Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 190 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã trải qua gần 15 năm hoạt động. Đối

với TTCK thì thông tin luôn là yếu tố không thể thiếu khi thực hiện các hoạt động đầu tư.
Trong đó, thông tin tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong các quyết định của nhà
đầu tư. Yếu tố sống còn để thị trường có chất lượng là lòng tin của nhà đầu tư. Lòng tin
được xây dựng dựa trên công khai, minh bạch (IFC, 2012). Tuy nhiên, TTCK Việt Nam
thời gian qua hoạt động thiếu hiệu quả. Hàng loạt những vụ sụp đổ hoặc bị ngừng giao
dịch của các CTNY thời gian qua liên quan rất nhiều đến CTNY, công ty kiểm toán trên
thế giới và Việt Nam khiến cho nhà đầu tư mất dần lòng tin vào chất lượng của thông tin
tài chính công bố và sự đảm bảo từ phía các công ty kiểm toán. Tất cả những điều đó
xuất phát từ vấn đề là các thông tin tài chính được trình bày và công bố thiếu sự minh
bạch. Đồng thời, mặc dù TTCK Việt Nam đã hoạt động gần 15 năm nhưng tính ổn định
chưa cao, các thông tin nói chung và thông tin tài chính nói riêng chưa rõ ràng, chưa
minh bạch. Ngoài ra, hệ thống kế toán và kiểm toán của Việt Nam “thiếu” văn hóa minh
bạch và trách nhiệm giải trình nên chất lượng của thông tin tài chính do các tổ chức tài
chính cung cấp còn yếu kém (Ngân hàng Thế giới, 2014). Chính vì vậy, báo cáo môi
trường kinh doanh 2014 của ngân hàng thế giới xếp Việt Nam ở hạng 99/189 quốc gia,
trong đó, chỉ số mức độ công khai thông tin đạt 7/10, chỉ số mức độ bảo vệ nhà đầu tư
chỉ đạt 3/10).
Minh bạch thông tin từ phía các công ty, đặc biệt là các CTNY, là cơ sở quan
trọng làm gia tăng giá trị của các CTNY, cũng là góp phần giúp TTCK phát triển bền
vững. Trong các nỗ lực nhằm khôi phục niềm tin của nhà đầu tư thì yêu cầu về minh
bạch thông tin là ưu tiên hàng đầu để nâng cao chất lượng BCTC, nâng cao chất lượng
công bố thông tin từ các CTNY. Năm 2011, thông qua chương trình Tọa đàm Châu Á,
khối OECD đã xây dựng, công bố báo cáo Ưu tiên cải cách ở Châu Á: Đưa quản trị


công ty lên tầm cao mới. Trong đó, một trong hai ưu tiên chính của báo cáo này là “cần
nâng cao chất lượng, thực hiện công bố thông tin kịp thời, minh bạch” (OECD, 2011).
Trong thời gian gần đây, để khôi phục lại niềm tin của công chúng, các cơ quan
chức năng, các tổ chức liên quan, các công ty kiểm toán và CTNY đang tiến hành nhiều
biện pháp để thay đổi quá trình soạn lập BCTC nhằm hướng đến các tiêu chuẩn chất
lượng tốt nhất cho các TTTC công bố. Thực tiễn ở Việt Nam và trên thế giới thời gian
qua cho thấy, các cuộc khủng hoảng kinh tế thường bắt nguồn từ hệ thống tài chính. Vì
thế sự minh bạch của thông tin trên BCTC là rất cần thiết vì thiếu chúng các công ty
không thể xây dựng niềm tin của công chúng vào thành quả thực hiện và khả năng thu
hút vốn trên TTCK. Nghiên cứu nhằm lượng hóa mức độ minh bạch TTTC của các


2

CTNY và xác định các nhân tố tác động đến tính minh bạch TTTC được trình bày và
công bố là chủ đề rất quan trọng và hữu ích. Việc nghiên cứu những vấn đề trên góp
phần giúp TTCK Việt Nam hoạt động bền vững và hiệu quả là yêu cầu cần thiết. Chính
vì vậy, NCS chọn đề tài: “Minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
Ngoài ra, dựa trên tổng quan về các nghiên cứu đã thực hiện trước đây trên thế
giới và Việt Nam về minh bạch TTTC, cũng như xem xét các cơ sở lý thuyết về TTTC
và minh bạch TTTC sẽ giúp cho luận án kế thừa những ưu việt, đồng thời khắc phục
những tồn tại của các nghiên cứu trước; Từ đó luận án sẽ có những đóng góp về mặt lý
luận có hàm lượng khoa học cao, và mang nhiều ý nghĩa thực tiễn hơn.

2.

Mục tiêu nghiên cứu
Luận án thực hiện việc đánh giá mức độ minh bạch TTTC của các CTNY trên


TTCK VN để thông qua đó xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến sự minh bạch TTTC của các CTNY trên TTCK VN.
Từ việc nhận diện các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của chúng, luận
án gợi ý một số chính sách cần thiết nhằm tăng cường tính minh bạch TTTC của các
CTNY trên TTCK Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu trên, có 2 câu hỏi nghiên cứu được đề ra như sau:
(1)

Thực trạng mức độ minh bạch thông tin tài chính của các CTNY trên

TTCK Việt Nam trong thời gian qua?
(2)
Những nhân tố nào ảnh hưởng đến tính minh bạch TTTC của các CTNY
trên TTCK Việt Nam, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và mối tương quan giữa
chúng với nhau?

3.

Đối tượng nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống BCTC và các thông tin khác có liên
quan, phản ánh tình hình tài chính của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Qua đối tượng
nghiên cứu này, luận án nhận diện những nhân tố ảnh hưởng và mối tương quan giữa
chúng đến mức độ minh bạch thông tin trình bày trên BCTC của các CTNY trên TTCK
VN.

4.

Phạm vi nghiên cứu của luận án


Có nhiều nhóm nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch và công bố thông tin của
doanh nghiệp, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu này, luận án chỉ đề cập đến nhóm
nhân tố tài chính và nhân tố quản trị công ty; Đồng thời đối với thông tin tài chính có
nhiều loại thông tin trình bày trên nhiều báo cáo khác nhau cũng như có nhiều thời điểm
báo cáo, nhưng luận án chỉ tập trung vào thông tin tài chính được trình bày và công bố
trên báo cáo tài chính năm của các CTNY trên TTCK TP.HCM.


3

Ngoài ra, để xem xét mức độ minh bạch thông tin qua đánh giá của nhà đầu tư,
luận án giới hạn phạm vi khảo sát các nhà đầu tư chủ yếu là nhà đầu tư trên Sở giao dịch
chứng khoán TP.HCM.
Việc giới hạn phạm vi nghiên cứu và khảo sát gắn với TTCK TP.HCM là do điều
kiện cũng như tình hình hoạt động và các quy định về nội dung TTTC, công bố TTTC ở
các CTNY trên TTCK TP.HCM không có những khác biệt lớn so với các CTNY trên
TTCK Hà Nội. Hơn nữa hoạt động của TTCK TP.HCM có ảnh hưởng lớn đến TTCK
VN nên việc lựa chọn TTCK TP.HCM có tính đại diện, có thể phản ánh được tình hình
hoạt động của TTCK VN. Từ việc giới hạn này, luận án thực hiện việc khảo sát BCTC
của các CTNY trên sở GDCK TP.HCM từ năm 2011-2012.

5.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu được thực hiện thông qua hai bước chính: Nghiên cứu
tổng thể để khám phá bằng phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu kiểm định
bằng phương pháp nghiên cứu định lượng.
(1)
Nghiên cứu tổng thể: thực hiện lượt khảo các kết quả nghiên cứu trước trên

thế giới và ở Việt Nam để tìm hiểu sâu về những nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch
thông tin tài chính công bố của các CTNY. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu định tính bằng
cách thảo luận và trao đổi trực tiếp với các chuyên gia về chứng khoán, tài chính, kế
toán, các tổ chức đầu tư và các công ty có hoạt động đầu tư (phương pháp chuyên gia).
(2)
Nghiên cứu kiểm định: thông qua phương pháp định lượng, thực hiện khảo
sát mức độ minh bạch thông tin tài chính của các CTNY trên TTCK Việt Nam bằng bảng
trả lời câu hỏi của các nhà đầu tư tham gia trên TTCK. Ngoài ra, luận án cũng tiến hành
đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch TTTC của các CTNY để xây
dựng mô hình hồi quy phản ánh mối tương quan giữa các nhân tố ảnh hưởng và mức độ
minh bạch TTTC của các CTNY trên TTCK VN.

6.

Ý nghĩa của nghiên cứu

6.1

Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm rõ một số vấn đề sau:



Lý luận về thông tin tài chính và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch

thông tin tài chính.

Khái niệm tính minh bạch thông tin tài chính, tiêu chuẩn đo lường và đánh giá
tính minh bạch thông tin tài chính.


Thông qua nghiên cứu thực nghiệm để khám phá mô hình phản ánh mối quan hệ
giữa mức độ minh bạch TTTC của các CTNY với các nhân tố tài chính và QTCT.
6.2

Ý nghĩa thực tiễn
Luận án góp phần giải quyết một số vấn đề sau:


4



Phân tích và đánh giá thực trạng mức độ minh bạch thông tin tài chính công bố

của các CTNY trên TTCK Việt Nam với 2 cách tiếp cận: qua các đặc điểm về sự minh
bạch mà luận án xây dựng và qua khảo sát ý kiến của nhà đầu tư.

Xây dựng mô hình mối quan hệ giữa các nhân tố tài chính và quản trị công ty đến
mức độ minh bạch TTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam.

Thông qua kết quả thực nghiệm, các đề xuất đưa ra có cơ sở thực tiễn hơn nhằm
hỗ trợ cho các chủ thể tham gia trên TTCK cách thức để tăng cường mức độ minh bạch
TTTC trên TTCK Việt Nam.

