Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA MỐI QUAN HỆ NHÀ NƯỚC VỚI THỊ TRƯỜNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC ĐOÀN THỂ VÀ CÁC HỘI : TÓM TẮT ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.71 KB, 30 trang )

ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA MỐI QUAN HỆ NHÀ
NƯỚC VỚI THỊ TRƯỜNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC ĐOÀN THỂ
VÀ CÁC HỘI : TÓM TẮT ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2005
Chủ nhiệm Đề tài : Hoàng Thu Hoà

MỤC LỤC
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM TRÊN THẾ GIỚI VỀ QUAN
HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI THỊ TRƯỜNG VÀ VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC ĐOÀN THỂ,
CÁC HỘI

1. Nhà nước và một số nét cơ bản về cải cách nhà nước trên thế giới hiện
nay
2. Thị trường và nền kinh tế thị trường
3. Mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường
4. Các đoàn thể và các hội trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
5. Kinh nghiệm cụ thể của một số nước
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA VỀ QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI THỊ
TRƯỜNG, VÀ VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN, CÁC ĐOÀN THỂ VÀ CÁC HỘI

1. Đặc điểm hình thành và vận hành của Nhà nước, của nền kinh tế thị
trường, của các đoàn thể và các hội ở nước ta.
2. Thực trạng quan hệ giữa nhà nước với thị trường và vai trò của các đoàn
thể và các hội ở nước ta hiện nay
3. Một số nhận xét khái quát về nguyên nhân yếu kém và các vấn đề cần
giải quyết trong quan hệ Nhà nước - thị trường - hội, đoàn thể ở Việt Nam
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA MỐI QUAN HỆ NHÀ
NƯỚC VỚI THỊ TRƯỜNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC ĐOÀN THỂ VÀ CÁC
HỘI



1


1. Quan điểm nâng cao hiệu quả của mối quan hệ nhà nước với thị
trường, phát huy vai trò của các đoàn thể và các hội
2. Định hướng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa
nhà nước với thị trường, phát huy vai trò của các đoàn thể, các hội
KẾT LUẬN

2


CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM TRÊN THẾ GIỚI VỀ
QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI THỊ TRƯỜNG VÀ VỀ VAI TRÒ CỦA
CÁC ĐOÀN THỂ, CÁC HỘI
1. Nhà nước và một số nét cơ bản về cải cách nhà nước trên thế giới hiện nay
1.1. Khái niệm nhà nước
Có rất nhiều cách hiểu và cách làm khác nhau về nhà nước. Theo nghĩa rộng,
nhà nước gồm 3 nhân tố: quyền lực chính trị; cộng đồng dân cư và không gian lãnh
thổ. Theo nghĩa hẹp, nhà nước chỉ là quyền lực chính trị, tức công quyền, gồm
pháp luật, tổ chức bộ máy, những con người, những nguồn lực, những hoạt động
của công quyền. Hiện nay, phổ biến người ta dùng khái niệm nhà nước theo nghĩa
hẹp.
Theo dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội X của Đảng, “Nhà nước đại diện
cho quyền làm chủ của nhân dân đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường
lối chính trị của đảng cầm quyền. Mọi chính sách của đảng và pháp luật của nhà
nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của đại đa số
nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm, không chỉ là

người thụ hưởng mà còn góp phần tích cực, quan trọng vào việc xây dựng, hoạch
định và thi hành các chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước"
1.2. Những điểm mạnh và điểm yếu của nhà nước
Tuy hiệu quả của nhà nước đối với xã hội khác nhau theo thời gian và không
gian, song phần lớn các nhà nước đều có những điểm mạnh mà thị trường và các tổ
chức xã hội không có được, như: cung cấp hàng hoá công; duy trì trật tự xã hội;
hoạch định khung khổ thể chế điều tiết nền kinh tế; khắc phục những bất cập của
thị trường; phân phối lại thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội; đại diện hợp pháp
cho quốc gia trên trường quốc tế; khuyến khích bảo tồn và quản lý bền vững các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Nếu nhà nước khai thác tốt được những điểm mạnh nói trên, thì hiệu quả hoạt
động của Nhà nước sẽ được cải thiện nhiều. Tuy nhiên, để tối ưu hoá những lợi thế
đó, cần có sự bổ trợ, phối hợp giữa nhà nước với thị trường và các tổ chức xã hội.
Trong khi nhà nước có những khả năng mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế- xã hội, thì nhà nước cũng có thể gây ra những tác hại lớn cho xã hội xuất
phát từ những hạn chế của mình như: đặt ra các chính sách sai lầm; gây ra tình
trạng mất ổn định; can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh tế; dễ bị tổn thương
trước làn sóng toàn cầu hoá; bộ máy cồng kềnh dẫn tới hiệu quả hoạt động kém;
làm xói mòn năng lực cá nhân; tư tưởng vị kỷ, cục bộ trong đội ngũ quan chức.
Với những hạn chế như vậy, việc cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước
để nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò xã hội của nó là một việc làm cần thiết
đối với mỗi quốc gia trên toàn cầu.

3


1.3. Những nét lớn của cải cách nhà nước trên thế giới hiện nay
Các nhà nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và chuyển đổi, đang tiến
hành công cuộc cải cách về cơ cấu tổ chức, con người, và chức năng. Mục tiêu cải
cách được tập trung vào các lĩnh vực cơ bản là cải cách hành chính và cải cách

kinh tế để giúp nhà nước trở nên ngày càng có hiệu lực. Trong bối cảnh mới, việc
cải cách nhà nước để đáp ứng những yêu cầu mới trong nền kinh tế thị trường hiện
đại tòan cầu hóa là cực kỳ quan trọng. Những hướng cải cách chính là giảm mức
độ tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế; thực hiện cải cách hành chính;
chống tham nhũng; cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tạo không gian
hoạt động rộng hơn cho các tổ chức đoàn thể, hội.
Đối với nền kinh tế, nhà nước đương đại chú ý nhiều hơn tới chức năng tạo
thuận lợi cho thị trường và giữ vững ổn định vĩ mô. Đối với xã hội, nhà nước chia
sẻ nhiều hơn với cộng đồng nhân dân và với khu vực tư nhân, bằng những cách
thức như "ủy nhiệm" (delegation), "hợp đồng" (contract), "lấy nguồn từ ngoài"
(outsourcing), "quan hệ đối tác" (partnership), "tự quản của cộng đồng"
(automanagement). Đối với nhân dân, nhà nước đương đại mở rộng dân chủ, làm
đúng hơn dân chủ đại diện, đề cao hơn dân chủ trực tiếp (được gọi là dân chủ tham
gia).
2. Thị trường và nền kinh tế thị trường
2.1. Khái niệm thị trường
Khái niệm hẹp về thị trường coi thị trường như một địa điểm, là nơi mọi người
đến để mua và bán hàng hóa. Theo nghĩa rộng hơn, thị trường là sự thể hiện của
việc mua và bán dưới sự điều chỉnh của giá cả qua đó các gia đình quyết định tiêu
dùng các mặt hàng nào, các công ty quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào và người công nhân quyết định lao động bao lâu, làm cho ai. Thị trường là
tổng hòa các mối quan hệ mua, bán trong xã hội, được hình thành và phát triển
trong những điều kiện xã hội nhất định 1 .
2.2. Những điểm mạnh và điểm yếu của thị trường
Thị trường có vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế của bất kỳ quốc
gia nào. Thị trường kích thích phát triển kinh tế cả theo chiều rộng lẫn chiều sâu,
tăng cường chuyên môn hóa sản xuất, thúc đẩy nâng cao kỹ năng lao động. Động
lực hình thành kết cấu thị trường chủ yếu là lợi ích cá nhân và tự do cạnh tranh, do
vậy thị trường có thể huy động tính chủ động, sáng tạo của mọi người, mọi doanh
nghiệp, buộc họ phải nỗ lực tích lũy vốn, đổi mới và phát triển công nghệ, v.v. để

tự hoàn thiện. Đặc biệt, thị trường có sức mạnh điều tiết các nguồn lực tự nhiên và
xã hội theo hướng sử dụng đạt hiệu quả cao nhất. Thị trường tạo điều kiện cho
người tiêu dùng có quyền chọn lựa những sản phẩm mình thích ở mức giá cạnh
tranh.
Thực tế cho thấy không phải trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào việc áp dụng
cơ chế thị trường đều mang lại những kết quả tích cực. Cơ chế thị trường luôn tiềm
1

“Đại Từ điển Tiếng Việt”.- H.: Văn hoá thông tin, 1999.

