Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN MÔN Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa họcPhân tích khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH liên hệ làm rõ sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.64 KB, 14 trang )

Học viện báo chí và tuyên truyền
Khoa Lịch sử Đảng CSVN

******************

BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Đề tài số 7
Phân tích khái niệm "thời kỳ quá độ từ CNTB lên
CNXH". Liên hệ làm rõ sự vận dụng của Đảng cộng
sản Việt Nam
Sinh viên:
Lớp

:Lịch sử Đảng k32

Năm học: 2013-2014


TÓM TẮT BẢN THAM LUẬN
A.Phân tích khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
1. Khái niệm
2. Các hình thức quá độ
Thứ nhất, quá độ lên CNXH từ các quốc gia TBCN phát triển cao.
Thứ hai, quá độ lên CNXH từ các quốc gia có trình độ TBCN trung
bình hoặc thấp.
Thứ 3, quá độ lên CNXH từ các quốc gia tiền TBCN.
3. Tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ từ CBTB lên CNXH
+ Là thời kỳ cách mạng phải trải qua những khó khăn vô cùng to lớn.
+ Là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt và có những đột biến cách


mạng "long trời, lở đất".
+ Thời kỳ quá độ lên CNXH biểu hiện rõ nét nhất tính đặc thù dân tộc
4. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
5. Nội dung của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
a. Quá độ lên CNXH trong lĩnh vực xây dựng nền dân chủ và từng
bước kiện toàn hệ thống chính trị của CNTB
b. Tính chất quá độ trong phát triển lực lượng sản xuất, đi đôi với từng
bước xây dựng cơ cấu kinh tế quá độ lên CNXH
c. Tính chất quá độ trong xây dựng nền văn hóa và phát huy nhân tố
con người

B. Liên hệ làm rõ sự vận dụng của Đảng CSVN
1. Đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam


Thứ nhất, quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình lâu dài, hết
sức khó khăn
Thứ hai, là thời kỳ đấu tranh giai cấp với những nội dung mới, hình
thức mới bằng phương pháp mới
Thứ ba, quá trình quá độ ấy, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
2. Sự vận dụng của Đảng CSVN
2.1. Giai đoạn trước đổi mới (1954-1986)
2.2. Quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam giai đoạn 1975-1986
2.3. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trong giai đoạn đổi mới
(1986 đến nay)

A. Phân tích khái niệm "thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH"
1. Khái niệm
Quá độ là khái niệm triết học, dùng để chỉ sự chuyển biến, chuyển đổi

về chất từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác, phù hợp với
quy luật phát triển của lịch sử.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin, thời kỳ quá độ lên CNXH
là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã
hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội mới-xã hội
XHCN.
Quá độ lên CNXH là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ sự chuyển biến
có tính chất cách mạng từ các yếu tố, các tiền đề còn mang tính chất TBCN


từng bước trở thành các yếu tố, các tiền đề XHCN, trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH được hiểu là sự chuyển
biến, biến đổi diễn ra trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Theo đó,
các sự vật, hiện tượng, quá trình sẽ được biến đổi từ chỗ còn mang tính chất
TBCN từng bước trở thành những sự vật, hiện tượng, quá trình mang tính
chất XHCN, dưới sự tác động của nhà nước, của giai cấp công nhân.
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH được tính từ khi giai cấp công
nhân dành được chính quyền cho đến khi xây dựng xong cơ sở vật chất-kỹ
thuật và những quan hệ xã hội căn bản của CNXH.
2. Các hình thức quá độ
Trên cơ sở kế thừa quan niệm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăng ghen và
qua phân tích,đánh giá tình hình cách mạng thế giới, Lê nin đã đưa ra 3 hình
thức quá độ lên CNXH, đó là:
Thứ nhất, quá độ lên CNXH từ các quốc gia TBCN phát triển cao.
Trên thực tế, hình thức này chưa diễn ra.
Thứ hai, quá độ lên CNXH từ các quốc gia có trình độ TBCN trung
bình hoặc thấp. Ở các quốc gia có trình độ TBCN trung bình, hình thức quá
độ lên CNXH đã diễn ra ở thế kỷ XX. Ở các quốc gia có trình độ TBCN
phát triển thấp, hình thức quá độ lên CNXH đã, đang diễn ra và đạt được

nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Thứ 3, quá độ lên CNXH từ các quốc gia tiền TBCN
Tất cả các hình thức quá độ này đều phải trải qua một cuộc cách
mạng có ý thức của giai cấp công nhân. Trong quá trình quá độ, các quốc
gia, dân tộc có thể rút ngắn các bước đi và rút ngắn thời gian thực hiện
nhiệm vụ nhưng tuyệt đối không thể bỏ qua các bước đi, các nhiệm vụ lịch
sử cần thiết.


3. Tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
+ Là thời kỳ cách mạng phải trải qua những khó khăn vô cùng to lớn
(nền kinh tế lạc hậu, chiến tranh, nội chiến và sự phản kích quyết liệt của kẻ
thù, những sai lầm, vấp váp, thất bại tạm thời do thiếu kinh nghiệm, yêu cầu
lớn lao của nhiệm vụ xây dựng CNXH và cải thiện đời sống nhân dân...).
Song, do phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử, nên là khó
khăn trong sự trưởng thành, khó khăn có thể và phải vượt qua.
+ Là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt và có những đột biến cách
mạng "long trời, lở đất". Đây là thời kỳ đấu tranh giai cấp để xóa bỏ chế độ
cũ, xây dựng chế độ mới. Là thời kỳ mà nhân dân lao động dần xác lập địa
vị làm chủ, từ văn hóa cũ, con người cũ sang văn hóa mới, con người mới
XHCN. Là thời kỳ mà những nhân tố của xã hội mới và tàn tích của xã hội
cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau, từng bước hình thành những
đặc trưng của CNXH.
+ Thời kỳ quá độ lên CNXH biểu hiện rõ nét nhất tính đặc thù dân
tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc khi bước vào thời kỳ quá độ có xuất phát điểm về
trình độ phát triển khác nhau, điều kiện lịch sử, nền văn hóa không giống
nhau...Vì vậy, mỗi quốc gia, dân tộc sẽ lựa chọn bước đi, hình thức, nhịp độ,
con đường phát triển riêng biệt phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc
gia, dân tộc mình. Do đó, đòi hỏi các Đảng cộng sản của các nước phải vận
dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các quy luật, nguyên lý chung...sao cho

phù hợp với quốc gia mình.
4. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là một tất yếu lịch sử, vì:
- CNXH là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội CNCS, không
thể tự phát ra đời trong lòng xã hội cũ.


- Xây dựng CNXH phải trải qua quá trình đấu tranh gian khổ của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, dành chính quyền Nhà nước, sử dụng
bộ máy Nhà nước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới từ cơ sở hạ tầng
đến kiến trúc thượng tầng.
- Muốn có CNXH đầy đủ và hoàn chỉnh, giai cấp công nhân phải từ
những tiền đề vật chất đã có và bằng công cụ là Nhà nước XHCN để cải tạo
nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới XHCN, làm cơ sở cho một kiến
trúc thượng tầng mới và nền văn hóa mới XHCN.
- Việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một sự nghiệp cực kỳ
khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian cần thiết. Thời gian ấy chính là
thời kỳ quá độ lên CNXH.
Lênin khẳng định: "Cần phải có một thời kỳ quá độ lâu dài từ CNTB
lên CNXH vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới
thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và
phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được
sức mạnh to lớn của những thói quen quản lý theo kiểu tư sản và CNTB. Bởi
vậy, C.Mác có nói đến cả một thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNXH".
5. Nội dung của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
a. Quá độ lên CNXH trong lĩnh vực xây dựng nền dân chủ và từng
bước kiện toàn hệ thống chính trị của CNTB
- Đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
- Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN

- Đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động của các
đoàn thể chính trị-xã hội.
b. Tính chất quá độ trong phát triển lực lượng sản xuất, đi đôi với
từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế quá độ lên CNXH


Quá độ từ một cơ cấu đa dạng, nhiều tầng nấc và cấp độ của những
trình độ và tính chất công nghệ-kỹ thuật khác nhau, từng bước tiến tới một
lực lượng sản xuất có trình độ và tính chất công nghệ-kỹ thuật hiện đại, cao.
Từng bước xác lập và phát triển quan hệ sản xuất mới ngày càng phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Sự quá độ này diễn ra dưới sự tác động có ý thức của Nhà nước, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
c. Tính chất quá độ trong xây dựng nền văn hóa và phát huy nhân tố
con người
Những giá trị văn hóa cơ bản của văn hóa XHCN từng bước ra đời,
hình thành và phát triển, thừa kế các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa hiện đại của nhân loại trên cơ sở các đặc
điểm, các điều kiện mới của toàn bộ sự nghiệp cách mạng XHCN.
Nhân tố con người của CNXH chỉ được hình thành dưới sự tác động
trực tiếp của từng bước đề ra, từng bước sửa đổi, đổi mới và hoàn thiện một
hệ thống cơ chế, chính sách quản lý của chủ thẻ quản lý xã hội.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra tiền đề vật chất và
tinh thần để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản
của CNXH sẽ được thực hiện. C.Mác gọi thời kỳ quá độ này bằng hình
tượng "những cơn đau đẻ kéo dài" để cho CNXH lọt lòng từ xã hội cũ mà
ra.