7.

Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, luận án được chia làm 5 chương:
Phần mở đầu: Giới thiệu về công trình nghiên cứu.
Chương 1:

Chương 2:
Chương 3:

Giới thiệu tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Cơ sở lý thuyết về thông tin tài chính và minh bạch thông tin tài
chính.
Phương pháp nghiên cứu.

Chương 4:
Chương 5:

Kết quả nghiên cứu và bàn luận.
Kết luận và kiến nghị.

Danh mục công trình của tác giả
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


5

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Minh bạch thông tin tài chính là vấn đề đã được nghiên cứu của rất nhiều tác giả
với nhiều công trình nghiên cứu thuộc nhiều cấp độ ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam.
Để có một cái nhìn toàn cảnh về những nghiên cứu có liên quan, luận án chọn lựa và
giới thiệu một số công trình nghiên cứu có tính tiêu biểu liên quan đến vấn đề này. Qua
đó sẽ rút ra khe hổng nghiên cứu đối với công trình luận án.

1.1


CÁC NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN THÔNG TIN TÀI CHÍNH

VÀ MINH BẠCH THÔNG TIN TÀI CHÍNH
Trong những năm trước đây, nghiên cứu về TTTC và minh bạch thông tin của các
công ty được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu dựa trên dữ liệu của nhiều công ty ở
nhiều nước khác nhau. Nhiều nghiên cứu trước chủ yếu tập trung nhiều vào nhân tố ảnh
hưởng đến tính minh bạch thông tin của cả những CTNY và công ty chưa niêm yết.
Trong nội dung này luận án tìm hiểu và trình bày các nghiên cứu ngoài nước về thông tin
tài chính và minh bạch thông tin tài chính trong mối liên hệ mật thiết với nhau.

1.1.1 Nội dung các nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận án
Những nghiên cứu trên thế giới trước đây liên quan đến TTTC và ảnh hưởng của
nó đến quyết định đầu tư trên TTCK gồm những nghiên cứu như:
Năm 1994, Carolyn Streuly với nghiên cứu có tên gọi “The primary objective of
financial reporting: How are we doing?” (Tạp chí CPA Ohio số 53.6) đã thực thiện khảo
sát với mẫu ngẫu nhiên của 1.300 các chuyên gia phân tích tài chính (CFAs) ở Mỹ. Sau 3
lần tổng hợp từ các thư khảo sát, cuộc điều tra đã nhận được kết quả trả lời từ 508 thành
viên trong mẫu. Kết quả khảo sát cho thấy: 53% số người được hỏi cho biết các thông tin
được công bố trong báo cáo hàng năm là đủ cơ sở để họ đưa ra các quyết định đầu tư.
Các kết quả thu được về sự đánh giá cao tính hữu ích của BCTC và các nội dung thuyết
minh rõ ràng của BCTC đã cho thấy tính hữu dụng của BCTC trong việc cung cấp thông
tin cho các quyết định đầu tư cũng như cung cấp bằng chứng về những kết quả đạt được
trong mục tiêu chính của BCTC là cung cấp thông tin hữu ích để các nhà đầu tư, các chủ
nợ, và những người dùng khác có thể đưa ra các quyết định hợp lý.
Ngoài ra, để có cơ sở cải thiện và tăng cường tính hữu dụng của BCTC, năm
2008, trong Báo cáo của Ủy ban Tư vấn SEC về Cải thiện BCTC dưới tác động của Ủy
ban giám sát kế toán công ty đại chúng (Final Report of SEC Advisory Committee on
Improvements to Financial Reporting Impacts, James Hamilton) đã đưa ra các biện pháp



6

kiểm tra nhằm tăng tính hữu dụng của BCTC và làm giảm sự phức tạp cho nhà đầu tư,
người soạn lập BCTC và kiểm toán viên. Báo cáo đưa ra các nguyên tắc hướng dẫn và
khuyến nghị về mục đích chính của BCTC phải giúp cho các nhà đầu tư đưa ra quyết
định với các thông tin đầy đủ. Báo cáo cũng đề cập đến việc gia tăng nhận thức thực
hành về đánh giá kế toán và kiểm toán với các tiêu chuẩn phải dựa trên các nguyên tắc
cơ bản.
Một số nghiên cứu liên quan đến quan hệ giữa thông tin BCTC và các chỉ số tài
chính hay giá cổ phiếu CTNY có nghiên cứu của Dimitropoulos và cộng sự (tạp chí
Managerial Auditing 24. 3 (2009): P248-265) về mối quan hệ giữa thông tin BCTC và
giá cổ phiếu thực hiện trên TTCK Hy Lạp với tên gọi “The value relevance of financial
statements and their impact on stock prices”. Trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng
mô hình hồi quy OLS và thu thập dữ liệu của 101 CTNY trên TTCK Athens từ năm
1995 – 2004 để kiểm định cho các giả thuyết đưa ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
vốn lưu động trên tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận có tác động tiêu cực đến thu nhập cổ
phiếu, trong khi đó tỷ suất lợi nhuận và doanh thu trên tổng tài sản có ảnh hưởng tích cực
đến thu nhập cổ phiếu.
Đồng thời, trong năm 2011, nhằm xem xét vai trò của thông tin kế toán trong đầu
tư chứng khoán có nghiên cứu trong luận án Tiến sĩ của Dương Minh Châu, thực nghiệm
ở TTCK Anh Quốc với tên gọi “How market mispricing affects investor behaviour,
corporate investment and real earnings management: the UK evidence”. Với việc sử
dụng dữ liệu nghiên cứu qua 20 năm trên TTCK Anh quốc, tác giả đã đưa ra bằng chứng
để khẳng định rằng, thông qua việc xem xét các thông tin BCTC cũng như việc định giá
sai giá trị của thị trường có ảnh hưởng đáng kể đến các quyết định khác nhau của cả nhà
đầu tư và các nhà quản lý. Nghiên cứu cũng đưa ra những bằng chứng và phân tích
những hành vi của nhà đầu tư và nhà quản lý phản ứng trước những thay đổi của TTCK
Vương quốc Anh.
Những nghiên cứu về mức độ minh bạch trong CBTT và các nhân tố ảnh hưởng

đến tính minh bạch thông tin gồm những nghiên cứu như:
Nghiên cứu xuyên quốc gia về minh bạch thông tin của Meek & Gray (1995) với
tựa đề “Factors influencing voluntary annual report disclosures by U.S., U.K., and
continental European multinational corporations” đề cập các nhân tố ảnh hưởng đến
việc công bố các thông tin tự nguyện về chiến lược, thông tin tài chính và phi tài chính
trên báo cáo thường niên của các công ty đa quốc gia thuộc Mỹ, Anh và lục địa Châu âu.
Hay nghiên cứu của Zarzeski (1996) với tên gọi “Spontaneous harmonization effects of
culture and market forces on accounting disclosure practices” trong tạp chí Accounting
Horizons. Trong đó, kết quả nghiên cứu của Zarzeski (1996) chỉ ra rằng mức độ CBTT
phụ thuộc vào văn hóa và sức mạnh của thị trường thông qua các nhân tố như doanh thu


7

xuất khẩu, đòn bẩy tài chính và quy mô công ty. Nghiên cứu của bà thực hiện trên 7 quốc
gia với 256 công ty có quy mô nhỏ, vừa và lớn.
Năm 2002, tác giả Almazan và cộng sự đã công bố công trình “Stakeholders,
capital structure and transparency” (CEMFI Working Paper). Công trình này đã nghiên
cứu mối quan hệ giữa tính minh bạch thông tin với quyết định cơ cấu vốn trong doanh
nghiệp và chỉ ra rằng mức độ minh bạch hóa thông tin càng cao thì các doanh nghiệp có
xu hướng lựa chọn cơ cấu vốn an toàn hơn.
Đến năm 2003, trong bài báo “Transparency, Financial Accounting Information,
and Corporate Governance” ( Economic Policy Review), tác giả Robert M. Bushman và
Abbie J. Smith, nghiên cứu mối quan hệ giữa minh bạch thông tin, đặc biệt là thông tin
từ BCTC kiểm toán và vấn đề QTCT. Trong nghiên cứu, nhóm tác giả đã đưa ra các tiêu
chí để đánh giá mức độ minh bạch thông tin của doanh nghiệp.
Trong năm 2004, nghiên cứu “Transparency, Specialization and FDI” (CESIFO
working paper No. 1161) của các tác giả Assaf Razin, Efraim Sadka đã phân tích mối
quan hệ giữa minh bạch thông tin và sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng các quốc gia có mức độ minh bạch thông tin kém thì dòng

chảy FDI cũng suy giảm.
Nhóm các đối tượng khác cũng có ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin trên
TTCK cần phải kể đến là vai trò của các công ty kiểm toán, công ty xếp hạng tín nhiệm,
các quy định pháp luật đối với mức độ minh bạch thông tin của các CTNY. Vì vậy, nhiều
tác giả đã có những bài viết, công trình nghiên cứu phân tích về vấn đề này. Tiêu biểu là
nhóm tác giả Bartley và cộng sự (2007) đã có bài viết “Auditor Fees, Market
Microstructure, and Firm transparency” (Journal of Business Finance & Accounting),
đưa ra giả thuyết là phí kiểm toán càng cao thì rủi ro gian lận BCTC càng lớn và kết quả
nghiên cứu thực nghiệm cũng chứng tỏ giả thuyết này của tác giả là đúng. Ngoài ra,
nhóm tác giả Heibatollah Sami and Haiyan Zhou (2008) với công trình “Do auditing
standards improve the accounting disclosure and information environment of public
companies? Evidence from the emerging markets in China” (The International Journal of
Accounting 43 (2008) 139-169) đã phân tích tác động của việc ban hành một loạt các
chuẩn mực kiểm toán mới (năm 1996) đến môi trường thông tin của TTCK Trung Quốc.
Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, có sự cải thiện đáng kể về kết quả quản trị đối với các
CTNY nhờ việc gia tăng số lượng thông tin được công bố công khai cho các nhà đầu tư.
Ngoài các nghiên cứu riêng lẻ về TTTC hoặc các nghiên cứu về minh bạch thông
tin nói chung, nhiều tác giả còn nghiên cứu về tính minh bạch thông tin tài chính từ
phạm vi doanh nghiệp đến phạm vi quốc gia trong các nghiên cứu như:


8

Năm 2001, nghiên cứu “What Determines Corporate Transparency?” (Journal of
Accounting Research, Vol 42, No 2) của Robert Bushman và cộng sự đã phân tích về sự
minh bạch thông tin của các CTNY dựa trên 2 nhóm nhân tố: minh bạch TTTC (tính kịp
thời, độ tin cậy, khả năng tiếp cận thông tin) và minh bạch thông tin quản trị. Nghiên cứu
này cũng đánh giá mức độ ảnh hưởng của nhân tố luật pháp và kinh tế đến tính minh
bạch thông tin của doanh nghiệp thông qua mẫu khảo sát của các CTNY trên 41 đến 46
quốc gia. Trong đó, Bushman và nhóm tác giả xem xét tính minh bạch của BCTC thông

qua 5 nhóm nhân tố là: (1) Mức độ công bố TTTC, (2) Mức độ CBTT quản trị công ty,
(3) Các nguyên tắc kế toán, (4) Thời gian công bố BCTC, (5) Chất lượng kiểm toán các
BCTC được công bố. Qua công trình nghiên cứu này, Bushman và nhóm tác giả kết luận
rằng: minh bạch trong QTCT liên quan mật thiết với cơ chế pháp lý, trong khi đó minh
bạch TTTC liên quan chủ yếu đến chính sách kinh tế. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng
cho rằng minh bạch TTTC có liên quan đến quy mô doanh nghiệp. Cụ thể, công ty có
quy mô lớn thì mức độ minh bạch TTTC cao hơn công ty nhỏ. Ngược lại, mức độ minh
bạch trong QTCT không liên quan đến quy mô doanh nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu của
Bushman và nhóm tác giả chỉ dừng lại ở mức thống kê mô tả các nhân tố liên quan đến
tính minh bạch thông tin và trình bày các thước đo để đo lường tính minh bạch thông tin
mà chưa đưa ra được mối tương quan giữa các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch
thông tin.
Năm 2003, một nghiên cứu khác “A multinational test of determinants of
corporate disclosure” (The International Journal of Accounting, 38 (2003) 173 – 194)
của Jeffrey J. Archambault và Marie E. Archambault nghiên cứu mô hình các nhân tố
ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin của các công ty. Theo nhóm tác giả, ở góc độ
công ty, các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố TTTC của doanh nghiệp là: quyền
sở hữu, tình trạng niêm yết, chính sách cổ tức, kiểm toán và đòn bẩy tài chính.
Ngoài ra, Jeffrey và Marie cho rằng quá trình hoạt động của doanh nghiệp ảnh hưởng
đến mức độ công bố TTTC của các CTNY. Quá trình hoạt động này gồm: quy mô công
ty, lĩnh vực kinh doanh và doanh thu xuất khẩu. Bằng nghiên cứu thực nghiệm để
kiểm định các giả thuyết nghiên cứu trên với mẫu khảo sát là 1.000 công ty công nghiệp
hàng đầu ở 41 quốc gia (trong quá trình chạy mô hình thì chỉ còn lại 33 quốc gia), Jeffrey
J. và Marie E. Archambault đã đưa ra được mô hình hồi quy về sự tương quan giữa mức
độ CBTT nói chung và TTTC nói riêng của doanh nghiệp với các nhân tố ảnh hưởng đã
nêu trên. Jeffrey J. và Marie E. Archambault kết luận rằng CBTT như là một chức năng
của văn hóa, hệ thống chính trị và kinh tế quốc gia và các hệ thống chính sách tài chính
với hoạt động của công ty. Kết quả thực nghiệm của nhóm tác giả cho thấy, mỗi nhóm
nhân tố trên đều ảnh hưởng đáng kể đến quá trình CBTT, ngay cả đối với những nhân tố
mà trong các nghiên cứu trước khẳng định là không có quan hệ với quá trình CBTT thì ở



9

nghiên cứu này tác giả cũng đã chứng minh là khá quan trọng. Riêng ở góc độ công ty,
kết quả thực nghiệm của nhóm tác giả cho rằng, hầu hết các nhân tố phản ánh đặc điểm
tài chính và quá trình hoạt động của doanh nghiệp đều ảnh hưởng đến mức độ CBTT nói
chung và TTTC nói riêng; Riêng các nhân tố như: đòn bẩy tài chính và chính sách cổ tức
không ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Ngoài ra, nhóm tác giả cũng cho rằng CBTT là một
quá trình phức tạp chịu sự ảnh hưởng bởi một tập hợp các yếu tố.
Tiếp theo các nghiên cứu trên, ở góc độ nghiên cứu mức độ minh bạch TTTC
trong phạm vi một quốc gia, ở Châu Á, năm 2005, nhóm tác giả Cheung và cộng sự
trong nghiên cứu “Determinants of Corporate Disclosure and Transparency: Evidence
from Hong Kông and Thailand” đã xem xét các mức độ CBTT và tính minh bạch của các
CTNY ở 2 thị trường là Thái Lan và Hồng Kông. Nghiên cứu đưa ra 2 nhóm nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ CBTT và tính minh bạch thông tin là: nhóm nhân tố tài chính và
nhóm nhân tố quản trị công ty. Trong nhóm nhân tố tài chính, các tác giả đưa ra mô
hình 5 biến tài chính có ảnh hưởng đến mức độ công bố và tính minh bạch của TTTC
gồm: quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, kết quả tài chính, tài sản đảm bảo và hiệu
quả sử dụng tài sản. Đối với nhóm nhân tố về quản trị công ty, nhóm tác giả cho rằng
các biến có ảnh hưởng đến mức độ công bố và tính minh bạch của thông tin gồm: mức
độ tập trung quyền sở hữu, cơ cấu của HĐQT và quy mô của HĐQT. Nghiên cứu
trên của nhóm tác giả đã thực hiện khảo sát với số lượng 265 CTNY trên TTCK Thái
Lan và 148 CTNY trên TTCK Hồng Kông. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: mức độ công
bố và tính minh bạch thông tin của các công ty Thái Lan thì cao hơn nhiều so với các
công ty ở Hồng Kông. Về các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch của các CTNY thì
ở nhóm nhân tố tài chính: các nhân tố như quy mô công ty, hiệu quả sử dụng tài sản,
giá trị tài sản đảm bảo và khả năng sinh lợi dài hạn của doanh nghiệp ảnh hưởng đến
tính minh bạch và mức độ công khai thông tin của các CTNY ở Hồng Kông, nhưng lại
không ảnh hưởng đến các công ty ở Thái Lan. Trong khi đó, các nhân tố quản trị công ty

như quy mô và cơ cấu HĐQT có ảnh hưởng đến mức độ CBTT ở Thái Lan nhưng lại
không ảnh hưởng đến mức độ CBTT ở Hồng Kông. Riêng biến “tỷ lệ các giám đốc điều
hành không phải là thành viên của HĐQT” (trong biến cơ cấu của HĐQT) càng lớn thì
tính minh bạch và mức độ CBTT của các CTNY càng cao ở cả Thái Lan và Hồng Kông.
Nghiên cứu cũng đã thực nghiệm để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố và tính minh bạch thông tin và kết luận rằng quản trị công ty tốt dẫn đến việc công bố
và minh bạch thông tin sẽ tốt hơn ở Thị trường Thái Lan. Tuy nhiên, nhóm tác giả chủ
yếu chỉ so sánh mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trên giữa 2 TTCK Thái Lan và Hồng
Kông, đồng thời chỉ mới thống kê mô tả về mức độ ảnh hưởng của các nhóm nhân tố tài
chính và quản trị công ty; nhưng chưa giải thích được nguyên nhân sâu xa của các kết
quả từ nghiên cứu thực nghiệm, chẳng hạn vì sao hầu như các nhân tố tài chính lại không


10

ảnh hưởng đến tính minh bạch và mức độ CBTT ở các CTNY Thái Lan nhưng lại có ảnh
hưởng đối với các CTNY Hồng Kông.
Năm 2006, trong nghiên cứu với tên gọi “Transparency in Financial Statements:
A Conceptual Framework from a User Perspective” của nhóm tác giả Michael và cộng
sự (2006) (Journal of American Academy of Business, Cambridge) đã đưa ra mô hình về
các mức độ minh bạch thông tin. Nghiên cứu này chính thức hóa minh bạch là tiêu chí
quan trọng nhất để đánh giá các BCTC theo quan điểm của người sử dụng bên ngoài.
Nhóm tác giả đưa ra “mô hình minh bạch đa cấp”, bao gồm 6 mức độ:
-

Mức 1: minh bạch trong các nghiệp vụ kinh tế

-

Mức 2: minh bạch trong các phương pháp kế toán


-

Mức 3: minh bạch trong các ước tính kế toán

-

Mức 4: minh bạch các tình huống kinh tế

-

Mức 5: minh bạch làm cơ sở cho việc so sánh đối chiếu

-

Mức 6: minh bạch trong sự thống nhất.