4


ẩn một số khiếm khuyết cố hữu như hiệu ứng ngoài (tác động tràn ra ngoài tiêu
cực; độc quyền, thông tin không đối xứng, huỷ hoại môi trường và gây mất công
bằng xã hội.
Với những hạn chế như vậy của thị trường, không thể để cho thị trường ra mọi
quyết định. Để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, cần có sự can
thiệp của chính phủ để buộc phải có những giải pháp tốt hơn cho các vấn đề sản
xuất cái gì, cho ai và như thế nào.
2.3. Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới đương đại, có lịch
sử hình thành và phát triển từ rất lâu. Trên thế giới tồn tại nhiều loại hình kinh tế
thị trường khác nhau với những đặc điểm đa dạng ở mỗi loại, song tất cả các loại
hình ấy đều chia sẻ những đặc điểm cơ bản như sau:
- Thị trường là cơ sở cho việc phân bổ nguồn lực, cơ chế giá cả điều tiết quá
trình kinh doanh trên thị trường;
- Chức năng kinh tế cơ bản của nhà nước là xây dựng khung khổ pháp lý để có
thể phối hợp các hành vi cạnh tranh trên thị trường với hiệu quả xã hội cao nhất,
đồng thời cung ứng những hàng hóa, dịch vụ công mà tư nhân không có khả năng

cung ứng hoặc cung ứng không hiệu quả;
- Các thực thể kinh tế như doanh nghiệp, cá nhân, tham gia vào hoạt động của
thị trường theo quy luật cung- cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh, v.v.
Nền kinh tế thị trường đương đại còn được gọi là nền kinh tế tiền tệ thực và ảo
có độ bất định cao và độ rủi ro lớn, đó là nền kinh tế đang toàn cầu hoá sâu rộng,
nền kinh tế đang từng bước phát triển thành kinh tế tri thức, nền kinh tế gắn liền
chặt chẽ với các hoạt động văn hoá, xã hội, làm xuất hiện xu thế và thực tiễn phát
triển bền vững, mà mọi quốc gia đều công nhận và vận dụng. Thị trường đương đại
như vậy càng cần có vai trò của nhà nước và của các đoàn thể, các hội.
2.4. Các loại hình kinh tế thị trường khác nhau
2.4.1. Mô hình kinh tế thị trường tự do, tiêu biểu là Mỹ
Điểm nổi bật nhất trong nền kinh tế của các nước theo mô hình này là có một
cơ chế thị trường ‘thuần khiết’ hơn so với các nước khác. Vai trò của nhà nước
trong phát triển kinh tế bị giới hạn, cơ chế thị trường hầu như thống trị các lĩnh vực
hoạt động kinh tế và xã hội. Trong nền kinh tế Mỹ, những việc gì mà tư nhân và
nhà nước đều làm được thì tạo điều kiện cho tư nhân làm, bởi vì thường tư nhân
làm tốt hơn.
Vai trò của nhà nước tác động tới nền kinh tế Mỹ được thể hiện ở các lĩnh vực
xây dựng và thực thi một khung khổ luật pháp nhằm điều tiết vĩ mô nền kinh tế;
kiểm soát hệ thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế như đường giao thông, năng
lượng, truyền thông; tạo môi trường cạnh tranh; chống độc quyền; và kiểm soát
các hoạt động kinh tế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ. v.v.

5


2.4.2. Mô hình nền kinh tế thị trường xã hội, tiêu biểu là Đức
Kinh tế thị trường xã hội theo đuổi một sự kết hợp đúng đắn giữa tự do trên thị
trường và công bằng xã hội do nhà nước tác động vào. Trong nền kinh tế thị
trường xã hội, các mục tiêu xã hội cũng được coi trọng ngang bằng với các mục

tiêu kinh tế.
Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội khác với vai trò của
các nhà nước trong các xã hội tư bản tự do cạnh tranh và trong các hệ thống kế
hoạch hoá tập trung. Nền kinh tế thị trường xã hội đòi hỏi phải có một nhà nước có
sức mạnh, nhưng chỉ can thiệp với mức độ cần thiết.
2.4.3. Mô hình kinh tế thị trường các nước công nghiệp hoá mới (NICs)
Cho rằng có mô hình chung cho các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á đã
hoặc đang trở thành nước công nghiệp mới thì có phần gượng ép. Tuy nhiên, các
nước này cũng có nét chung là đi theo mô hình kinh tế thị trường kết hợp giữa nhà
nước và khu vực tư nhân, trong đó nhà nước tập trung xây dựng khung khổ luật
pháp và thể chế, hỗ trợ khu vực tư nhân. Chiến lược của các nước này là thúc đẩy
sự phát triển của khu vực tư nhân, định hướng xuất khẩu, và thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Nhà nước có vai trò quan trọng trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
2.4.4. Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (XHCN )hoặc định hướng
XHCN
Mô hình này đang hình thành chứ chưa phải đã định hình hẳn. Mục tiêu của
nền kinh tế thị trường XHCN là phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng
sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường XHCN, cơ chế thị
trường và các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường
được sử dụng để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của
người lao động, giải phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế, và thúc đẩy
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường
3.1. Quan hệ giữa nhà nước với thị trường tự do theo lý thuyết đề cao vai trò
“bàn tay vô hình” của thị trường
Đại diện cho trường phái này là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh Adam
Smith (1723-1790). Nói rất vắn tắt và giản đơn lại, thì theo ông, thị trường cần
phải được vận hành một cách tự do, không bị méo mó bởi các quyết định hành
chính. Hiện nay, rất ít quốc gia còn áp dụng theo mô hình đề cao vai trò của thị

trường theo lý thuyết “bàn tay vô hình”.
3.2. Quan hệ giữa nhà nước với thị trường theo lý thuyết đề cao vai trò bàn
tay hữu hình của nhà nước
Học thuyết kinh tế của J.M. Keynes là nền tảng tư tưởng về sự can thiệp của
nhà nước. J.M. Keynes cho rằng nhà nước phải đóng vai trò lớn trong nền kinh tế
thị trường, là người chịu trách nhiệm chính trong việc ổn định các hoạt động kinh
tế, nhà nước có nhiệm vụ thực hiện những chính sách và biện pháp tài chính- tiền
6


tệ để chống lại những cuộc suy thoái chu kỳ, đảm bảo đủ việc làm và duy trì nền
kinh tế trong trạng thái không có lạm phát.
3.3. Quan hệ giữa nhà nước với thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện
đại
Giống như như “bàn tay vô hình”, “bàn tay hữu hình” cũng có những khuyết
tật riêng của nó. Vấn đề ở đây là làm thế nào để kết hợp một cách hài hòa cơ chế
thị trường với vai trò điều tiết kinh tế của chính phủ. Paul A. Samuelson là một
trong những người khởi xướng lý thuyết cho rằng phát triển kinh tế phải dựa cả
vào hai bàn tay, đó là cơ chế thị trường và nhà nước. Để đối phó với những khuyết
tật của cơ chế bàn tay vô hình, các nền kinh tế hiện đại là sự hỗn hợp giữa thị
trường và bàn tay hữu hình của nhà nước thông qua các chính sách và luật lệ của
chính phủ. Ngày nay, lý thuyết về “nền kinh tế hỗn hợp” đang thu hút được sự
quan tâm của các nhà kinh tế ở mọi trường phái khác nhau, và được nhiều quốc gia
trên thế giới áp dụng.
4. Các đoàn thể và các hội trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
4.1. Khái niệm về các đoàn thể và các hội
Đoàn thể, hội là các tổ chức xã hội nằm ngoài khu vực nhà nước và thị trường,
được hình thành trên cơ sở tự nguyện của công dân. Theo Từ điển tiếng Việt, đoàn
thể là các tổ chức quần chúng như đoàn thành niên, công đoàn, mặt trận, còn hội là
tổ chức của những người cùng nghề nghiệp, cùng sở thích, hay cùng chính kiến, tự

nguyện và tập hợp lại để tiến hành các hoạt động kinh tế như buôn bán, sản xuất,
kinh doanh hoặc các hoạt động văn hóa, xã hội, hay chính trị, được thành lập theo
thể thức do luật pháp quy định. Các đoàn thể, hội như vậy đều có điều lệ, quy định
tôn chỉ, mục đích, cơ cấu tổ chức và hoạt động của mình.
4.2. Vai trò của các đoàn thể và các hội
Không một xã hội nào phó mặc cho nhà nước và thị trường việc điều hành đời
sống kinh tế - xã hội. Xây dựng nền kinh tế thị trường, củng cố tính hiệu quả của
nhà nước và phát triển các đoàn thể, hội là những quá trình diễn ra đồng thời, làm
tiền đề cho nhau và quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong bất cứ quốc gia nào, các
đoàn thể, hội đều đóng một vai trò quan trọng, là cơ chế rất quan trọng đảm bảo sự
phát triển của xã hội và tạo ra nguồn vốn xã hội.
Ở nhiều quốc gia, các đoàn thể, hội đã và đang trở thành tác nhân tham gia
quản lý xã hội, với các vai trò nổi bật như cung cấp dịch vụ; tham gia hoạch định
các luật lệ của nhà nước; điều hòa mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội; tự quản,
tự giám sát trong tổ chức; bảo vệ quyền lợi của các thành viên; và xây dựng lòng
tin.
Tuy nhiên, các đoàn thể, hội cũng có những hạn chế nhất định làm giảm vai trò
của chúng trong đời sống xã hội. Do các tổ chức xã hội thường được tổ chức theo
những tiêu chí, tôn chỉ của một ngành nghề, tôn giáo, hoặc khu vực dân cư nhất
định v.v., nên mối quan tâm lớn nhất của họ phần lớn thường dành cho bản thân tổ