B. Liên hệ làm rõ sự vận dụng của Đảng CSVN

Thời kỳ quá độ từ TBCN lên CNXH ở Việt Nam là quá độ từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, trình độ TBCN phát
triển thấp. Trong điều kiện, hoàn cảnh đó, Việt Nam tiến hành quá độ lên


CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN. Do những dặc điểm và tính
chất quy định, quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình dần
dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phù
hợp với quy luật phát triển biện chứng của lịch sử. Lê nin chỉ rõ: " Tất cả các
dân tộc sẽ đi lên CNXH, đó là điều không thể tránh khỏi, sự quá độ đó cũng
phù hợp với xu hướng của thời đại ngày nay, thời đại mà nói chung chủ yếu
là sự quá độ từ CNTB lên CNXH". Nước ta quá độ lên CNXH không qua
giai đoạn TBCN, là một sự lựa chọn có tính lịch sử, phù hợp với điều kiện
cụ thể của đất nước và nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
1. Đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Thứ nhất, quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình lâu dài, hết
sức khó khăn. Các khó khăn của thời kỳ quá độ ấy sinh ra từ 3 nguyên nhân
khách quan, là:
Do những hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ
của Đảng, Nhà nước.
Sự chống phá của các thế lực thù địch cùng với sự cản trở của các
phong tục tập quán, ý thức bảo thủ, lạc hậu.
Những thoái hóa, biến chất về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân.
Vì vậy, quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam chắc chắn là một thời
kỳ lâu dài, khó khăn là tất yếu, khách quan. Nhưng đi đến CNXH là con
đường duy nhất của nhân loại, không trừ Việt Nam.
Thứ hai, là thời kỳ đấu tranh giai cấp với những nội dung mới, hình
thức mới bằng phương pháp mới. Với nội dung chính trị là chủ yếu nhất.
Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị chỉ được giải quyết khi có đường lối

chính trị đúng đắn.


Thứ ba, quá trình quá độ ấy, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong đó, quá độ lên cách
mạng XHCN trên lĩnh vực kinh tế là cơ bản, quá độ lên CNXH trên lĩnh vực
chính trị là quyết định, quá độ lên CNXH trên lĩnh vực văn hóa-xã hội là
biểu hiện.
2. Sự vận dụng của Đảng CSVN
Quá trình xây dựng CNXH ở nước ta đã trải qua một thời kỳ lâu dài
và phức tạp. Với sự lãnh đạo tài tình của Đảng CSVN mà đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh, quá trình này đã diễn ra phù hợp với từng hoàn cảnh cụ
thể và đã đạt được những thành tựu nổi bật. Cụ thể, được chia thành các giai
đoạn mới và thời kỳ nhỏ, như sau:
2.1. Giai đoạn trước đổi mới (1954-1986)
2.1. Quá độ từ CNTB lên CNXH trong giai đoạn 1954-1975
Sau năm 1954, với hiệp đinh Giơ-ne-vơ, mền Bắc nước ta được giải
phóng. Đất nước chia cắt làm hai miền: Bắc-Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng
ta quyết định thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: xây dựng CNXH ở miền
Bắc và thực hiện cách mạng DTDCND ở miền Nam, hoàn thành thống nhất
đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay thực hiện nhiệm
vụ đã đặt ra.
Miền Bắc, thực hiện nhiệm vụ hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957), tiến hành cải tạo
sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế xã hội (1958-1960), xây dựng cơ sở vật
chất-kỹ thuật của CNXH (1961-1965). Từ 1965 đến 1975, theo đường lối
của Đảng, nhân dân niềm Bắc tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất của CNXH
trong điều kiện chiến tranh, tiếp tục là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến



miền Nam và đạt được rất nhiều thành tựu nổi bật trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,...
Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với hậu phương vững
chắc là miền Bắc, đã anh dũng đấu tranh giành thắng lợi, hoàn thành cách
mạng DTDCND, thống nhất nước nhà.
Quá độ lên CNXH ở nước ta trong giai đoạn này, gặp phải rất nhiều
khó khăn, phức tạp. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng CSVN,
nhân dân ta đã hoàn thành về cơ bản cả hai nhiệm vụ trên.
2.2. Quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam giai đoạn 1975-1986
Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của
Đảng CSVN được quyết định tại đại hội đại biểu toàn quốc năm 1976.
Đường lối kinh tế chủ đạo của Việt Nam được Đảng đưa ra trong thời
kỳ này là công nghiệp hóa XHCN, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN
của nhân dân lao động.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả " do khuyết điểm,
sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về
lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội" dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề
ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả
năng, những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn
cứ xác đáng, dẫn tới lãng phí lớn về sức người, sức của..., rất bảo thủ trong
việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của trung ương,
trong việc đánh giá và vận dụng khả năng về nhiều mặt của đất nước... kéo
dài cơ chế quan lý quan liêu, bao cấp vói cách kế hoạch hóa gò bó, cứng
nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa
phương và ngành, không tập trung những vấn đề mà trung ương cần phải
quản lý, duy trì lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp cản trở