Cũng trong năm 2006, một nghiên cứu khác nhằm chứng minh việc cần thiết phải
tuân thủ các nguyên tắc được thừa nhận khi soạn lập BCTC nhằm gia tăng sự minh bạch
khi soạn lập BCTC có nghiên cứu của Bert J. Zarb với tên gọi “The Quest for
Transparency in Financial Reporting: Certified Public Accountant” đăng trên CPA
Journal 76.9. Trong nghiên cứu này, tác giả cho rằng để đạt được sự minh bạch trong
BCTC thì trước hết thông tin cần trình bày phải được chuẩn bị và thiết lập theo các
nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung. Làm được điều đó, thông tin BCTC sẽ được
sử dụng rộng rãi cho người sử dụng ở bất kỳ quốc gia nào. Ngoài ra, tác giả tin rằng cách
tiếp cận tốt nhất là nên sử dụng IFRS kết hợp với US GAAP khi soạn lập BCTC và US
GAAP nên hội tụ dần với IFRS.
Ngoài ra, năm 2007, nhóm tác giả Yu-Chih Lin và cộng sự trong nghiên cứu “The
relationship between information transparency and the informativeness of accounting
earnings” đã dựa trên chỉ số “hệ thống xếp hạng về sự minh bạch và công bố thông tin

ITDRS” (đây là chỉ số đánh giá xếp hạng về sự minh bạch và CBTT của các CTNY được
xây dựng ở Đài Loan) để xem xét mối quan hệ giữa minh bạch thông tin và thu nhập kế
toán. Nghiên cứu của nhóm tác giả sử dụng cơ sở dữ liệu của các CTNY trên TTCK Đài
Loan trong năm tài chính 2003 và 2004. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của nhóm tác
giả cho thấy rằng, mức độ minh bạch thông tin được đo bằng chỉ số ITDRS làm giảm sút
thông tin về thu nhập kế toán. Tuy nhiên, nếu mức độ minh bạch thông tin được đo bằng
tỷ số các khoản đầu tư cổ phiếu dài hạn thì thông tin thu nhập kế toán sẽ gia tăng ở các
công ty có mức độ minh bạch cao. Kết quả cũng cho thấy, theo đánh giá của nhà đầu tư,
số liệu của kế toán hữu ích và có giá trị hơn so với kết quả xếp hạng của chỉ số ITDRS.


11

Nhóm tác giả cũng cho rằng sử dụng chỉ số ITDRS không phải là cách tốt để đánh giá sự
minh bạch của TTTC.
Gần hơn, nhằm xem xét quan điểm soạn lập BCTC, trong năm 2010, có nghiên
cứu của Thomas J. Phillips et el. đăng trên Academy of Accounting and Financial
Studies Journal 14.4 với tựa đề “Transparency in financial reporting: a look at rulesbased versus principles-based standards”. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các nhà quản lý
doanh nghiệp có mong muốn thiết lập BCTC dựa trên các chuẩn mực kế toán, trong khi
các nhà đầu tư và chủ nợ lại nghiêng về quan điểm nên thiết lập BCTC dựa trên luật lệ.
Phụ lục 1.1: Tổng hợp một số nghiên cứu tiêu biểu trên thế giới

1.1.2 Đánh giá chung về những nghiên cứu đã thực hiện ở nước ngoài về
TTTC và minh bạch TTTC
Theo thời gian các nghiên cứu trên thế giới nhờ kế thừa các nghiên cứu trước nên
ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nội dung và ý nghĩa, các kết luận đưa ra có giá trị và cơ
sở minh chứng hơn. Nhìn chung, các nghiên cứu trước và sau ở nước ngoài có những đặc
điểm như sau:
(1)
Các nghiên cứu gắn liền với nền kinh tế phát triển, tiếp cận theo hướng gắn

kết với các chuẩn mực kế toán quốc tế (thực hiện xuyên lục địa), mang tính lịch sử với
cách thức thực hiện xuyên suốt qua thời gian từ quá khứ đến hiện tại, qua không gian từ
những nghiên cứu theo mức độ đa quốc gia đến các nghiên cứu của từng nhóm nước.
(2)
Hầu hết các nghiên cứu trước là những khởi xướng nhằm đưa ra một số
nhân tố để đánh giá mức độ minh bạch và ảnh hưởng của các nhân tố đó đến minh bạch
thông tin, tạo tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo. Trong những nghiên cứu đầu tiên,
chủ yếu xem xét các nhóm nhân tố một cách chung chung, chưa có sự phân nhóm các
nhân tố, đồng thời ở những nghiên cứu đó chủ yếu đưa ra những nhân tố ảnh hưởng
mang tính đơn lẻ, chưa có tính hệ thống và chưa có sự phân định theo các nhóm nhân tố.
Càng về sau, các nghiên cứu tiếp theo đã xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh
bạch và mức độ CBTT của doanh nghiệp với cách nhìn có tính hệ thống và toàn diện
hơn.
(3)
Trong các nghiên cứu đầu, các tác giả chủ yếu thực hiện thông qua mẫu
khảo sát là những công ty ở các quốc gia khác nhau (mang tính xuyên lục địa). Càng về
sau, kế thừa những kết luận từ các nghiên cứu thực hiện ở các quốc gia khác nhau, các
tác giả sau điều chỉnh phạm vi điều tra và thực nghiệm chủ yếu trên một hoặc một số
quốc gia riêng lẽ để có những so sánh về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trên từng
quốc gia để từ đó có những nhận định cụ thể hơn. Ngoài ra, tiếp nối những nghiên cứu
trước, thường xem xét tính minh bạch ở cấp độ quốc gia, mang tính vĩ mô với góc nhìn
rộng hơn thì ở các nghiên cứu sau ngày càng tập trung nhiều ở góc độ công ty.


12

(4)

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng trong các nghiên cứu đã thực


hiện là phương pháp nghiên cứu định lượng và kế thừa những kết quả nghiên cứu trước,
với cỡ mẫu ngày càng mở rộng. Độ tin cậy cũng như các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến
tính minh bạch của các công ty ở những nghiên cứu sau đưa ra những phát hiện có tính
mới hơn cũng như những lý luận và bằng chứng được các nhóm tác giả đưa ra có tính
thuyết phục cao, khắc phục dần những hạn chế của các nghiên cứu trước.
(5)
Nhiều nghiên cứu có kết quả rất khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Cụ
thể, ở góc độ công ty, trong các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin của các
công ty, ngoài một số nhân tố được hầu hết các nghiên cứu đồng tình thì có nhiều nhân tố
được các nhóm tác giả sau khi thực nghiệm có những kết quả rất khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau. Chẳng hạn, đối với nhân tố về đòn bẩy tài chính, kết quả nghiên cứu của
Jeffrey và Marie cho rằng công ty có đòn bẩy tài chính cao sẽ CBTT nhiều hơn để giảm
chi phí nợ vay (Cùng đồng ý với kết quả nghiên cứu của Jeffrey và Marie là Ahmed và
Courtis (1999), còn Jaggi và Low (2000) lại cho rằng mức độ CBTT sẽ gia tăng ở các
công ty có đòn bẩy tài chính cao đối với các quốc gia theo trường phái thông luật, ngược
lại, ở quốc gia hệ thống pháp luật theo luật La Mã thì lại không có mối quan hệ nào giữa
đòn bẩy tài chính và mức độ CBTT). Wallace. (1994), Meek. (1995) và Zarzeski (1996)
thì lại có kết luận khác. Kết quả thực nghiệm của Meek. cho thấy không có mối liên hệ
giữa đòn bẩy tài chính và mức độ CBTT. Còn kết quả của Wallace (1994) và Zarzeski
(1996) thì cho rằng công ty có đòn bẩy tài chính cao lại giảm mức độ CBTT.
Qua các phân tích trên, có thể thấy rằng cần thận trọng khi xem xét các kết quả
nghiên cứu, không phải chỉ dựa vào các kết quả nghiên cứu để khẳng định kết quả nào
đúng, kết quả nào sai, kết quả nào là phù hợp mà cần có sự xem xét một cách toàn diện
để có cách nhìn đúng đắn và đầy đủ hơn ở mỗi kết quả nghiên cứu nhằm vận dụng một
cách hợp lý trong môi trường và nền kinh tế ở Việt Nam. Sự khác nhau ở một số kết quả
nghiên cứu có thể là do những nguyên nhân như: sự khác biệt ở việc lựa chọn mẫu
nghiên cứu khi thực nghiệm (nghiên cứu ở những quốc gia khác nhau có thể có một số
khác biệt về văn hóa, kinh tế, chính trị, tập quán dẫn đến những kết quả khác nhau), sự
khác biệt ở cỡ mẫu nghiên cứu khi thực nghiệm (các nghiên cứu sau thường có cỡ mẫu
rộng và đa dạng hơn các nghiên cứu trước nên kết quả có thể toàn diện hơn), sự khác biệt

ở các thời điểm nghiên cứu (các khoảng thời gian được chọn để lấy mẫu nghiên cứu cũng
như với thời gian lựa chọn khác nhau dẫn đến các khác biệt về kiến thức, tầm nhìn, trình
độ, kỹ thuật và công cụ phân tích…), sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế của các
nước ở những giai đoạn thời gian khác nhau v.v…


13

1.2

CÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN TTTC VÀ MINH BẠCH

TTTC
1.2.1 Nội dung các nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận án
-