7


chức của mình, chứ không cho toàn thể xã hội, ý thức trách nhiệm của các tổ chức
này đôi khi cũng có giới hạn.
5. Kinh nghiệm cụ thể của một số nước
5.1. Pháp
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đặc thù của mình, Pháp đã đi theo con đường
phát triển kinh tế- xã hội khá riêng biệt, trong đó nhà nước đóng một vai trò quan

trọng. Mặc dù phương thức điều tiết và các chính sách kinh tế của nhà nước Pháp
có sự thay đổi theo từng giai đoạn, song sự tác động của nhà nước Pháp vào phát
triển kinh tế luôn bao gồm những đặc điểm khá ổn định như: can thiệp tích cực vào
phát triển kinh tế với tư cách là hình thức tổ chức cao cấp; quan tâm tới vấn đề
đảm bảo công bằng xã hội; và đề cao tính thương lượng, hòa hợp giữa các tác nhân
trong nền kinh tế, với sự trọng tài và dàn xếp của nhà nước. Cùng với việc khai
thác những thế mạnh của thị trường, nhà nước Pháp cố gắng tạo một không gian
rộng rãi cho hoạt động của các đoàn thể, hội, song kết quả của việc này còn chưa
đủ. Thực tế của Pháp cho thấy vai trò không thể thay thế được của các tác nhân xã
hội. Việc chú trọng đúng mức đến các thiết chế này trong hoạch định các chính
sách kinh tế- xã hội sẽ phát huy được tác động tích cực của chúng đối với qúa trình
phát triển nói chung.
5.2. Trung Quốc
Những nét nổi bật nhất trong quá trình chuyển đổi của Trung Quốc là kinh tế tư
nhân trở thành một khu vực rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân; chức năng
cơ bản của thị trường trong phân bổ nguồn lực đã được tăng cường mạnh mẽ; cải
cách doanh nghiệp nhà nước được đẩy nhanh; khung khổ kiểm soát vĩ mô của nền
kinh tế thị trường XHCN được định hình, trong đó phương pháp kiểm soát của
chính phủ đối với nền kinh tế đã chuyển sang gián tiếp với sự hỗ trợ của luật pháp;
và hệ thống an sinh xã hội được bước đầu xây dựng. Tuy nhiên, hiện nay trong quá
trình cải cách, Trung quốc đang phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn, như khu
vực DNNN làm ăn thua lỗ, hệ thống tài chính- ngân hàng yếu kém với sự can thiệp
còn sâu của nhà nước, các thị trường mới hình thành, như thị trường tài chính, còn
non nớt với sự tham gia còn yếu của khu vực tư nhân.
Ở Trung Quốc, trong quá trình hiện đại hóa, các đoàn thể, hội phát triển rất
nhanh cả về quy mô lẫn chiều sâu và đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh
tế- xã hội. Trong hơn 20 năm cải cách mở cửa, theo phương châm “Xã hội lớn,
Chính phủ nhỏ”, các tổ chức xã hội đã phát huy được vai trò của mình trong các
lĩnh vực như giáo dục thanh thiếu niên, giúp đỡ người nghèo, bảo vệ phụ nữ và trẻ
em, bảo vệ môi trường, giải quyết việc làm cho người bị giảm biên chế, v.v. Việc

tăng cường vai trò của các tổ chức này, ở một mức độ nhất định, đã làm giảm nhẹ
gánh nặng quản lý của chính phủ, giải quyết những vấn đề mà chính phủ không thể
giải quyết hoặc giải quyết không có hiệu quả. Song, do sự hạn chế của nhiều nhân
tố, kể cả tố chất và uy tín của các tổ chức đó, nên vai trò của chúng chưa được phát
huy đầy đủ.

8


5.3. Malaysia
Chính phủ Malaysia luôn xác định vai trò của mình là phục vụ khu vực kinh
doanh và có những chính sách kinh tế thích hợp để phát huy những thế mạnh của
thị trường. Khu vực tư nhân được tự do hoạt động kinh doanh, được hỗ trợ bởi hệ
thống thể chế, kết cấu hạ tầng, và các chính sách hợp lý. Song song với những cải
cách trong chính sách kinh tế, nhiều đổi mới trong hệ thống hành chính Malaysia
đã được thực hiện. Malaysia đã xây dựng và đi vào thực hiện chiến lược “hiện đại
hoá” hoạt động của các cơ quan nhà nước, theo 3 hướng chính là: i- cải cách tác
phong làm việc của đội ngũ viên chức nhà nước; ii- hoàn thiện quy trình, thủ tục
hành chính công theo hướng hiện đại hoá, nhanh chóng, hiệu quả; iii- kiện toàn
năng lực tổ chức của bộ máy. Nhận thức rõ tầm quan trọng của các đoàn thể, hội,
nhà nước Malaysia đã tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức này có thể hoạt động.
Nhiều bằng chứng cho thấy các đoàn thể, hội ở Malaysia đóng một vai trò có ý
nghĩa ở tất cả chiều cạnh của đời sống kinh tế - xã hội.

9


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA VỀ QUAN HỆ GIỮA NHÀ
NƯỚC VỚI THỊ TRƯỜNG, VÀ VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN, CÁC

ĐOÀN THỂ VÀ CÁC HỘI
1. Đặc điểm hình thành và vận hành của Nhà nước, của nền kinh tế thị
trường, của các đoàn thể và các hội ở nước ta.
1.1 Nhà nước
Có một số đặc điểm nổi bật trong sự vận hành của Nhà nước và nền hành chính
nhà nước tác động lớn tới vai trò của Nhà nước trên thị trường ở nước ta:
- Theo Hiến pháp hiện hành, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống chính trị ở nước ta nhằm
thực hiện dân chủ theo phương thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ.
- Do đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò kinh tế của nhà nước ta rộng và phức
tạp. Nhà nước không chỉ có vai trò quản lý và định hướng thị trường, mà còn có
vai trò tạo dựng thị trường.
- Còn có khoảng cách giữa pháp chế quốc gia và hành chính công quyền. Vấn
đề nâng cao lập pháp, giảm bớt lập quy, tức là quá trình chuyển từ điều chỉnh các
quan hệ xã hội bằng các văn bản dưới luật, sang điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ
yếu bằng đạo luật, là một định hướng lâu dài và thiết yếu.
Quyền lực nhà nước quá rộng, mà nhiều chỗ chưa đủ chiều sâu cần thiết như
hiện nay chưa phát huy tối đa sức mạnh của thị trường, làm giảm khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp trên trường quốc tế.
1.2. Thị trường
1.2.1. Sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có hai đặc điểm cơ
bản: Một là, kinh tế thị trường mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nó do Đảng
Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Và hai là, đây là nền kinh tế thị trường
còn sơ khai, ở trình độ thấp, các loại thị trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ.
a. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế
vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường, được thực hiện thông
qua thị trường dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước Việt Nam.
Hiện nay, những đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta vẫn đang được tiếp tục phân tích, làm rõ.

10


b. Nền kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, ở trình độ thấp, các loại thị
trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ.
- Các thị trường bộ phận ở nước ta còn rất kém phát triển và thiếu đồng bộ.
- Cơ chế thị trường, và các tín hiệu thị trường bị bóp méo nặng nề, dẫn tới việc
phân bổ nguồn lực và phân phối kết quả kinh doanh chưa đạt hiệu quả cao.
- Môi trường cạnh tranh chưa lành mạnh và khu vực kinh tế ngầm chiếm tỷ lệ
quá cao.
- Hệ thống thông tin thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu.
1.3. Mặt trận, đoàn thể và các hội
1.3.1. Sự hình thành
Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, các hội quần chúng ra đời rất
sớm và phát triển bền vững qua các thời kỳ lịch sử. Thời phong kiến, các hội ra đời
và hoạt động từ đơn giản đến phức tạp.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra trang sử mới cho dân tộc
Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, năm 1946, đã long trọng công nhận
quyền tự do lập hội của người dân. Các văn bản luật pháp sau đó tiếp tục thể chế
hoá của quyền tự do lập hội của người dân.
Hội quần chúng ở giai đoạn này phát triển cả về số lượng, về nội dung và
phương thức hoạt động. Nhiều tổ chức hội quần chúng trở thành các đoàn thể
chính trị. Đây là một đặc điểm riêng của sự phát triển các hội quần chúng ở Việt
Nam.

