mãn chứ chưa chắc có tình trạng thoả mãn.
Nhận xét:
Học thuyết này chỉ ra rằng không phải nhu cầu nào cũng là động cơ thúc
đẩy, chỉ những nhu cầu được đáp ứng mà tạo sự thỏa mãn mới là động cơ
thúc đẩy mà thôi. Thuyết hai yếu tố giúp cho các nhà quản lý biết được
các yếu tố gây ra sự bất mãn cho nhân viên và từ đó tìm cách loại bỏ
những nhân tố này. Herzberg đã chỉ ra ảnh hưởng của yếu tố môi trường
đến cá nhân và nhóm. Từ thuyết hai yếu tố mà ông đã đề xuất biện pháp
thúc đẩy nhân viên là làm phong phú công việc- đây là đóng góp quan

trọng cho thuyết quản lý hành vi.
Tuy nhiên, thuyết hai yếu tố của Herzberg còn hạn chế đó là: Đối tượng
nghiên cứu của ông là các kĩ sư và nhân viên kế toán nên nó có thể không
đúng với công nhân không chuyên nghiệp. Lý thuyết này không đề cập
đến các sự khác biệt cá nhân và không định nghĩa quan hệ giữa sự hài
lòng và sự động viên.

8


 So sánh tư tưởng quản lý của Maslow và Herzberg:
Giống nhau:
Những yếu tố mà Herzberg cho rằng sẽ thúc đẩy và khuyến khích được
người lao động giống như nhu cầu bậc cao của Maslow( sự tôn trọng và
tự thể hiện mình). Những yếu tố thúc đẩy này là động lực hàng đầu được
đề cập trong hai thuyết. Nhu cầu về sự tôn trọng và tự thể hiện mình ở
thuyết phân cấp nhu cầu tương tự với những yếu tố động viên trong
thuyết hai yếu tố bao gồm: Thành tựu, bản thân việc làm, sự công nhận,
tiềm năng tăng trưởng, trách nhiệm và sự thăng tiến.
Những yếu tố duy trì của thuyết hai yếu tố tương đương với nhu cầu bậc
thấp trong mô hình của Maslow: Các quan hệ giao tiếp ⇔ Nhu cầu về xã
hội; Chính sách công ty, sự bảo đảm việc làm ⇔ Nhu cầu an toàn; Điều
kiện việc làm, tiền lương, đời sống cá nhân ⇔ Nhu cầu sinh lý.
Như vậy ta thấy ý tưởng của Maslow và Herzberg giống nhau nhưng tên
gọi khác nhau về nhu cầ của con người.
Cả hai ông đều cho rằng dù có những nhu cầu nào cao hơn thì con người
vẫn phải thỏa mãn những nhu cầu cấp thấp để duy trì tình trạng hiện tại
của mình. Đúng vậy nếu đời sống cá nhân không ổn định, còn khó khăn
tức những nhu cầu về thức ăn, nước uống để duy trì sự sống phải được
đáp ứng trước tiên mới xuất hiện những nhu cầu động viên được.

Khác nhau:

9


Theo Herzberg không phải nhu cầu nào của con người cũng là động cơ
thúc đẩy mà chỉ có những nhu cầu khi đáp ứng tạo sự thỏa mãn. Những
yếu tố duy trì hay những nhu cầu bậc thấp của Maslow khi được đáp ứng
không tạo nên động cơ thúc đẩy mà chỉ tạo nên sự không bất mãn chứ
không phải sự hài lòng như quan điểm truyền thống. Như vậy Herzberg
đã bổ sung, phát triển mô hình của Maslow
Đối tượng áp dụng của thuyết phân cấp nhu cầu là với mọi người trong
xã hội trong mọi loại hình còn trong thuyết hai yếu tố hầu như chỉ áp
dụng đối với những người lao động chuyên nghiệp.
Maslow cho rằng mọi nhu cầu có thể thúc đẩy hành vi của con người
nhưng Herzberg cho rằng chỉ có một số nhu cầu nội tại mới là động cơ.
Các yếu tố về tài chính ( tiền) có thể thúc đẩy khuyến khích nhân viên ở
thuyết phân cấp nhu cầu . Ở thuyết hai yếu tố tiền cũng là nhân tố thúc
đẩy nhưng không phải là biện pháp chủ chốt mà còn có biện pháp làm
phong phú công việc.
Thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow đi vào việc mô tả những nhu cầu
của con người trong đời sống, thuyết hai yếu tố của Herzberg chỉ định
những nhu cầu nào mà người quản lý có thể thúc đẩy người lao động.
 Về tư tưởng quản lý của Maslow và Herzberg qua hai thuyết trên ta có
thể thấy tuy có những điểm khác biệt( do cách tiếp cận, yếu tố cá nhân,
góc độ xem xét,…) nhưng cả hai ông đều có đóng góp rất quan trọng cho
lý thuyết hành vi. Những tư tưởng quản lý của hai ông dễ hiểu, dễ áp
dụng và bổ sung cho nhau đã giúp nhà quản lý nhận diện được đâu là yếu
tố thúc đẩy, khuyến khích nhân viên làm việc để hoàn thành mục tiêu
10