Các nghiên cứu trong nước liên quan đến tính minh bạch trong công bố thông tin

của doanh nghiệp gồm các nghiên cứu như:
Năm 2006, tác giả Nguyễn Thị Hà với bài viết “Công khai minh bạch thông tin
trong quản trị doanh nghiệp của các nước thuộc khối OECD vào doanh nghiệp Việt
Nam” đăng trên tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán (Số 11/40, 18-21). Trong bài viết
này, tác giả đã phân tích nguyên tắc “Công khai và minh bạch” theo yêu cầu của OECD.
Thông qua các nguyên tắc của OECD, tác giả trình bày các nội dung thông tin cần minh
bạch và quá trình vận dụng trong điều kiện của các công ty Việt Nam.
Năm 2007, liên quan đến các bài viết về tầm quan trọng của minh bạch thông tin
có kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Đình Cung trong tạp chí chứng khoán Việt Nam
với tựa đề “Công khai hóa và minh bạch thông tin – Cơ sở để thị trường và bên ngoài
công ty thực hiện giám sát công ty” (Số 9, trang 15-18). Trong nghiên cứu này, tác giả
cho rằng có 4 nhóm thông tin cần công khai đó là: thông tin về sứ mệnh và mục tiêu của

công ty, thông tin về quyền sở hữu và quyền biểu quyết, thông tin về tình hình tài chính
và kết quả hoạt động của công ty và cuối cùng là thông tin về HĐQT và cán bộ quản lý
chủ chốt. Tác giả cũng cho rằng công khai hóa tốt sẽ nâng cao nhận thức và hiểu biết của
nhà đầu tư về công ty; qua đó, có thể huy động vốn dễ dàng hơn và góp phần làm tăng
giá trị công ty. Nghiên cứu cũng kết luận rằng, công ty phụ thuộc nhiều vào vốn từ bên
ngoài có xu hướng công khai nhiều hơn; công ty đang có tình trạng khó khăn có thể
không muốn công khai; ngược lại công ty đang có kết quả kinh doanh tốt có xu hướng
công khai nhiều hơn, công ty có sở hữu vốn càng tập trung thì có thể muốn thu hẹp yêu
cầu và quy mô công khai hóa. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của tác giả chủ yếu dựa
vào các phân tích định tính và chưa có các cơ sở minh chứng một cách rõ ràng và cụ thể.
Tác giả Nguyễn Thị Liên Hoa trong bài viết “Minh bạch thông tin trên TTCK Việt
Nam” (2007), đăng trên tạp chí phát triển kinh tế (Số 1, trang 14-19), đã sử dụng lý
thuyết thị trường hiệu quả để phân tích và khảo sát để đánh giá tính hiệu quả thông tin
của TTCK Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra giải pháp áp dụng việc xây dựng và
phát triển một hệ thống CBTT số hóa để giảm bớt hiện tượng bất cân xứng thông tin trên
TTCK Việt Nam.
Nhắc đến tính minh bạch thông tin, không thể không nhắc đến vai trò của các
công ty kiểm toán. Cũng trong năm 2007, tác giả Hà Thị Ngọc Hà với bài viết “Lựa chọn
doanh nghiệp kiểm toán – Đảm bảo tính minh bạch thông tin trên TTCK” đăng trên Tạp
chí nghiên cứu Tài chính kế toán (11 (52), trang 23-26) phân tích các điều kiện trong


14

việc lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán, cũng như phân tích các tiêu chí để các công ty
kiểm toán được kiểm toán cho các CTNY mà Bộ tài chính đưa ra.
Nghiên cứu trong nước đề cập đến vai trò của TTTC, tính hữu ích của thông tin
BCTC, tiêu biểu ở cấp tiến sĩ có nghiên cứu của Nguyễn Phúc Sinh (2008) về “Nâng cao
tính hữu ích trong BCTC doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, trong nghiên cứu này tác giả
đề cập đến vai trò của BCTC trong doanh nghiệp cũng như tính hữu ích của nó trong

hoạt động của doanh nghiệp; Tác giả dựa trên nền tảng lý thuyết và thực tiễn kế toán của
quốc tế và Việt Nam để phân tích, đánh giá thực trạng cung cấp thông tin hữu ích của
BCTC doanh nghiệp Việt Nam; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm chuẩn hóa BCTC và
nâng cao tính hữu ích của BCTC,….
Ngoài ra, nhóm tác giả Lê Trường Vinh và Hoàng Trọng (2008) cũng có bài viết
về “Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin của các doanh nghiệp niêm
yết theo cảm nhận của nhà đầu tư” đăng trên tạp chí phát triển kinh tế (Số tháng
12/2008). Trong nghiên cứu này tác giả đã xây dựng mô hình sử dụng 5 biến nguyên
nhân ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin gồm: quy mô, lợi nhuận, nợ phải trả, tài
sản cố định, vòng quay tổng tài sản để kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh
bạch thông tin của các CTNY tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và kết luận rằng
chỉ có biến kết quả tài chính đại diện là chỉ tiêu lợi nhuận – PROFIT là ảnh hưởng đến
tính minh bạch thông tin của các CTNY. Tuy nhiên, quá trình tiếp cận để đề xuất mô
hình của tác giả chưa toàn diện và cỡ mẫu khảo sát của tác giả khá nhỏ so với quy mô
của TTCK Việt Nam (30 CTNY).
Năm 2009, tác giả Lâm Thị Hồng Hoa với bài viết “Minh bạch thông tin – Yêu
cầu thực tiễn và mức độ đáp ứng” trong tạp chí công nghệ ngân hàng (số 38, trang 3842) đã đưa ra 7 nguyên nhân chính dẫn đến sự thiếu minh bạch về thông tin như: tâm lý
“tốt đẹp thì khoe ra, xấu xa thì đậy lại”; quan niệm giữ bí mật trong kinh doanh bị lạm
dụng; năng lực quản trị còn yếu kém, tâm lý ngại thay đổi; xây dựng các chính sách ở
tầm vĩ mô và vi mô đã tạo điều kiện cho việc che dấu hoặc làm sai lệch thông tin; chưa
có chế tài cho việc xử phạt CBTT cho nhà đầu tư thiếu minh bạch; chưa có hệ thống chỉ
tiêu để người sử dụng thông tin kiểm chứng thông tin đó đã minh bạch hay chưa và cuối
cùng là hoạt động kiểm toán chưa thực sự góp phần làm cho thông tin được minh bạch.
Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự thiếu minh bạch, tác giả đã đề ra một
số khuyến nghị.
Ngoài ra, trong năm 2012, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thúy Anh với tựa đề
“Minh bạch hóa thông tin trên TTCK Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế Quốc
tế” cũng đề cập đến sự minh bạch thông tin trên TTCK. Trong nghiên cứu này, tác giả đã
phân tích thực trạng minh bạch thông tin trên TTCK Việt Nam và rút ra kết luận: TTCK



15

Việt Nam mặc dù đã có nỗ lực trong việc minh bạch thông tin như ban hành khung pháp
luật, việc tuân thủ của các CTNY, việc thực hiện các chức năng của trung gian tài chính
như các công ty kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm thì vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết:
Khung pháp luật chưa hoàn chỉnh, chức năng quản lý Nhà nước còn yếu kém. Đồng thời,
thông qua việc phân tích một trường hợp vi phạm minh bạch thông tin để chỉ ra yếu kém
của cơ quan quản lý Nhà nước. Công trình cũng sử dụng tiêu chí xếp hạng minh bạch và
CBTT của Standard và Poors để xếp hạng 89 CTNY trên sàn HSX để chỉ ra mức độ
minh bạch thông tin của CTNY Việt Nam. Tuy nhiên, luận án chủ yếu sử dụng phương
pháp nghiên cứu định tính để lý giải và minh chứng cho các kết luận của mình cũng như
sử dụng một vài trường hợp điển hình để phân tích sự yếu kém trong mức độ minh bạch
thông tin là chưa toàn diện và đầy đủ nên tính thuyết phục chưa cao.
Ngoài các nghiên cứu về minh bạch thông tin nói chung, các nghiên cứu về minh
bạch thông tin tài chính được nhiều tác giả khác thực hiện như sau:
Năm 2009, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Minh Tâm, “Kế toán kiểm toán với
sự minh bạch TTTC trên thị trường” đăng trong tạp chí kiểm toán (số 4, trang 14-18), tác
giả đã đưa ra các nguyên nhân làm cho TTTC của Việt Nam chưa thực sự minh bạch
như: tính minh bạch trong BCTC chưa được coi trọng đúng mức; chưa thực hiện đầy đủ
các quy định chung của chuẩn mực kế toán quốc tế về lập và trình bày BCTC; trách
nhiệm của các CTNY, các nhà đầu tư và các công ty kiểm toán liên quan đến tính trung
thực hợp lý, công khai và minh bạch của các TTTC được công bố chưa được xử lý đúng
luật; độ tin cậy của kết quả kiểm toán độc lập BCTC đối với ngân hàng thương mại Việt
Nam chưa cao. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao tính
minh bạch TTTC như hoàn thiện công tác kế toán – kiểm toán, các ngân hàng thương
mại phải tự hoàn thiện mình, nâng cao chất lượng kế toán – kiểm toán trên TTCK. Tuy
nhiên, bài viết chủ yếu thể hiện quan điểm của tác giả và chưa có những minh chứng cụ
thể cho các kết luận của tác giả.
Nghiên cứu về hệ thống kiểm soát sự minh bạch thông tin ở cấp độ tiến sĩ của

Nguyễn Đình Hùng (2010) đề cập đến “Hệ thống kiểm soát sự minh bạch thông tin tài
chính công bố của các công ty niêm yết tại Việt Nam’’. Trong nghiên cứu này tác giả đã
xác định các thành phần, mối quan hệ và cơ chế hoạt động của hệ thống kiểm soát sự
minh bạch TTTC bao gồm 6 thành phần: hệ thống chuẩn mực kế toán, quy định liên
quan đến công bố BCTC, kiểm soát nội bộ, ban giám đốc, ban kiểm soát, kiểm toán độc
lập. Tuy nhiên, tác giả chỉ mới dừng lại ở việc thống kê mô tả của các biến đại diện đó
mà chưa thể hiện mối quan hệ giữa các nhân tố nghiên cứu cũng như xác định được mức
độ ảnh hưởng của các biến đó như thế nào đến sự minh bạch thông tin. Đồng thời, tác giả
chủ yếu sử dụng phương pháp định tính để biện luận cho các kết luận của mình.