Từ sau Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, các hội quần chúng phát triển khá
toàn diện, phong phú. Theo số liệu của Vụ tổ chức phi chính phủ, Bộ Nội vụ, đến
thời điểm tháng 12/2004, Chính phủ Việt Nam đã cho phép thành lập hơn 300 hội
có phạm vi hoạt động toàn quốc. Chính quyền các tỉnh, thành phố cho phép thành
lập 2150 hội có phạm vi hoạt động ở cấp tỉnh và hàng vạn hội có phạm vi hoạt
động tại quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã...
1.3.2. Đặc điểm hoạt động của các hội và đoàn thể ở nước ta hiện nay
- Các đoàn thể và hội đã và đang tập hợp lực lượng, từng bước tạo ra tầm hoạt
động và ảnh hưởng trên diện rộng trong hầu hết mọi lĩnh vực đời sống – xã hội của
đất nước ta. Theo kết quả điều tra 2 , nguời Việt Nam đang tham gia mạnh vào các
hoạt động của các hội giáo dục, văn hóa, hiệp hội nghề nghiệp, các liên đoàn lao
động và các công tác thanh niên. Tính trung bình, một người Việt Nam tham gia
2,33 tổ chức, khá cao so với Trung Quốc (0,91), Nhật Bản (1,41), Philippin (1,93).
Trong tương lai, các hội và đoàn thể ở nước ta còn tiếp tục phát triển mạnh.
- Chính trị hóa và hành chính hóa các đoàn thể và tổ chức hội đang là tình
trạng khá phổ biến ở nước ta. Đây là nét đặc thù của hoạt động hội và đoàn thể ở
2

Điều tra quốc gia về ý kiến công chúng trong chương trình "World Values Survey", (bảng câu hỏi V39-V53-A),
kết quả dẫn theo Dalton (2003) "Civil society and Social Capital in Vietnam".

11


Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ chính trị và hành chính hóa là khác nhau đối với các
loại hội và đoàn thể khác nhau.
- Trong những năm gần đây, các hội quần chúng phát triển nhanh về số lượng,
đa dạng về hình thức, tuy nhiên còn rất nhiều lúng túng về tổ chức và hoạt động.
2. Thực trạng quan hệ giữa nhà nước với thị trường và vai trò của các
đoàn thể và các hội ở nước ta hiện nay

2.1. Quan hệ giữa Nhà nước với thị trường
Kinh tế chỉ thịnh vượng và thị trường chỉ phát triển khi có một nhà nước mạnh
và hoạt động đúng lúc, đúng chỗ. Thị trường và nhà nước không hề đối lập mà bổ
sung lẫn nhau.
2.1.1. Những việc đã làm được
a. Về xây dựng khung pháp lý kinh tế và các chính sách kinh tế:
Trong một khoảng thời gian không dài, một khung pháp luật mới trên hầu hết
các lĩnh vực của đời sống kinh tế đã được xây dựng, đang được hoàn chỉnh và dần
thay thế hoàn toàn khung pháp luật của nền nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
trước đây. Pháp luật trở thành công cụ quản lý kinh tế chủ yếu của nhà nước.
Nguyên tắc pháp quyền ngày càng được khẳng định và phát huy hiệu quả trên thực
tế. Đây là một nguyên nhân chủ yếu làm nên thắng lợi của cải cách kinh tế ở nước
ta thời gian qua. Nội dung pháp luật và chính sách kinh tế đã phù hợp hơn với cơ
chế thị trường, đáp ứng được nhiều đòi hỏi từ công cuộc cải cách kinh tế. Công tác
soạn thảo, thẩm định và ban hành các văn bản pháp luật đã đi vào nền nếp, theo
một quy trình thống nhất do luật định.
Chính sách tổng thể về kinh tế - xã hội của Nhà nước là phát triển nền kinh tế
thị trường với cơ cấu đa sở hữu, phong phú về loại hình tổ chức kinh doanh, giải
phóng mọi tiềm năng kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản
xuất; chủ động đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; lấy hiệu quả kinh - xã hội làm
tiêu chuẩn quan trọng nhất, xuyên suốt cả quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Bước đầu đã đảm bảo tự do kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật trên cơ sở đa
dạng hoá sở hữu, nhất là công nhận sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất (trừ đất
đai). Quan hệ cung-cầu trên thị trường đã dần trở thành tín hiệu quan trọng cho các
quyết định đầu tư của các nhà kinh doanh.
b.Về bộ máy và cơ chế thực thi luật pháp và chính sách kinh tế
Việc đảm bảo hiệu lực thực thi của luật pháp và chính sách ở nước ta đã có
những tiến bộ ban đầu. Tổ chức bộ máy của Nhà nước đã được cải cách theo
hướng tinh giản hơn; việc phân cấp giữa các yếu tố, phân hệ trong bộ máy quản lý
Nhà nước cũng từng bước được cải thiện, tạo điều kiện cho mỗi cấp, mỗi tổ chức

trong hệ thống đề cao quyền hạn, trách nhiệm, đồng thời phát huy tính năng động,
sáng tạo trong công việc. Các cơ quan nhà nước đang trở nên gần dân hơn, cán bộ,
công chức bước đầu nâng cao trách nhiệm trước dân trong hoạt động của mình. Tổ
chức bộ máy của Chính phủ đã được sắp xếp gọn hơn, giảm bớt số Bộ, cơ quan
ngang Bộ, đồng thời giảm mạnh số đầu mối thuộc Chính phủ. Ở địa phương, các

12


cơ quan chuyên của Ủy ban nhân dân các cấp đã giảm số đầu mối ở cấp tỉnh từ
trên 30 xuống 20 cơ quan, ở cấp huyện từ trên 20 phòng, ban xuống còn 10 phòng,
ban.
c. Về kinh tế nhà nước
Nhìn chung, công cuộc cải cách kinh tế nhà nước ở nước ta diễn ra chậm chạp
và trầy trật, ít có thành tích nổi trội. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan,
công cuộc cải cách kinh tế nhà nước ở nước ta cũng đã đạt được một số kết quả
bước đầu như : doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả; cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước đã từng bước đổi mới phù hợp với cơ
chế thị trường; Nhà nước giảm mạnh sự tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất
kinh doanh ; đầu tư của Nhà nước được định hướng tập trung hơn vào phát triển
kết cấu hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công.
2.1.2. Những việc chưa làm được
Bên cạnh những tiến bộ quan trọng như đã trình bày ở trên, nhìn chung quan hệ
giữa nhà nước và thị trường ở nước ta vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập.
a. Nhà nước Việt Nam hiện nay chưa phải là một nhà nước mạnh và có hiệu
quả trong mối quan hệ tương tác với thị trường. Sự can thiệp của nhà nước vào thị
trường mang nặng tính ồn ào bao biện, quá rộng và quá nông. Các quan hệ bên
trong thị trường và giữa thị trường với nhà nước còn mất trật tự, thiếu pháp quyền
và nhiều tham nhũng. Tiềm lực và mong muốn đóng góp của người dân trong sự
nghiệp phát triển kinh tế vẫn chưa được giải phóng triệt để. Sự can thiệp hành

chính trực tiếp và tràn lan của nhà nước vào hoạt động kinh doanh không phải là
biểu hiện của một "nhà nước mạnh", mà ngược lại nó thể hiện sự bất lực của nhà
nước trong mối quan hệ đa diện với thị trường.
b. Khung pháp lý kinh tế chưa đẩy đủ và toàn diện, chưa đáp ứng được yêu
cầu quản lý nền kinh tế bằng pháp luật.
- Khung pháp lý chưa đầy đủ và toàn diện. Đây là yếu kém xuất hiện ở mọi
nền luật pháp trên thế giới. Tuy nhiên, tại một nước có nền kinh tế chuyển đổi như
nước ta, vấn đề này có mức độ trầm trọng lớn hơn.
- Chồng chéo và trùng lặp. Việc tồn tại nhiều văn bản pháp luật do các cơ quan
khác nhau ban hành tại các thời điểm khác nhau dẫn tới tình trạng chồng chéo,
mâu thuẫn về nội dung giữa các văn bản quy phạm pháp luật.
- Chưa có tính nhất quán. Hiện nay, chưa có cơ chế rõ ràng để soát xét tính
hợp hiến, hợp pháp và tính hiệu quả của các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật.
Trách nhiệm giải trình của các cơ quan ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật
và pháp lệnh kinh tế là rất thấp.
- Tính minh bạch thấp. Tính minh bạch của hệ thống pháp luật bao gồm những
yếu tố như sự công khai, sự chính xác, sự ổn định và khả năng tiên liệu được của
các văn bản pháp luật, và mục đích rõ ràng của cơ quan ban hành pháp luật. Tất cả
các yếu tố đó đều còn nhiều chỗ chưa minh bạch.