chung của tổ chức. Từ đó có các cách vận dụng vào từng tình huống và
hoàn cảnh khác nhau, nâng cao hiệu quả quản lý.
Ý nghĩa thực tiễn tư tưởng quản lý của Maslow và Herzberg trong điều
kiện hiện nay:
Tư tưởng quản lý của Maslow qua thuyết phân cấp nhu cầu:
Lý thuyết phân cấp nhu cầu đã được các nhà quản lý chấp nhận và áp
dụng rộng rãi. Những tư tưởng quản lý của Maslow đã cung cấp những
hiểu biết cho sinh viên ngành quản lý về hành vi cũng như phương tiện
để động viên con người.
Tư tưởng của ông đời thường, dễ hiểu, dễ áp dụng và có thể tham khảo ở
mọi phạm vi cũng như mọi lĩnh vực.
Qua thuyết phân cấp nhu cầu các nhà quản lý biết được các yếu tố thôi
thúc con người. Tiền công hay tiền lương, các điều kiện làm việc thuận
lợi sẽ đáp ứng nhu cầu sinh lý của con người. Tổ chức trả tiền lương
xứng đáng, các lọai tiền phụ cấp, sự đảm bảo có việc làm để thỏa mãn
phần lớn nhu cầu an toàn. Sự giúp đỡ thỏa mãn nhu cầu về xã hội của nhà
quản lý sẽ tạo điều kiện giao tiếp với những người khác trong công việc.
Đồng thời có thể giao những hoạt động quan trọng của công việc, nâng
cao trách nhiệm công việc cũng là nhân tố để người lao động thấy được
sự quý trọng, tôn trọng, được công nhận khả năng của mình. Điềuquan
trọng là người quản lý phải tạo điều kiện để mọi người trong tổ chức tự
thể hiện mình phát triển và sử dụng năng lực đầy đủ và hiệu quả nhấtđây cũng là mục đích cao nhất mà tổ chức cần đạt được.

11


Tư tưởng quản lý của Maslow có vai trò quan trọng trong việc nhận biết
và vận dụng lý thuyết thúc đẩy trong quản lý

Một mệnh đề quan trọng trong thuyết phân cấp nhu cầu của ông là khi
nhu cầu nào đó được thỏa mãn thì sẽ không còn là động cơ thúc đẩy nữa.
Đây là cơ sở cho việc đa dạng và linh hoạt hóa các hình thức động viên,
thúc đẩy nhân viên.
Tư tưởng quản lý của Herzberg qua thuyết hai yếu tố:
Herzberg đã tập trung vào những yếu tố lấy công việc làm trọng tâm mà
các nhà nghiên cứu hành vi ít quan tâm đến để làm cho công việc phong
phú hơn nhằm tăng sự hài lòng của nhân viên. Ông đã mở rộng ý tưởng
của Maslow để có thể vận dụng nhiều hơn vào hoàn cảnh làm việc.
Tư tưởng của Herzberg có ý nghĩa quan trọng khi cho rằng các nhà quản
lý nếu chỉ tập trung vào yếu tố duy trì thì động cơ sẽ không xuất hiện.
Tiền lương là một yết tố cần thiết, nhưng không phải là tất cả. Không hẳn
cứ phải tăng lương mới thúc đẩy người ta làm công việc tốt hơn mức cần
thiết. Trong khi theo quan điểm truyền thống chỉ cần đáp ứng vấn đề
động cơ bằng tiền và điều kiện làm việc thì ông đã cho thấy tầm quan
trọng của việc nỗ lực cơ cấu lại công việc để tăng sự hài lòng cho công
nhân.
III, KẾT LUẬN
Tóm lại tư tưởng quản lý của Maslow qua thuyết phân cấp nhu cầu và
Herzberg qua thuyết hai yếu tố cho chúng ta thấy tầm quan của sự hiểu
biết và lợi dụng các yếu tố thúc đẩy. Rõ ràng khả năng tốt nhất của nhà
12


quản lý là phải biết được cái gì làm cho mọi người tiến hành công việc,
cái gì sẽ thúc đẩy họ thì mới hoàn thành mục tiêu chung như mong muốn.
Những tư tưởng quản lý của Maslow và Herzberg đã và đang được vận
dụng có hiệu quả trong lĩnh vực quản lý và được tham khảo ở nhiều lĩnh
vực khác nhau. Maslow đã sắp xếp năm nhu cầu theo một hệ thống thứ
bậc dựa trên cơ sở mức độ quan trọng khác nhau. Herzberg thì trình bày

hai tập hợp các điều kiện khác nhau là duy trì và động viên, trong đó các
yếu tố duy trì gây nên sự bất mãn khi chúng không hiển diện nhưng khi
đáp ứng thì chưa chắc tạo ra sự thỏa mãn nên chúng không được gọi là
động cơ thúc đẩy còn với các yếu tố động viên lấy công việc làm trung
tâm mới tạo ra sự thỏa mãn và là động cơ thúc đẩy.
Những đóng góp của hai ông đối với khoa học quản lý còn thể hiện trong
việc làm điểm xuất phát tuyệt vời cho những lý thuyết về động cơ, hành
vi sau đó.
Những tư tưởng quản lý của hai ông đều có những ưu điểm và hạn chế
nhất định đòi hỏi trong quá trình vận dụng các nhà quản lý phải chọn lọc,
phát huy ưu điểm, khắc phục những mặt còn hạn chế góp phần nâng cao
hiệu quả của hoạt động quản lý.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hồng Lôi : Đạo của quản lý, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2004.
2. Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cường, Phương Kì Sơn: Các
học thuyết quản lý, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội1996
3. Phạm Ngọc Thanh (2013): Bài giảng Lịch sử tư tưởng quản lý
4. Trần Ngọc Liêu (2009): Bài giảng Khoa học quản lý đại
cương.
5. Nguyễn Canh Chất (dịch và biên soạn): Tinh hoa quản lý,
Nhà xuất bản lao động-xã hội, Hà Nội-2003.

14




×