16

Một số công trình khoa học cấp bộ cũng đề cập đến tính minh bạch thông tin trên
BCTC như “Tính minh bạch trong BCTC của các doanh nghiệp nhỏ và vừa” (2011) của
tác giả Nguyễn Thị Hà. Công trình này đã thực hiện khảo sát về tính minh bạch trong
BCTC của các doanh nghiệp nhỏ và vừa để đưa ra những đánh giá về tính minh bạch
thông tin BCTC của doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời phân tích các nguyên nhân của
sự thiếu minh bạch trong BCTC của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Công trình chỉ dừng
lại ở việc thống kê mô tả những đánh giá về tính thiếu minh bạch trong BCTC của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa đưa ra được mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến
tính minh bạch tài chính trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa và mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố đó tới tính minh bạch tài chính trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách
rõ ràng, cụ thể. Các công cụ và kỹ thuật sử dụng trong các phân tích của tác giả chưa đầy
đủ, từ đó các cơ sở để đưa ra giải pháp chưa có tính thuyết phục cao.
Gần nhất, trong năm 2012 liên quan đến nghiên cứu hành vi của nhà đầu tư với
vấn đề minh bạch TTTC có nghiên cứu “Minh bạch TTTC và hành vi nhà đầu tư trong
TTCK Việt Nam” (tạp chí TTCK Việt Nam, tháng 11/trang 65-66) của tác giả Nguyễn
Văn Dần. Trong nghiên cứu này, tác giả đã kiểm tra nhận thức của nhà đầu tư trên sàn
HOSE về các thành phần biến số minh bạch TTTC, nhân khẩu nhà đầu tư và kinh

nghiệm nhà đầu tư nhằm khám phá mối quan hệ giữa sự minh bạch TTTC và hành vi nhà
đầu tư. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chỉ dừng lại ở việc đưa ra cách thức
nghiên cứu mà chưa giải quyết được mục tiêu đề ra ban đầu.
Ngoài ra, năm 2012, ở góc độ nghiên cứu của các tổ chức quốc tế, Báo cáo Thẻ
điểm Quản trị công ty 2012 của tổ chức tài chính quốc tế (IFC) phối hợp với UBCKNN
(chương trình nghiên cứu của Word Bank), cũng đã trình bày các vấn đề liên quan đến
minh bạch thông tin và quản trị công ty của các CTNY tại TTCK Việt Nam. Trong
nghiên cứu này, nguyên tắc, phương pháp luận của OECD và môi trường quản trị công
ty ở Việt Nam là cơ sở để nghiên cứu này xây dựng Thẻ điểm Quản trị Công ty của Việt
Nam. Thông qua kết quả khảo sát và dữ liệu nghiên cứu của 100 CTNY trên TTCK VN,
kết quả nghiên cứu cho thấy các CTNY đã cung cấp thông tin ít hơn và chất lượng công
khai, minh bạch đã giảm sút. Các CTNY đã “hạ thấp tiêu chuẩn về công khai thông tin,
chỉ cung cấp những thông tin chung chung, không đầy đủ ra thị trường”. Kết quả nghiên
cứu của IFC cũng chỉ ra rằng mức điểm trung bình về Minh bạch và công bố thông tin
chỉ đạt 40,1%, “chưa bằng một nửa điểm số cần đạt được đối với hoạt động công bố
thông tin có chất lượng”. Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến vấn đề quản trị
công ty, trong đó minh bạch và công bố thông tin chỉ là một vấn đề đặt ra trong nội dung
nghiên cứu về quản trị công ty nên kết quả phân tích chưa đi sâu về mức độ minh bạch
TTTC của các CTNY. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích thực


17

trạng về mức độ minh bạch thông tin nói chung và minh bạch TTTC nói riêng của các
CTNY mà chưa đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch TTTC của các
CTNY trên TTCK Việt Nam.
Phụ lục 1.2: Tổng hợp một số nghiên cứu trong nước về minh bạch thông tin và
thông tin tài chính

1.2.2 Đánh giá chung về những nghiên cứu đã thực hiện trong nước về TTTC

và minh bạch TTTC
Nhìn chung kể từ khi TTCK Việt Nam thành lập, sau một quá trình hoạt động, thị
trường bị chi phối bởi tâm lý ra quyết định đầu tư theo xu hướng “bầy đàn” chiếm tỷ lệ
khá cao thì vấn đề về minh bạch thông tin trên TTCK được đặt ra khá nhiều. Sau nhiều
thất bại trong đầu tư theo “tâm lý bầy đàn” mà không dựa trên nguồn dữ liệu TTTC và sự
không công bằng trong tiếp nhận thông tin giữa các nhà đầu tư khác nhau, dẫn đến nhu
cầu bức thiết đặt ra cho các CTNY về tính minh bạch trong thông tin nói chung và TTTC
nói riêng. Từ đó, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia bắt đầu có những nghiên cứu về
tính hữu ích của thông tin và TTTC của các CTNY trong quá trình đầu tư chứng khoán
cũng như những yêu cầu về tính minh bạch thông tin và TTTC được quan tâm nghiên
cứu nhiều hơn. Ngoài một số kết quả đạt được như đã phân tích trong từng nghiên cứu
trên thì nhìn chung các nghiên cứu đã thực hiện có những đặc điểm như sau:
(1)

Đưa ra bức tranh tổng quát về tình hình CBTT và TTTC của các CTNY.

(2)
Đưa ra các đánh giá về mức độ và tính minh bạch trong CBTT và TTTC hiện nay
của các CTNY.
Đề ra một số giải pháp cho sự phát triển trong hệ thống CBTT của các CTNY.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều còn tồn tại một số hạn chế như:
(1)
Các nghiên cứu trong nước hầu hết chưa đi sâu vào minh bạch thông tin mà chủ
yếu nghiên cứu về thông tin một cách riêng lẻ.
(2)
Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận của các nghiên cứu được thực hiện chủ
yếu bằng phương pháp nghiên cứu định tính làm cơ sở phân tích nhằm đưa ra các kết
luận và giải pháp; cách thức tiếp cận nghiên cứu chủ yếu nặng về định tính, thiếu định
lượng. Rất ít các nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để làm công
(3)


cụ đo lường và xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin, đặc biệt là
TTTC của các CTNY.
(3)
Một số nghiên cứu sử dụng các bảng câu hỏi khảo sát để hỗ trợ và làm cơ sở cho
các phân tích, các kết luận của mình, từ đó đề ra các giải pháp có liên quan. Tuy nhiên,
cỡ mẫu nghiên cứu của hầu hết nghiên cứu đều chưa rộng và chưa đầy đủ. Ngoài ra, các
nghiên cứu sau khi thực hiện khảo sát chưa sử dụng các kỹ thuật và công cụ phân tích hỗ
trợ để có những cái nhìn tổng quát và toàn diện hơn về kết quả khảo sát đó. Hầu hết đạt ở


18

mức độ đưa ra những nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin hoặc TTTC ở mức
độ thống kê, mô tả hiện tượng, chưa đưa ra được mối tương quan và mức độ tương quan
giữa các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin.
(4)
Các nghiên cứu trước khi xem xét các quy định về chuẩn mực kế toán, chưa gắn
kết với yêu cầu hội tụ của kế toán quốc tế cũng như chuẩn mực kế toán quốc tế; chưa gắn
kết và làm rõ đặc thù của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
(5)
Đa phần các nghiên cứu chủ yếu đề cập đến TTTC hoặc minh bạch thông tin, rất
ít nghiên cứu có sự gắn kết giữa TTTC và minh bạch TTTC.

1.3

KHE HỔNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ MINH BẠCH THÔNG TIN TÀI CHÍNH

CỦA CÁC TÁC GIẢ TRONG/NGOÀI NƯỚC VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA
LUẬN ÁN

Qua việc tổng quát hóa các kết quả nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về
minh bạch thông tin nói chung và minh bạch TTTC nói riêng cho thấy, có rất nhiều nhân
tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin và minh bạch TTTC. Các nhân tố đó được
xem xét ở nhiều góc độ từ vĩ mô như hệ thống kinh tế, chính trị, văn hóa đến vi mô như
các đặc điểm tài chính hay đặc điểm quản trị công ty. Tác động của từng nhóm nhân tố
đến sự minh bạch thông tin nói chung và TTTC nói riêng là cả một quá trình phức tạp, đa
dạng và không phải các biểu hiện bên ngoài lúc nào cũng giống nhau về cách thể hiện.
Trong đó, Archambault (2003) cho rằng, sự minh bạch thông tin hay quá trình CBTT là
một quá trình phức tạp, chịu sự ảnh hưởng bởi một tập hợp các nhân tố. Những đất nước
khác nhau, những nền văn hóa khác nhau, những nền kinh tế khác nhau thì sự tác động
của từng nhóm nhân tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin nói chung và TTTC
nói riêng có thể có kết quả khác nhau, thậm chí ngược nhau. Nghiên cứu của các tác giả
trên thế giới hầu như xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch TTTC tiếp
cận ở nhiều góc độ khác nhau với mẫu khảo sát/đánh giá thông qua nhiều quốc gia, rất ít
nghiên cứu đi sâu vào một thị trường cụ thể, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp
nghiên cứu định lượng. Ngoài ra, các nghiên cứu trên thế giới hầu như rất ít thực hiện
bước nghiên cứu tổng thể bằng phương pháp định tính để khám phá các nhân tố mới mà
chủ yếu kế thừa và vận dụng đầy đủ các nhân tố đã thực hiện ở các mô hình trước với cỡ
mẫu ngày càng rộng hơn. Trong khi đó, các nghiên cứu trong nước chủ yếu tập trung vào
nghiên cứu tính minh bạch thông tin của các nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc nhóm
các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam ở góc độ công ty. Tuy nhiên, các
nghiên cứu liên quan đến tính minh bạch thông tin của các nghiên cứu trong nước còn
đơn lẻ, tính hệ thống chưa cao; phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng là phương
pháp định tính, đa phần tập trung vào nghiên cứu tính minh bạch của thông tin nói
chung, rất ít các nghiên cứu chỉ đề cập đến thông tin tài chính. Đối chiếu các kết quả
nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể thấy, trong những nước có nền kinh tế đang phát