13


c. Các di sản của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp vẫn tồn tại dai
dẳng
- Nhà nước có nhiều biện pháp can thiệp hành chính trực tiếp và vô lý vào hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Quy hoạch và kế hoạch hóa. Tình trạng quy hoạch chất lượng kém, thiếu phối
hợp các mặt, nhiều chồng chéo, nhiều mâu thuẫn và hay thay đổi, lại bị quá lạm
dụng đang tạo ra các công cụ bảo hộ và làm hạn chế sự cạnh tranh, không khuyến

khích tính sáng tạo; không tạo ra sức ép buộc các đơn vị kinh doanh phải sự dụng
có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao sức cạnh tranh.
- Tính bao cấp trong nền kinh tế còn lớn. Sự phát triển của kinh tế thị trường
đã có tác dụng giảm thiểu đáng kể tình trạng bao cấp qua ngân sách Nhà nước,
song trong không ít chính sách kinh tế của nhà nước lại thể hiện rõ nét các hình
thức bao cấp khác như tín dụng ưu đãi tràn lan, bao cấp về thị trường, khoanh nợ,
giãn nợ, xoá nợ, cấp đất… Tâm lý dựa dẫm, ỷ lại tiếp tục tồn tại rộng khắp trong
nhiều khu vực của thị trường, dẫn tới sự trì trệ, lười suy nghĩ, thiếu sáng tạo.
- Độc quyền còn phổ biến ở nhiều ngành. Độc quyền còn phổ biến ở nhiều
ngành quan trọng của nước ta như dịch vụ bưu chính, dịch vụ mạng viễn thông,
kinh doanh thiết bị sóng, dịch vụ vận tải hàng không, phát hành xuất bản phẩm,
kinh doanh nước sạch và điện lực, xây dựng và khai thác bến cảng, bến xe khách
.v.v
d. Kinh tế nhà nước còn yếu kém nhiều mặt và gây ra nhiều sự bóp méo thị
trường.
Tài sản và vốn của nhà nước, đặc biệt là đất đai và vốn đầu tư, bị sử dụng lãng
phí và bị đục khoét nghiêm trọng. Cơ chế chủ quản từ lâu đã ăn sâu bám rễ, mặc
dù có những nỗ lực nhằm xoá bỏ nó nhưng hiện vẫn còn rất nặng nề.
Các DNNN, mặc dù kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại được hưởng nhiều ưu
đãi (như được vay không cần thế chấp tài sản, được vay lãi suất thấp, được Nhà
nước bảo lãnh tín dụng). Nguyên nhân chủ yếu là các tổ chức tín dụng lớn nhất của
Việt Nam đều là của Nhà nước và DNNN lại có một nhà bảo lãnh có thế lực lớn, là
Nhà nước. Mặc dù nhận được khối lượng vốn đầu tư lớn nhưng nhìn chung hiệu
quả hoạt động của khu vực DNNN là rất yếu kém. Theo số liệu của Bộ Tài chính,
năm 2003, trong số 4.800 DNNN có tới 13,5% doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ,
số doanh nghiệp có lãi thì phần lớn tỷ lệ lãi thấp hơn lãi suất ngân hàng.
Xét rộng hơn về cơ cấu vốn đầu tư của toàn xã hội, trong những năm gần đây
vốn đầu tư của Nhà nước luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh. Nhưng vấn
đề đáng quan tâm là hiệu quả đầu tư của khu vực nhà nước không cao, đóng góp
của vốn đầu tư nhà nước cho tăng trưởng kinh tế ở mức độ thấp và có chiều hướng

giảm đi. Thí dụ, năm 2003, vốn đầu tư nhà nước chiếm tới gần 60% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội, nhưng chỉ đóng góp khoảng gần 40% GDP.

14


2.2. Vai trò của Mặt trận, các đoàn thể và các hội
Các đoàn thể, hiệp hội có vai trò rất quan trọng, nhưng chưa được phát huy
đúng và đầy đủ.
2.2.1. Những việc đã làm được
a. Các hội và đòan thể đang phát triển mạnh, được Đảng và Nhà nước công
nhận và khuyến khích phát triển
Các hội đã tập hợp đông đảo hội viên tham gia vào các tổ chức trên hầu hết
mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, ngành nghề, nhân đạo, từ thiện, sở thích, giới... mặc
dù ở mỗi hội, mỗi lĩnh vực khả năng tập hợp rất khác nhau.
Tổ chức và hoạt động của các tổ chức hội rất đa dạng và phong phú, đang có
xu hướng phát triển mạnh, nhất là các hội ở trung ương và các địa bàn có trình độ
phát triển kinh tế, xã hội cao như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng...
Nhiều hội có hệ thống từ trung ương đến cơ sở, nhiều hội có tổ chức từ trung ương
tới cấp tỉnh, nhiều hội chỉ có ở cấp trung ương.
b. Các hiệp hội kinh tế có vai trò ngày càng quan trọng và hữu ích
Ở nước ta, cùng với sự phát triển của của nền kinh tế thị trường, nhu cầu lập
hội trong lĩnh vực kinh tế ngày càng tăng. Trong tổng số 109 hội có phạm vi hoạt
động toàn quốc được thành lập trong 6 năm gần đây (1999-2004) có 26 hiệp hội
thuộc lĩnh vực kinh tế, 11 hội thuộc lĩnh vực y tế, 32 hội thuộc lĩnh vực khoa học
kỹ thuật 3 .
Mặc dù được diễn đạt khác nhau về tên gọi, về điều lệ hội... nhưng tất các hiệp
hội doanh nghiệp đều là các tổ chức phi chính phủ, hoạt động tự nguyện và phi vụ
lợi, tự trang trải kinh phí hoạt động.
Các hội kinh tế tuy đa số mới được thành lập, song trên một số mặt hoạt động

đã có tác dụng cụ thể, thiết thực, như xây dựng thương hiệu, bảo vệ bản quyền tác
giả, đấu tranh bảo vệ quyền lợi của hội viên (cá Basa, tôm, chất độc màu da
cam...). Nhiều hội kinh tế đã phát huy tác dụng rõ ràng trong việc hợp tác, phát
triển kinh doanh, tìm kiếm thị trường, bảo vệ quyền lợi của hội viên, như việc xuất
khẩu thủy sản, xuất khẩu gạo, hạt điều, hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh ở
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đến nay đã có 120 hội tham gia làm thành viên các
tổ chức hội quốc tế và khu vực, mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân. Qua thực
tiễn hoạt động, vai trò của các hội ngày càng rõ nét và thật sự là tổ chức không thể
thiếu trong đời sống xã hội.
c. Đóng góp của các đoàn thể và hội trong việc xây dựng, thực hiện và giám
sát thực hiện luật pháp, chính sách kinh tế.
Nhiều hiệp hội kinh tế đã đại diện cho các doanh nghiệp của mình phản ánh
với Nhà nước về các vấn đề có liên quan đến các chính sách, luật pháp, chiến lược
3

Dẫn từ báo cáo "Các tổ chức xã hội, xã hội dân sự trong nền kinh tế thị trường định hướng XCHN ở Việt Nam"
của TS. Nguyễn Minh Phương, trình bày tại Hội thảo "Phát triển thể chế kinh tế thị trường XHCN ở Việt Nam",
CIEM, ngày 29/4/2005.

15


phát triển... tạo nên một kênh thông tin, một luồng ý kiến tư vấn cho Đảng và Nhà
nước, cho địa phương đưa ra được những quyết sách sát thực hơn, lợi ích hơn.
Trong lĩnh vực thực thi pháp luật, các đoàn thể và các hiệp hội đã và đang trở
thành các chủ thể tích cực trong việc tổ chức tìm kiếm, thảo luận, xác định các
biện pháp tối ưu hoàn thành các nhiệm vụ quản lý kinh tế, xã hội và thi hành pháp
luật; phát động, tuyên truyền đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, dưới
các hình thức khác nhau nhằm thiết lập hoặc thắt chặt trật tự, kỷ cương, xã hội.
d. Hoạt động của các hiệp hội trợ giúp các doanh nghiệp thành viên trên nhiều

lĩnh vực
Hoạt động của các hội đã có những hình thức và nội dung mới phù hợp với lợi
ích của hội viên trong cơ chế thị trường, nâng cao trình độ nghề nghiệp, nâng cao
năng lực cạnh tranh, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, kể
cả quyền lợi của hội viên khi có quan hệ kinh tế với nước ngoài; đóng góp ý kiến
với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến hội viên; cùng Nhà nước chăm lo những vấn đề xã hội, trước hết là trong
lĩnh vực nhân đạo, từ thiện...
2.2.2. Những việc chưa làm được
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, thực tiễn họat động của các hội ở nước ta còn
nhiều điểm bất cập.
a. Hoạt động của nhiều hội chưa đổi mới phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Điều này xuất phát từ quan niệm về hội chưa đầy đủ và tính tự nguyện, tự trang
trải, tự quản và tự chịu trách nhiệm chưa cao. Có nhiều hội được Nhà nước trang
cấp đầy đủ, nhưng chất lượng và hiêu quả hoạt động và sự đóng góp cho xã hội
thấp. Có một tình trạng khá phổ biến là các hội đều muốn được Nhà nước coi là
hội chính trị - xã hội, hoặc hội chính trị - xã hội – nghề nghiệp để có sự bảo trợ của
Nhà nước.
Một số hội chưa phát huy đầy đủ chức năng của mình, chậm đổi mới phương
thức hoạt động, còn nặng về hình thức, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện
vọng và lợi ích của đòan viên.
b. Với sức mạnh kinh tế, tài chính và các mối quan hệ thân thiện với giới chức
quản lý, các hội kinh tế có tiềm năng vận động các chính sách có lợi cho mình.
Trong nhiều trường hợp, các tổ chức này chỉ chăm lo đến lợi ích cục bộ mà không
quan tâm đến lợi ích toàn xã hội. Trong một số trường hợp, tính tự chủ, tự nguyện
và tự quản của các hội có nguy cơ tạo ra sự xung đột về lợi ích giữa các cộng đồng
xã hội, cũng như tạo ra “lệ” riêng cản trở việc thực thi chính sách và pháp luật của
Nhà nước, hạn chế sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, ngăn ngừa, trừng trị hối lộ, minh
bạch hóa quy trình vận động hành lang của các hiệp hội kinh tế là một nhu cầu hợp
lý.

c. Nhiều hội và hiệp hội vẫn thuộc Nhà nước và được điều hành bởi các công
chức. Do vậy, các công ty trông cậy vào hội chủ yếu để tiếp cận với chính phủ, chứ
không phải để tiếp cận với thế giới.