sản xuất và không phát huy sức lao động và sự sáng tạo của nhân dân lao
động, chưa nhạy bén với những chuyển biến của tình hình, thiếu những biện
pháp có hiệu quả.
Đây chính là 11 năm quá độ lên CNXH mà Đảng và Nhà nước ta đã
mắc phải những sai lầm và hạn chế trên cả 2 mặt lý luận và thực tiễn.
2.3. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trong giai đoạn đổi mới
(1986 đến nay)
Sau 11 năm tiến hành quá độ mắc phải nhiều sai lầm khuyết điểm,
Đảng và nhà nước ta tiến hành đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện
tốt những yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trong
hoàn cảnh mới.
Đại hội lần thứ VI của Đảng CSVN (tháng 12-1986) đã đưa ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy
kinh tế, nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vận dụng đúng đắn các
quy luật thông qua các chủ trương, chính sách. Nhờ đó, bước đầu đã đạt
được nhiều thành tựu: sản xuất trong nước ngày càng phát triển, lưu thông
ngày càng thông suốt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng
ổn định, chế độ XHCN ngày càng được củng cố.
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và quá
độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần,
lắng nghe tổng kết sáng kiến kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương
và cơ sở ĐH VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới. Tiếp đó các ĐH
VII, VIII, IX, X. XI của Đảng đã không ngừng bổ sung, phát triển hoàn
thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của
công cuộc đổi mới trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.


Trước hết, là đổi mới về tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và
vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ

quan, duy ý chí. Đảng ta nhận định "thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng
lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN
đương nhiên phải rất lâu dài và khó khăn".
Đại hội IX (tháng 4-2001), khẳng định: " Xây dựng CNXH bỏ qua chế
độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ".
Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng CSVN đã nhận thức
rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã được nhận thức một cách đúng
đắn và vận dụng có hiệu quả hơn. Đại hội VI của Đảng đã nghiêm túc chỉ ra
rằng, cuộc sống cho chúng ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội và
làm trái với quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định
đổi mới cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc
trưng của thời kỳ quá độ. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
xây dựng quan hệ sản xuất mới phà hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân
phối. Xây dựng nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định hướng
XHCN với cơ cấu nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, và vai trò,
chức năng quản lý, điều hành của nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và


sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng Nhà nước theo hướng nhà nước pháp
quyền XHCN.
Thứ tư, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện "dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tăng cường và đổi mới công tác vận
động quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ XHCN. Tăng cường
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua việc xây dựng, củng cố Mặt
trận dân tộc thống nhất.
Thứ năm, thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa
với phương châm "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước". Xây dựng
chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Quá độ lên CNXH ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới đất
nước. Với những chủ trương quan điểm mới của Đảng, quá độ lên CNXH
trong giai đoạn mới đã khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm và đạt
được nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, xã hội và các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội. Nổi bật là chuyển nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng cao so với các
giai đoạn trước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Quan hệ ngoại thương, ngoại giao với các quốc giai trên thế giới được mở
rộng, đời sống vật chất tinh thần của người dan được nâng cao...
Như vậy, quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới chứng tỏ đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Chứng tỏ Đảng ta
đã có nhận thức đúng đắn về con đường đi lên CNXH và thời kỳ quá độ lên
CNXH tất yếu phải trải qua. Tuy nhiên, trong quá trình quá độ, chúng ta
cũng vấp phải những sai lầm, những hạn chế nhất định về kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục,...Những sai làm, hạn chế đó là không tránh khỏi. Tuy


nhiên, hạn chế chỉ là tạm thời, có thể sửa chữa, thành quả mà chúng ta đạt
được mới là quan trọng và chủ yếu.
Hiện nay, Việt Nam đang quá độ lên CNXH trong bối cảnh quốc tế
mới, mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ. Để quá độ lên CNXH ở nước ta thành công thì Đảng, Nhà

nước và toàn thể nhân dân ta phải biết kết hợp giữa sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, kết hợp giữa hội nhập với tự chủ trên tất cả các
lĩnh vực.



×