19


triển, đặc biệt là những nền kinh tế chuyển đổi như ở Việt Nam thì các nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ minh bạch thông tin có những điểm khác biệt lớn so với những nền
kinh tế đã phát triển. Thông qua kết quả tổng hợp các nghiên cứu tại Việt Nam trước đây,
có thể nhận thấy rằng, ở góc độ công ty, những nghiên cứu về sự tác động của các nhóm
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch TTTC là rất ít. Đặc biệt là các nghiên cứu
thực nghiệm và các nghiên cứu lượng hóa được mức độ minh bạch TTTC cũng như ảnh
hưởng của các nhân tố đến mức độ minh bạch TTTC trên TTCK là rất hiếm. Ngoài ra,
việc đánh giá mức độ minh bạch TTTC của các CTNY trên TTCK VN dưới góc độ cảm
nhận của nhà đầu tư cũng là nội dung chưa được thực hiện trong các nghiên cứu trước
đây. Đây chính là khe hổng trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tính minh bạch
TTTC của các CTNY trên TTCK VN. Từ việc xác định khe hổng trong nghiên cứu, luận
án tập trung xem xét mức độ minh bạch TTTC của các CTNY ở Việt Nam và các nhân tố
ảnh hưởng bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để tổng quan các kết
quả nghiên cứu trước trong và ngoài nước cũng như thảo luận và trao đổi với các chuyên
gia am hiểu và có kinh nghiệm thực tiễn về tình hình hoạt động của TTCK VN. Luận án
tiến hành lựa chọn nguyên tắc quản trị của OECD làm nền tảng của thước đo về minh
bạch TTTC để đánh giá mức độ minh bạch TTTC của các CTNY dưới góc độ cảm nhận
của nhà đầu tư. Luận án cũng sử dụng phương pháp định lượng để kiểm định mô hình
các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch TTTC của các CTNY. Trên cơ sở kế thừa
các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, đặc biệt là kết quả và mô hình
nghiên cứu về mức độ công bố và tính minh bạch TTTC ở góc độ công ty của nhóm tác
giả Robert Bushman và cộng sự (2001), Archambault (2003), Cheung và cộng sự (2005),
luận án sẽ điều chỉnh và vận dụng cho phù hợp với những đặc điểm của TTCK Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến
tính minh bạch TTTC, lượng hóa tính minh bạch TTTC và các nhân tố ảnh hưởng đến
tính minh bạch TTTC của các CTNY ở Việt Nam. Từ đó, luận án đề ra các giải pháp
tăng cường tính minh bạch TTTC của các CTNY, góp phần tạo nên một TTCK hoạt
động hiệu quả và bền vững.



20

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, luận án đã trình bày tổng quan về các nghiên cứu liên quan
đến TTTC, một số nghiên cứu về minh bạch thông tin, nghiên cứu về minh bạch TTTC
cũng như các nghiên cứu kết hợp về TTTC và minh bạch TTTC. Đồng thời, luận án cũng
khái quát hóa các nghiên cứu đã thực hiện trên thế giới và Việt Nam về TTTC và minh
bạch TTTC.
Luận án đã phân tích và tổng kết những ưu điểm và hạn chế của các kết quả
nghiên cứu trước về TTTC và minh bạch TTTC. Từ đó, luận án đã kế thừa những kết
quả nghiên cứu trước, cân nhắc xem xét vận dụng trong điều kiện của Việt Nam với nền
kinh tế đang phát triển có đặc điểm và văn hóa khác biệt với các nước để hiệu chỉnh, xây
dựng mô hình và cách thức nghiên cứu phù hợp.
Thông qua các nghiên cứu đã thực hiện trong nước, luận án rút kinh nghiệm cũng
như kế thừa các kết quả nghiên cứu đó, khắc phục những tồn tại của các nghiên cứu đã
thực hiện trong nước để kết quả nghiên cứu mang tính khác biệt hơn. Từ đó, luận án đưa
ra kết quả nghiên cứu có nhiều phát hiện mới với những minh chứng và cơ sở lập luận có
tính thuyết phục cao hơn trong các phần tiếp theo.


21

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN TÀI CHÍNH,
MINH BẠCH THÔNG TIN TÀI CHÍNH
CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
2.2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÔNG TIN TÀI CHÍNH VÀ MINH BẠCH
THÔNG TIN TÀI CHÍNH


2.2.1 Khái niệm thông tin tài chính
Sự phát triển ngày càng cao của công nghệ thông tin và tính ứng dụng của nó
trong công tác kế toán - tài chính giúp cho thông tin kế toán – tài chính trở thành công cụ
hỗ trợ đắc lực cho việc phân tích, xử lý thông tin, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị
trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng. Có thể nói TTTC là thông tin phản ánh
các tác động tài chính của các sự kiện tài chính được thu thập, xử lý và báo cáo nhằm
thông tin một cách hữu ích cho nhiều người sử dụng đưa ra các quyết định kinh tế.
Đứng ở góc độ hệ thống thông tin kế toán thì BCTC được xem là kết quả đầu ra
của một hệ thống thông tin kế toán, được xử lý và cung cấp bởi quy trình nghiệp vụ kế
toán tài chính; hoặc ở góc độ người sử dụng thông tin, BCTC là nguồn cung cấp TTTC
hữu ích cho việc ra quyết định kinh tế. Trong phạm vi nghiên cứu, vì TTTC là kết quả
của quá trình soạn thảo BCTC và quá trình CBTT chủ yếu qua BCTC nên thuật ngữ
“TTTC” xét trên phạm vi hẹp có nghĩa tương đồng với “thông tin trên BCTC”, do vậy
luận án sử dụng thuật ngữ TTTC cũng có nghĩa là muốn nhắc đến thông tin trên BCTC.
Như vậy, TTTC là những thông tin liên quan đến dòng tiền, kết quả kinh doanh
và tình hình tài chính của DN ở những thời kỳ xác định, được xác định vào những thời
điểm nhất định. TTTC có thể là thông tin trong quá khứ hoặc thông tin mang tính dự báo,
thông thường được biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ. TTTC thường được thể hiện trên các
BCTC của doanh nghiệp (Nivra, 2008).
Nói cách khác TTTC là thông tin có được thông qua các BCTC của doanh nghiệp
như: thông tin về tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí của doanh
nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp và chủ yếu có được từ công tác kế toán tài chính của
doanh nghiệp qua các BCTC gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh BCTC gắn liền với thời gian.

2.2.2 Khái niệm minh bạch TTTC và tầm quan trọng của minh bạch TTTC
2.1.2.1

Khái niệm minh bạch TTTC



22

Tùy thuộc vào từng ngữ cảnh thực tế hoặc từng góc nhìn mà có nhiều khái niệm
khác nhau về minh bạch cũng như minh bạch thông tin. Để hiểu minh bạch hóa thông tin
là gì, luận án tiến hành làm rõ khái niệm minh bạch và minh bạch thông tin.
Theo nghĩa đen thông thường, minh bạch, hay chính xác hơn là sự minh bạch
(tiếng Anh là transparency) là sự có thể nhìn rõ được, nhìn xuyên qua sự vật hiện tượng
từ bên này sang bên kia, là sự rõ ràng, trong sạch, trong suốt. Transparency là một từ
ghép có nguồn gốc từ hai khái niệm độc lập là trans và parent, trong đó Trans có nghĩa
là sự di chuyển và Parent có nghĩa là nhìn thấy được.
Như vậy, sự minh bạch ban đầu chỉ được hiểu là sự rõ ràng, khách quan và thẳng
thắn trong việc cung cấp thông tin khi được yêu cầu, và sự minh bạch mang tính “công
khai thụ động” theo kiểu “hỏi thì trả lời”. Cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức, khái
niệm về sự minh bạch thường đi kèm với thông tin, do đó có khái niệm về sự minh bạch
thông tin. Sự minh bạch thông tin hay chính xác hơn là sự cung cấp thông tin một cách rõ
ràng, đầy đủ và cụ thể. Việc cung cấp thông tin như vậy sẽ cho phép mọi người đều có
thể nhìn thấy sự thật nếu muốn hoặc cho mọi người thời gian, công việc và kỹ năng để
quan sát hay nhìn thấy sự thật hoặc bản chất của đối tượng quan sát.
Có nhiều định nghĩa về sự minh bạch thông tin được đưa ra bởi nhiều tổ chức và
trong nhiều nghiên cứu trước đây, như:
Trong một báo cáo của World Bank (Trích Tara Vishwanath và Kaufmann, 1999)
công bố về sự minh bạch thông tin trong lĩnh vực tài chính, sự minh bạch thông tin trên
thị trường tài chính được hiểu là việc các chủ thể kinh tế (người dân, doanh nghiệp, hoặc
chính phủ) có thể cập nhật thông tin liên quan đến thị trường tài chính một cách tin cậy,
kịp thời và có thể tiếp cận một cách dễ dàng. Các tác giả nhấn mạnh “minh bạch là sự
đầy đủ, tin cậy và kịp thời trong việc CBTT và sự tiếp cận dễ dàng từ phía công chúng
đối với sự đầy đủ, tin cậy và kịp thời đó”.
Khái niệm minh bạch thông tin một cách chủ động, thể hiện trách nhiệm của tổ

chức CBTT thông qua các định nghĩa của một số tác giả và tổ chức như: Ủy ban Basle về
giám sát ngân hàng đưa ra khái niệm minh bạch thông tin trong lĩnh vực ngân hàng như
sau: “minh bạch thông tin trong hoạt động ngân hàng là việc công bố ra công chúng
thông tin kịp thời, tin cậy nhằm đảm bảo người sử dụng thông tin đó có thể đánh giá
chính xác về tình hình và kết quả tài chính của ngân hàng, hoạt động kinh doanh và các
rủi ro liên quan” (Basle, 1998, p.15). Tương tự như vậy, OECD (2004) cho rằng sự minh
bạch thông tin là việc cung cấp thông tin kịp thời và đầy đủ từ phía cơ quan công quyền
về thể chế kinh tế, các quy định của pháp luật, các số liệu, các thông tin liên quan đến
chính sách tài chính, chính sách tiền tệ theo cách thức mà công chúng có thể tiếp cận
được.
Ở góc độ công ty, minh bạch TTTC được các nhà nghiên cứu, các tổ chức định
nghĩa như sau:


23

Theo Robert Bushman và cộng sự (2001), minh bạch TTTC là sự sẵn có của
thông tin cụ thể về công ty cho các nhà đầu tư và cổ đông bên ngoài. Đồng thời
Bushman và nhóm tác giả đã đo lường cơ chế cung cấp thông tin theo 3 nhóm:
(1) Những quy định trong BCTC của công ty gồm: mức độ, nguyên tắc và tính kịp
thời của BCTC, chất lượng kiểm toán và mức độ công khai thông tin quản trị (Ví dụ như:
có thể xác định được thông tin về mức thù lao, số lượng cổ phần nắm giữ của nhân viên
và ban giám đốc cũng như các cổ đông lớn,…);
(2) Mức độ đáp ứng được các thông tin riêng biệt của doanh nghiệp;
(3) Mức độ phổ biến của thông tin gồm khả năng tiếp cận thông tin qua các
phương tiện truyền thông.
Trên quan điểm của người sử dụng thông tin, nghiên cứu của nhóm tác giả
Blanchet (2002) và Prickett (2002) trích trong Kulzick (2004) cho rằng minh bạch thông
tin là việc cung cấp thông tin phải đảm bảo các đặc điểm như: thông tin phải chính xác,
nhất quán, thích hợp, đầy đủ, rõ ràng, kịp thời và thuận tiện. Các đặc điểm đó được diễn

giải như sau:
Sự chính xác (Accuracy): thông tin phản ánh chính xác dữ liệu tổng hợp từ những
sự kiện đã phát sinh;
Sự nhất quán (Consistency): thông tin được trình bày có thể so sánh được và là
kết quả của những phương pháp kế toán được áp dụng một cách thống nhất;
Sự thích hợp (Appropriateness): khả năng thông tin tạo ra các quyết định khác
biệt, giúp người sử dụng dự báo các kết quả trong quá khứ, hiện tại và tương lai hoặc
giúp xác nhận và hiệu chỉnh các mong đợi, phù hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế
của người sử dụng;
Sự đầy đủ (Completeness): thông tin phản ánh đầy đủ các sự kiện đã phát sinh và
các đối tượng có liên quan;
-

Sự rõ ràng (Clarity): thông tin truyền đạt được thông điệp và dễ hiểu;

Sự kịp thời (Timeliness): thông tin có sẵn cho người sử dụng trước khi thông tin
giảm khả năng ảnh hưởng đến các quyết định;
-

Sự thuận tiện (Convenience): thông tin được thu thập và tổng hợp dễ dàng.

Quản trị và thực thi (Governance and enforcement): cần xây dựng các chính sách
phù hợp để đảm bảo đạt được các mức độ minh bạch.
OECD (2004), liên quan đến vấn đề CBTT và tính minh bạch cho rằng: “Khuôn
khổ quản trị công ty phải đảm bảo việc CBTT kịp thời và chính xác về mọi vấn đề quan
trọng liên quan đến công ty, bao gồm tình hình tài chính, tình hình hoạt động, sở hữu và


24


quản trị công ty”. Những vấn đề mà OECD đặt ra có những ý nghĩa lý luận quan trọng
trong việc xem xét tính minh bạch của thông tin nói chung và TTTC nói riêng.
Theo Bert J. Zarb, (2006), dưới góc độ nghề nghiệp của kế toán viên công chứng,
để TTTC được hữu ích và kịp thời, thì TTTC được công bố phải đáng tin cậy, so sánh
được, nhất quát và minh bạch. Để đạt được sự minh bạch trong BCTC thì thông tin phải
được thiết lập với một chất lượng cao và tuân thủ theo các nguyên tắc kế toán được chấp
nhận chung (GAAP).
Các khái niệm về MBTT như đã nêu ở trên không chỉ đòi hỏi chất lượng của
thông tin công bố, nội dung của các thông tin cũng như mối quan hệ với công chúng và
cách thức CBTT mà minh bạch thông tin còn đòi hỏi các điều kiện cần thiết về khung
pháp lý, về quản lý vĩ mô của nhà nước, về chức năng hoạt động của các công ty kiểm
toán, xếp hạng tín nhiệm, về việc CBTT của các doanh nghiệp phát hành. Có thể nói,
minh bạch thông tin trên TTCK đặt ra yêu cầu cho cả hệ thống các cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp khi CBTT trên TTCK.
Phụ lục 2.1: Bảng tổng hợp các khái niệm về minh bạch thông tin và TTTC
Từ những phân tích cũng như những ghi nhận thông qua các khái niệm trên, theo
quan điểm của NCS:
“Minh bạch TTTC là việc cung cấp các TTTC một cách tin cậy, kịp thời, chính xác, đầy
đủ và nhất quán theo cách thức mà công chúng có thể tiếp cận một cách thuận tiện”.
2.1.2.2

Tầm quan trọng của minh bạch TTTC

Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của minh bạch thông
tin và các lý thuyết liên quan đến thông tin trong mối quan hệ với minh bạch thông tin,
có thể thấy rằng sự minh bạch thông tin trên TTCK nói chung và minh bạch TTTC nói
riêng là hết sức cần thiết và là một yêu cầu mang tính khách quan. Nhiều kết quả nghiên
cứu trước đây cũng cho thấy, minh bạch TTTC có vai trò rất quan trọng không chỉ đối
với các công ty công bố, người sử dụng thông tin mà còn cho cả hệ thống thị trường tài
chính và cho cả nền kinh tế. Điều này là yêu cầu, là mong muốn của các bên liên quan

cũng như bản thân TTCK. Cụ thể như sau:


Đối với nhà đầu tư:

Minh bạch TTTC góp phần giảm thiểu rủi ro đối với nhà đầu tư. Các nhà đầu tư
thực chất là những người mua trên TTCK. Họ thường rơi vào lựa chọn bất lợi khi không
có thông tin đầy đủ so với những nhà quản lý bên trong doanh nghiệp hay các cổ đông
chiến lược. Do đó, họ có thể bị thiệt hại nếu chọn phải những chứng khoán xấu hoặc phải
tốn nhiều chi phí để sàng lọc thông tin và kiểm soát việc sử dụng vốn của các doanh
nghiệp để hạn chế rủi ro đạo đức trên thị trường.


25

-

Minh bạch TTTC giúp giảm thiểu chi phí trung gian, giảm thiểu rủi ro cho nhà

đầu tư. Trên TTCK, nhà đầu tư là đối tượng có khả năng bị thiệt hại về lợi ích lớn nhất.
Thiệt hại có thể do các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp bị các nhà quản lý doanh
nghiệp che dấu thông tin dẫn đến đưa ra các quyết định mua bán chứng khoán không hợp
lý. Đối tượng thường chịu thiệt hại lớn nhất là các nhà đầu tư thiểu số, mua chứng khoán
với số lượng ít. Enron, Worldcom ở Mỹ hay gần đây là Olympus ở Nhật là những ví dụ
rõ ràng về tác hại của sự không minh bạch thông tin. Cuối cùng sự phá sản của Enron,
Worldcom hay Olympus đã gây ra những thiệt hại lớn cho nhà đầu tư và chủ nợ của họ,
đồng thời cũng làm mất niềm tin của công chúng về những công bố của các công ty cũng
như các quy định kiểm soát các công ty đại chúng mà nguyên nhân xuất phát từ sự thiếu
minh bạch TTTC.
Từ những luận cứ trên, minh bạch TTTC là điều cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi

của các nhà đầu tư trên TTCK, giúp họ tránh được những rủi ro khi tham gia vào TTCK.
-

Minh bạch TTTC giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định chính xác hơn. Minh bạch

TTTC sẽ giúp nhà đầu tư có quyền kiểm soát chất lượng của những chứng khoán trên thị
trường. Qua đó họ sẽ xác định mức giá giao dịch tối ưu nhất cho mình. Đối với các thông
tin khác trên TTCK, đặc biệt là thông tin tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp mà
các nhà đầu tư quan tâm, minh bạch hóa thông tin sẽ cho họ biết doanh nghiệp đó đang
trong tình trạng nào, đang có những thuận lợi hay khó khăn gì và tương lai ra sao. Qua
đó, các nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định đùng đắn và thích hợp hơn.
Như vậy, dưới góc độ nhà đầu tư, minh bạch TTTC mang đến niềm tin và sự bảo
vệ, đồng thời giúp nhà đầu tư đưa ra các quyết định hợp lý và hiệu quả.


Đối với quản lý nhà nước

Với việc tiếp cận dễ dàng mọi thông tin trên TTCK, việc cung cấp thông tin đầy
đủ, chính xác và kịp thời hơn, các cơ quan quản lý nhà nước có được cái nhìn tổng quát
và sát thực hơn về TTCK. Từ đó, các cơ quan này sẽ có những biện pháp phù hợp để hạn
chế và ngăn chặn các hành vi vi phạm trên TTCK, thực hiện các chức năng quản lý vĩ
mô hiệu quả hơn, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư và các bên tham gia trên thị trường.
Do đó, Ở góc độ nhà nước, minh bạch TTTC giúp cho việc quản lý, giám sát thị
trường của các cơ quan quản lý được dễ dàng và hiệu quả hơn.


Đối với bản thân TTCK

-


Minh bạch TTTC góp phần xây dựng một TTCK hoạt động hiệu quả.

Theo lý thuyết thị trường hiệu quả, một thị trường không minh bạch thông tin nói
chung, TTTC nói riêng, với quá nhiều thông tin bị che giấu, nơi mà các giao dịch và giá
cả của các loại chứng khoán không phản ánh đầy đủ, kịp thời các thông tin liên quan đến


×