16


d. Công tác quản lý nhà nước đối với các hội, tổ chức phi chính phủ còn thiếu
thể chế phù hợp. Các cơ quan nhà nước còn rất lúng túng, hoặc buông lỏng quản
lý, hoặc bao biện làm thay, can thiệp quá mức vào công việc tổ chức nội bộ của
các hội, chưa tôn trọng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của hội. Các cơ quan nhà
nước chậm ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt
động và quản lý hội cho phù hợp với tình hình mới.
3. Một số nhận xét khái quát về nguyên nhân yếu kém và các vấn đề cần
giải quyết trong quan hệ Nhà nước - thị trường - hội, đoàn thể ở Việt Nam
3.1. Nguyên nhân chủ yếu của các yếu kém và bất cập
Dưới đây tập trung vào các nguyên nhân về nhận thức và tư duy, bởi vì tư duy
là khởi đầu của hành động. Thực tế quá trình cải cách kinh tế ở nước ta cho thấy
những thay đổi về tư duy và quan niệm chính trị có ý nghĩa mở đường dẫn tới
những biện pháp cải cách cụ thể.
- Thứ nhất, công tác lý luận, tư tưởng, đổi mới tư duy và quan niệm chính trị
chưa theo kịp thực tiễn khách quan sôi động của công cuộc đổi mới. Điều này đã
được nêu lên trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của BCH Trung ương Đảng khóa
IX: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu cách mạng”, “còn
không ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa
đủ sức thuyết phục”.
- Thứ hai, những di sản của thời kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cả về tư
duy và tổ chức vẫn còn khá sâu đậm và không dễ phai nhòa trong mối quan hệ
giữa nhà nước và thị trường ở nước ta.
+ Chưa thực sự tin tưởng vào thị trường và khả năng của thị trường phân bổ

hiệu quả các nguồn lực sản xuất.
+ Chưa thực sự tin tưởng vào thị trường, mà xét cho cùng thị trường được cấu
thành bởi người dân, do vậy đó cũng chính là một biểu hiện của sự chưa tin tưởng
đủ mức vào nhân dân.
- Thứ ba, về phía người dân thì phương thức sản xuất, tư duy, lối sống, và thói
quen vẫn mang nặng những ảnh hưởng của tâm lý thụ động, sản xuất nhỏ, manh
mún và tiểu nông.
+ Lối kinh doanh tiểu nông, sản xuất nhỏ, “dĩ nông vi bản” tạo ra tâm lý an
phận, thu động, trông chờ, ít sáng tạo (Lê Hữu Xanh –2001).
+ Tâm lý không tôn trọng luật pháp nhà nước của người dân xuất pháp từ
“phép vua thua lệ làng”, hay “dĩ hòa vi quý”, “một bồ cái lý không bằng một tý cái
tình”.
+ Bên cạnh coi nhẹ và đánh giá thấp việc chấp hành luật pháp, thì theo Luật sư
Nguyễn Hữu Liêm và Giáo sư Phạm Đỗ Chí, “con người kinh tế” Việt Nam có
một số điểm yếu khác như: (i) chưa có một nền tảng đạo đức kinh tế cần thiết; (ii)
hay chao đảo trong lựa chọn thang giá trị, hành vi kinh tế của người Việt chưa đặt

17


nền tảng trên nguyên tắc và lý luận; (iii) xem nhẹ giá trị và tinh thần của chữ tín;
thiếu tính cộng đồng và thiếu sự tin cậy lẫn nhau trong cộng đồng 4 .
- Thứ tư, cả nhà nước, doanh nghiệp và người dân đều chưa quen thuộc, và
nhiều lúc tỏ ra e ngại, vai trò của các tổ chức hội của doanh nghiệp và người dân
trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong việc giám sát các hoạt động của nhà
nước và thị trường.
3.2. Những vấn đề chính cần giải quyết
Nhận xét khái quát qua những phân tích ở các phần trên của đề tài, có thể đưa
ra một số vấn đề chung cần được xem xét giải quyết trong trong mối quan hệ Nhà
nước - thị trường - đoàn thể và hội ở nước ta như sau:

- Thừa nhận và giải quyết tính “không thể đầy đủ” của luật pháp và Nhà nước
trong quản lý nền kinh tế thị trường; phát huy vai trò của thị trường, các đoàn thể
và các hội trong quản lý kinh tế. Không chỉ riêng Nhà nước, mà toàn bộ các tác
nhân khác tham gia thị trường, trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp và tổ chức xã
hội nghề nghiệp của người dân, cũng như các phong tục, tập quán, tôn giáo và các
hoạt động xã hội khác, đều có vai trò nhất định trong việc quản lý, theo dõi và
giám sát các biến động xảy ra trong nền kinh tế. Trong khi đó, qua các phân tích ở
các phần trên, có thể thấy vai trò của thị trường và người dân trong việc quản lý
nền kinh tế thị trường ở nước ta chưa được đề cao đúng mức, cũng như còn có sự
"lấn sân", "bao sân" kém hiệu quả của Nhà nước. Do vậy, một vấn đề quan trọng
cần giải quyết trong thời gian tới là tăng cường sự tham gia có hiệu lực và đúng
đắn của thị trường và người dân vào việc quản lý và giám sát các giao dịch, các
biến động của thị trường, trong đó bao gồm cả việc giám sát các hoạt động của
Nhà nước trong nền kinh tế.
- Tăng cường sự tin cậy lẫn nhau giữa các tác nhân trong nền kinh tế thị
trường. Sự tin cẩn là một yếu tố quyết định trong các giao dịch trên thị trường, bổ
sung cho những lỗ hổng của hệ thống pháp luật. Vai trò kinh tế của tin cẩn là giảm
phí giao dịch, qua đó làm giảm chi phí, tăng hiệu quả của các hoạt động thị trường
và sức cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế và các doanh nghiệp trong nền kinh tế
đó.
Ở nền kinh tế thị trường của nước ta, như các phần trên của đề tài đã phân tích,
có nhiều hiện tượng cho thấy có sự thiếu lòng tin giữa các tác nhân trong nền kinh
tế, như giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau,
giữa người dân và doanh nghiệp, giữa người dân và công chức nhà nước, ... Nếu
gian dối tiếp tục trở thành “chuẩn mực đối xử” thì thông tin thị trường sẽ bị
“nhiễu”, dẫn tới thị trường hoạt động rối loạn. Các chủ trương, chính sách của Nhà
nước dù tốt đẹp đến đâu cũng sẽ không hữu hiệu vì không được tuân theo, kỷ
cương quốc gia và xã hội sẽ bị mục nát, tan rã. Vì vậy, tăng cường tính "tin cậy lẫn
nhau" là một vấn đề cần giải quyết trong mối quan hệ Nhà nước - thị trường - hội,
đoàn thể ở nước ta.

4

Thời báo Kinh tế Sài gòn, Xuân Nhâm Ngọ 2002, dẫn theo Nguyễn Đình Cung (2002).

18


- Phát huy hơn nữa vai trò của cá nhân và cấp cơ sở trong nền kinh tế thị
trường. Thành công của sự nghiệp đổi mới thể chế kinh tế ở nước ta trong những
năm qua trước hết bắt đầu từ sự đột phá năng động của cá nhân, tổ chức, và địa
phương. Do vậy, cần tiếp tục phát huy quyền tự do và sức sáng tạo của các cá
nhân để mỗi cá nhân trở thành một nhân tố năng động và tích cực của công cuộc
đổi mới, khởi đầu bằng nỗ lực đổi mới tư duy, trên cơ sở đó, đóng góp những sáng
kiến và sinh lực mới cho sự nghiệp phát triển chung. Tăng cường tính "dân chủ"
của nền kinh tế thị trường, phát huy hơn nữa vai trò của cá nhân và các tổ chức đại
diện của người dân, là một vấn đề cơ bản cần được giải quyết thoả đáng.
- Quản lý nền kinh tế thị trường theo xu hướng hiện đại là sự phối hợp giữa
Nhà nước, thị trường và nhân dân. Vấn đề cần giải quyết là Nhà nước làm gì, thị
trường làm gì và nhân dân làm gì và như thế nào? Những câu hỏi trên đã, đang và
sẽ tiếp tục được đặt ra và trả lời cùng với sự tồn tại và biến chuyển của nền kinh tế
thị trường ở trong từng bối cảnh cụ thể và từng thời gian cụ thể. Không có một câu
trả lời đơn nhất luôn đúng đắn.
Ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt trong việc phát huy hiệu
quả mối quan hệ Nhà nước - thị trường - các đoàn thể và các hội là xây dựng một
nền kinh tế thị trường định hướng XCHN hiệu quả, cạnh tranh lành mạnh và bình
đẳng, tôn trọng quyền sở hữu cá nhân và lợi ích cá nhân, qua đó nâng cao sự thịnh
vượng của mỗi cá nhân và toàn xã hội.

19



CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA MỐI QUAN HỆ
NHÀ NƯỚC VỚI THỊ TRƯỜNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC ĐOÀN
THỂ VÀ CÁC HỘI
1. Quan điểm nâng cao hiệu quả của mối quan hệ nhà nước với thị trường,
phát huy vai trò của các đoàn thể và các hội
1.1. Coi tiếp tục đổi mới tư duy là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
Trong khi những di sản tư duy của cơ chế kinh tế cũ chưa phai mờ, công tác
nghiên cứu lý luận về mô hình kinh tế mới ở nước ta hiện nay còn “chưa theo kịp
sự phát triển và yêu cầu cách mạng 5 ”. Rất nhiều vấn đề lý luận đặt ra từ thực tiễn
phát triển của sự nghiệp đổi mới chưa được giải đáp một cách thuyết phục. Thậm
chí có vấn đề còn chưa được nghiên cứu công khai, nghiêm túc.
Do việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là một công việc chưa có tiền lệ trong lịch sử, sự yếu kém về công tác lý luận
và sự chưa thông suốt về tư duy tất yếu là một rào cản nghiêm trọng đối với công
cuộc đổi mới nói chung, và việc hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường nói riêng. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, tạo tiền đề cho sự thay đổi tư duy mạnh mẽ hơn nữa, đang là
một nhiệm vụ quan trọng cấp bách.
1.2. Kết hợp nhuần nhuyễn vai trò của nhà nước, thị trường và người dân
trong việc quản lý thị trường và hướng tới các mục tiêu phát triển.
Nhà nước, thị trường và các tổ chức của nhân dân đều có những điểm mạnh và
điểm yếu riêng, từ đó đều có vai trò riêng trong việc quản lý thị trường và hướng
tới các mục tiêu phát triển. Để nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường, phát huy vai trò của các đoàn thể, các hội, thì cả ba lực lượng này đều phải
có sự đổi mới theo hướng bổ trợ cho nhau. Đối với nhà nước, một khi đã xác định
đúng những vấn đề căn bản như nhà nước nên làm gì, có thể làm gì, làm đến đâu,
và làm như thế nào trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội, thì phải thể chế hoá những
chính sách đó. Về thị trường, cần phát triển đầy đủ các loại hình thị trường, cũng

như hoàn thiện các cơ chế để thị trường vận hành có hiệu quả, phát huy được
những thế mạnh và giảm thiểu những tác động tiêu cực. Đối với các đoàn thể, các
hội, nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức
này, và bản thân các đoàn thể, các hội cũng phải có ý thức đặt lợi ích chung lên
trên lợi ích cục bộ của mình, chủ động chia sẻ những trách nhiệm xã hội đối với
nhà nước và thị trường.

5

Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành TW khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, tr.129.

20


1.3. Coi phát triển cá nhân và nâng cao tự do cá nhân trong mối quan hệ với
cộng đồng là một động lực và mục tiêu quan trọng của phát triển.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn
thuần mang ý nghĩa kinh tế và thương mại, mà còn có ý nghĩa là một lối suy nghĩ
khác. Các quan hệ kinh tế thị trường trước hết là các quan hệ của các cá nhân, dựa
trên động cơ là lợi ích cá nhân và tự do cá nhân, từ đó tạo ra sự dấn thân của mỗi
cá nhân để khai phá và sáng tạo về tư duy, thử nghiệm và đổi mới về hoạt động
thực tiễn. Động lực cá nhân là một động lực cơ bản cho sự phát triển của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Do vậy, sự tự do, độc lập và sáng tạo của cá nhân cần được khẳng định và phát
huy ngày càng cao. Đây trước hết là một vấn đề kinh tế, nằm ở trung tâm của sự
phát triển, cần phải được quan tâm và coi trọng hơn nữa. Chỉ có dựa trên sự phát
triển bình đẳng và hài hòa giữa cá nhân và tập thể, thì trình độ của cơ chế kinh tế
thị trường ở nước ta mới được đẩy cao, nền kinh tế mới có thêm động lực và
khuyến khích để phát triển.
1.4. Phù hợp với các cam kết của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cơ sở cho sự phát triển kinh tế và chuyển
đổi của hệ thống kinh tế thị trường ở nước ta. Cơ chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta không thể phát triển lành mạnh chỉ dựa trên những tác nhân bên
trong mà phải dựa vào mối tương tác giữa các hệ thống bên trong với các tác nhân
kích thích bên ngoài. Chính vì vậy, các giải pháp hoàn thiện mối quan hệ nhà nước
- thị trường ở nước ta đều phải chú ý đến những cam kết đã được thỏa thuận trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Định hướng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa
nhà nước với thị trường, phát huy vai trò của các đoàn thể, các hội
2.1. Kiến nghị về thay đổi tư duy và cam kết chính trị
Dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận, và đặc biệt từ thực tiễn đổi mới sinh động
trong 20 năm qua ở nước ta, nhiều vấn đề có tính tư duy và lý luận đã đạt đến độ
chín muồi, cần được nêu ra để khẩn trương thảo luận và đi tới kết luận cuối cùng.
Một số vấn đề có thể được nêu ra là:
- Phát huy bài học “lấy dân làm gốc”, coi kinh tế của người dân (bao gồm kinh
tế dân doanh và những yếu tố sản xuất của dân trong các khu vực kinh tế khác) là
nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
- Không cần thiết phải nêu lại những khái niệm như “bóc lột”, "cấm đảng viên
làm kinh tế", góp phần giải tỏa sự kìm hãm về tư tưởng tâm lý đang ngăn cản việc
phát triển kinh tế nhiều thành phần trên một “sân chơi” chung.
- Xóa bỏ việc phân chia thành phần kinh tế dựa trên sở hữu kinh tế như hiện
nay. Tính chất sở hữu không bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trình độ
lực lượng sản xuất và hiệu quả sản xuất trong từng thành phần kinh tế mới quyết
định những đóng góp của thành phần kinh tế đó vào việc xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

21


- Khẳng định vai trò chủ đạo của Nhà nước trong việc "chèo lái", định hướng

thị trường và thúc đẩy tiến trình phát triển. Nhà nước cần và hoàn toàn có khả năng
sử dụng sức mạnh tổng hợp kinh tế - hành chính - chính trị của Nhà nước để thực
thi vai trò chủ đạo đó, chứ không chỉ chủ đạo bằng kinh tế nhà nước. Do vậy, cần
bãi bỏ khái niệm "vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước", và thay thế bằng khái
niệm "vai trò chủ đạo của Nhà nước trong nền kinh tế".
- Đổi mới tư duy về công tác quy hoạch theo hướng chú trọng vào các quy
hoạch không gian lãnh thổ và quy hoạch về các mạng lưới hạ tầng hỗ trợ phát triển
kinh tế.
- Nên xuất pháp từ “gốc” dân chủ, để chọn từ “dân chủ” thay cho “tập trung
dân chủ”. Nhận thức đúng và thực hiện đúng, thì dân chủ đã bao hàm tập trung và
kỷ luật. Tập trung và kỷ luật không ở ngoài dân chủ, mà là bộ phận hợp thành của
dân chủ.
2.2. Hoàn thiện khung pháp luật cho nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
2.2.1. Tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế
Cần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế để tạo ra khuôn khổ pháp lý
thống nhất và đồng bộ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát huy cao nhất
mặt tích cực và hạn chế tối đa những khuyết tật của kinh tế thị trường. Hệ thống
pháp luật này là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý nền kinh tế.
Pháp luật phải khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm đầu
tư sản xuất, kinh doanh, bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của họ trong
kinh doanh, giải quyết các tranh chấp đảm bảo lợi ích của các bên và đảm bảo lợi
ích của Nhà nước, của xã hội.
Một môi trường pháp lý thuận lợi không chỉ thể hiện điều kiện thuận lợi trong
những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp trên
thị trường, mà còn phải thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm của các tác nhân khác, đặc biệt là nhà nước, trong việc tạo điều
kiện cho các hoạt động kinh tế, bảo vệ được các quyền và lợi ích của doanh
nghiệp.
Tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật, trong hệ thống chính sách, cơ chế là

một tiền đề để đảm bảo tính hiệu quả. Trong quá trình phát triển sắp tới, việc xây
dựng thể chế kinh tế phải đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp lý, cơ chế,
chính sách ở Việt Nam, đồng thời phải đảm bảo tính tương thích với những quy
chuẩn quốc tế, thúc đẩy nhanh hơn nữa và hiệu quả hơn nữa quá trình chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Pháp luật kinh tế cần tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế. Một biện pháp cụ thể cần được cân nhắc, đó là nghiên cứu và
ban hành Luật Cải cách doanh nghiệp nhà nước, tạo ra một nền tảng pháp lý vững
chắc hơn nhằm đẩy mạnh quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước.

22


2.2.2. Thay đổi cách thức soạn thảo và ban hành luật pháp kinh tế.
Cần đổi mới phương thức, quy trình xây dựng pháp luật từ khâu đầu cho đến
khâu Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông qua để trình Quốc hội, xây dựng
một quy trình xây dựng pháp luật với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có
liên quan.
Cần hạn chế dần, tiến tới chấm dứt việc để các bộ, cơ quan nhà nước chủ trì
soạn thảo luật, pháp lệnh trong các lĩnh vực đời sống xã hội mà cơ quan đó được
giao quản lý. Đối với các dự án luật, cần thành lập các tổ công tác “độc lập” chủ trì
soạn thảo. Thành phần các tổ công tác này bao gồm các chuyên gia từ các viện
nghiên cứu, các trường đại học, các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội và tổ
chức của quần chúng.
Khi đệ trình luật, các cơ quan soạn thảo cần nêu rõ phần "hồn", tức là thực chất
chính sách của bộ luật. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Quốc hội là phê chuẩn về
"hồn" chính sách của luật, chứ không chỉ bàn luận, sửa đổi về câu, chữ của các bộ
luật.
Song song với việc này, cần ban hành các quy định bảo đảm sự tham gia có
hiệu quả của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật, tổ chức tốt việc lấy ý kiến

đóng góp của các tầng lớp nhân dân, của những người là đối tượng điều chỉnh của
văn bản trước khi ban hành.
Nên xem xét và thừa nhận chính thức vai trò thúc đẩy, tạo động lực và gây áp
lực của các nhóm lợi ích trong quá trình soạn thảo pháp luật (điểm này sẽ được
phân tích kỹ hơn trong phần 2.5)
2.3. Hoàn thiện thể chế các loại hình thị trường cơ bản
2.3.1. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ: “Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối…” 6 . Hiện nay, có nhiều ý kiến
nhất trí với những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã nêu
trong Văn kiện Đại hội IX, nhưng cần phải cụ thể hoá thêm ở hai nhóm nội dung
sau đây:
- Thứ nhất, phát triển nền kinh tế thị trường với tinh thần chung là tôn trọng thị
trường và các quy luật thị trường, cụ thể là nền kinh tế có những đặc trưng chủ yếu
sau đây:
+ Các giao dịch thị trường diễn ra một cách tự do, phù hợp với các nguyên tắc
của kinh tế thị trường;
6

Đảng CSVN (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 86-87.

23


+ Môi trường pháp lý thuận tiện, phù hợp để phát triển các loại thị trường;

+ Có đầy đủ các yếu tố thị trường, tạo thuận lợi cho các quan hệ cung- cầu,
người mua- người bán, người sản xuất- người tiêu dùng;
+ Hệ thống quy tắc vận hành của các tổ chức tham gia thị trường hoàn thiện,
đáp ứng yêu cầu phổ biến của kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế;
+ Môi trường cạnh tranh tự do, có trật tự, kỷ cương, cạnh tranh lành mạnh,
công khai và minh bạch giữa các đối tác, hạn chế và kiểm soát độc quyền;
+ Nền kinh tế mở cửa, hội nhập sâu với bên ngoài.
- Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường của nước ta, phải đảm bảo những yếu tố
quan trọng quyết định tính chất XHCN, bao gồm:
+ Mục tiêu phát triển vì, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; vì sự phát triển toàn diện của con người;
+ Động lực chung để phát triển là đại đoàn kết dân tộc; đi liền với thực hiện tự
do dân chủ, phát huy cao độ sức mạnh của mọi thành phần kinh tế;
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển;
+ Kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, gìn giữ môi trường,
phát triển văn hoá, mở rộng dân chủ, tự do và phát triển con người.
+ Có vai trò làm chủ đời sống xã hội của nhân dân;
+ Có Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân;
+ Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
2.3.2. Phát triển đồng bộ các loại thị trường
Những chủ trương kinh tế và cả một số biện pháp kỹ thuật để phát triển từng
loại thị trường đã được nêu ra trong khá nhiều nghị quyết của Đảng và Nhà nước
cũng như trong những công trình nghiên cứu chuyên đề. Ở đây xin tập trung nói về
hoàn thiện vai trò của Nhà nước ta trong việc tạo lập và hoàn thiện các loại thị
trường. Xét về mặt ấy, cần thực hiện những biện pháp như sau:
- Thứ nhất, các cơ quan chức năng cần sớm ban hành và thực thi các văn bản
pháp luật và các biện pháp nhằm tạo lập đầy đủ các loại thị trường và các yếu tố
thị trường, cũng như các cơ chế tác động giữa các loại thị trường và các yếu tố thị
trường ấy.
- Thứ hai, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, đánh giá diễn biến thực tế

của các thị trường nhằm xác định “khoảng trống pháp lý và quản lý” đối với mỗi
loại thị trường, trên cơ sở đó ban hành các văn bản pháp lý nhằm chính thức hoá
hoặc hợp pháp hoá các hoạt động thị trường, đảm bảo thị trường phát triển lành
mạnh;
- Thứ ba, thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm tạo dễ dàng cho hoạt động
và sự phát triển của các loại thị trường, đáng chú ý là cần mở rộng sự tiếp cận thị
trường trên hai mặt: một là nới lỏng các quy định tham gia thị trường đối với các

24


chủ thể trên từng loại thị trường; và hai là mở rộng các lĩnh vực cho phép sự tham
gia của đông đảo các chủ thể thị trường;
2.4. Cải cách hành chính và đổi mới hoạt động quản lý của nhà nước đối
với thị trường
Trong đổi mới quản lý nhà nước đối với thị trường, cần đặc biệt chú ý một số
điểm sau đây:
- Thứ nhất, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước).
- Thứ hai, Nhà nước tôn trọng trong mọi trường hợp có thể các nguyên tắc của
thị trường để hoạch định thể chế, chính sách và điều hành nền kinh tế (xuất phát từ
tín hiệu thị trường, từ yêu cầu của thị trường và hướng tới đáp ứng yêu cầu của thị
trường, không vì lợi ích cục bộ của các ngành, các địa phương).
- Thứ ba, trong quản lý kinh tế, Nhà nước chú trọng sử dụng trong mọi trường
hợp có thể các công cụ thị trường, không lạm dụng các công cụ phi thị trường,
không lạm dụng công quyền để bóp méo, làm sai lệch tính tất yếu của thị trường
(xác định rõ hơn những công cụ kinh tế là chủ yếu, và biện pháp hành chính mà
Nhà nước sử dụng trong một số trường hợp cần thiết, để điều tiết nền kinh tế).
Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành một bước cải cách nền hành
chính, nhưng kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn. Công cuộc cải cách hành

chính của nước ta trong những năm tới cần tập trung vào những công việc quan
trọng sau đây:
- Thứ nhất, về cải cách hệ thống thể chế, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
hệ thống thể chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính nhà nước.
Một mặt rất quan trọng của cải cách thể chế là cải cách các thủ tục, trình tự giải
quyết công việc trong quan hệ giữa các cơ quan công quyền với công dân, với
doanh nghiệp.
- Thứ hai, về cải cách tổ chức bộ máy hành chính, trên cơ sở đổi mới chức
năng quản lý nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường, cần phân định rõ ràng và
hợp lý nhiệm vụ, quyền hạn, và tổ chức nhân sự của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cấp chính quyền
địa phương, loại bỏ sự chồng chéo, trùng lắp và tạo cơ sở cho việc xác định lại và
xây dựng bộ máy cụ thể. Những công việc mà lâu nay Chính phủ đang làm thay
dân, thay doanh nghiệp, thay cấp dưới cần được trả lại cho dân, cho doanh nghiệp,
cho cấp dưới.
Một khía cạnh quan trọng của cải cách bộ máy hành chính là phân cấp quản lý
nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính quyền các cấp địa phương về các
mặt: thu, chi ngân sách; thẩm quyền hành chính; công tác tổ chức nhân sự; quản lý
đầu tư và xây dựng…
- Thứ ba, về đổi mới đội ngũ công chức, đặc biệt là nâng cao phẩm chất, phát
triển năng lực công chức, đây là một nhiệm vụ và thách thức lớn của nước ta. Theo
25


×