Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Báo Cáo Thực Tập tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.27 KB, 20 trang )

Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

LỜI MỞ ĐẦU
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức
theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng
rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án nhân dân. Tòa
án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án dân sự và các Tòa án
khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tòa án xét sử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ
của tòa án là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và


quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính
mạng, tài sản tự, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Đáp ứng nhiệm vụ trên Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình nơi hàng năm thụ
lí tương đối nhiều các tranh chấp dân sự; kinh doanh thương mại luôn quán triệt các
quy định của pháp luật và đề cao công tác hòa giải khi tiến hành giải quyết vụ án.
Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành
với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống
xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác
Trong thời gian thực tập tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, em đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía cán bộ của cơ quan đã tạo điều kiện cho em có thể
thực sự tham gia vào hoạt động thụ lí đơn và xét xử các vụ án dân sự, hình sự và kinh
tế . Đây có thể xem như một tiền đề về kiến thức thực tế quan trọng để em bắt đầu sự
nghiệp của mình. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo cùng toàn thể
cán bộ tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình đã giúp em có được thời gian đầu
thực tập thật bổ ích. Đồng thời, em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đối với GVHD: Thạc
sĩ Nguyễn Thái Trường đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành tốt bài báo cáo
thực tập tổng hợp này.
Báo cáo thực tập tổng hợp này gồm 6 phần:
1: Tổng quan về tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
2: Thực trang hệ thống quy phạm pháp điều chỉnh hoạt động thương mại của tòa
án nhân dân thành phố Thái Bình.
3: Thực trạng áp dụng và thi hành pháp luật quản lí hoạt động thương mại trong
thời gian qua.
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5


Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

4: Đánh giá chung về thực trạng và sự tác động của pháp luật thương mại tới hoạt
động của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
5: Những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
6: Đề xuất đề tài khóa luận.
Mặc dù thời gian thực tập là 4 tuần không phải là thời gian dài để nghiên cứu
chuyên sâu, cụ thể và chi tiết từng vấn đề, nhưng em hy vọng bằng vốn kiến thức của
mình, được các thầy cô trang bị ở trường sẽ giúp em rút ra những nhận xét, đánh giá
và thu được kết quả tốt nhất. Mặc dù vậy nhưng do lần đầu tiếp xúc với thực tế chắc
chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.Vì vậy em rất mong được sự đóng
góp ý kiến của các thầy, cô để bài viết có thể được đầy đủ và chặt chẽ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Thư

1: TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH
1.1.
Quá trình hình thành và phát triển của tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình.
Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình là doanh nghiệp hoạt động Đảng cộng
sản, tổ chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng và bảo đảm xã
hội bắt buộc. Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình được thành lập theo sắc lệnh số
13/SL vào ngày 13/09/1945. Mã số thuế của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình là
1000494858, được đăng ký & quản lý bởi Chi cục Thuế Thành phố Thái Bình.
SVTT: Nguyễn Thị Thư


Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

Tên chính thức: Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
Địa chỉ: 435, đường Trần Hưng Đạo, phường Trần Hưng Đạo, Thành Phố Thái Bình,
Thái Bình.
 Mã số thuế: 1000494858
Ngày cấp: 2009-01-08
 Điện thoại: 036. 3833452
 Giám đốc: Nguyễn Công Mạnh



- Họ tên khai sinh: Nguyễn Công Mạnh
- Giới tính: Nam
- Năm sinh: 06/09/1956
- Quê quán: Thụy Văn - Thái Thụy - Thái Bình
- Trình độ chuyên môn: Cử nhân Luật
- Chức danh: Thẩm phán trung cấp
- Chức vụ đảm nhiệm: Thành ủy viên, Chánh án TAND thành phố Thái Bình
Trong 71 năm qua, tòa án nhân dân thành phố Thái Bình luôn phát huy truyền
thống vẻ vang của quê hương và của Ngành Toà án nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công
chức tại Toà án nhân dân thành phố Thái Bình luôn quyết tâm học tập, phấn đấu và rèn

luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, nâng cao bản lĩnh chính trị, chuyên môn nghiệp vụ
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc cải cách tư pháp trong tình hình mới.
1.2.

Chức năng, nhiệm vụ

Xét sử sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng:
- Xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Giám đốc thẩm, Tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật;
1.3.

Cơ cấu tổ chức

Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, hiện biên chế có 19 cán bộ, công chức
gồm: 09 Thẩm phán (trong đó 01 Chánh án, 02 Phó Chánh án), 08 Thư ký, 01 cán bộ
văn phòng, 01 kế toán; 02 cán bộ hợp đồng theo Nghị định 68 của Chính phủ.
1.4.

Về trình độ chuyên môn

100% Thẩm phán, Thư ký có trình độ chuyên môn Đại học Luật trong đó 01
cán bộ đang học Thạc sĩ, cán bộ Chánh án có trình độ Cao cấp lý luận chính trị, 09
đồng chí Thẩm phán, Thư ký có trình độ Trung cấp lý luận chính trị. Nhìn chung, đội
ngũ cán bộ, công chức của Toà án nhân dân thành phố Thái Bình đều có đủ năng lực,
trình độ đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đề ra.
SVTT: Nguyễn Thị Thư


Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp
1.5.

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

Về cơ sở vật chất

Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình được xây dựng trên
khuôn viên rộng 2.223m2, gồm có 02 phòng xử án (phòng xét xử hình sự và phòng xét
xử dân sự), phòng làm việc của các Thẩm phán, Thư ký và các bộ phận khác đảm bảo
yêu cầu công tác. Các trang thiết bị khác đã được trang bị đầy đủ đáp ứng nhu cầu
chuyên môn nghiệp vụ như: hệ thống máy tính đó nối mạng Internet, tăng âm, loa đài,
bàn ghế, bục xét xử, máy Photocoppy...
Khái quát về thực trạng hệ thống thương mại do tòa án nhân dân
thành phố Thái Bình quản lý.
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, nhiều quan hệ kinh tế cũng mang những
diện mạo sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các
tranh chấp kinh tế ngày càng muôn hình muôn vẻ và với số lượng lớn. Ở Việt Nam các
đương sự thường lựa chọ hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án như một
giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của mình khi thất bại
trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hoà giải.Chính vì vậy, tòa án có vai trò vô
cùng quan trọng.
Đảm đương trách nhiệm của mình, trong thời gian qua, tòa án nhân dân thành
phố Thái Bình đã và đang làm tròn nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của mình một

cách tốt nhất. Trong vài năm trở lại đây, tại Thái Bình, với việc mở rộng các khu công
nghiệp như Phúc Khánh, Nguyễn Đức Cảnh, các cụm công nghiệp Phong Phú…làm
cho quan hệ kinh tế trên địa bàn thành phố ngày càng phức tạp. Và khi xảy ra tranh
chấp, khi các bên đương sự không thể thương lượng, hòa giải thì họ thường đưa vụ án
ra toàn án để giải quyết. Mặc dù số vụ án tranh chấp kinh tế do tòa án nhân dân thành
phố Thái Bình thụ lí trong vài năm trở lại đây có xu hướng gia tăng, nhưng trong hoạt
động xét xử của mình, tòa án nhân dân thành phố Thái Bình luôn luôn xét xử đảm bảo
sự công minh nhanh chóng chính xác và kịp thời, không để xảy ra tình trạng tồn đọng
án, giải quyết án kéo dài gây sự mệt mỏi cho các đương sự.
1.6.

2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG QUI PHẠM PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI DO TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI
BÌNH QUẢN LÍ.
Hệ thống pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra hành lang pháp lí
để công ty, đơn vị hành chính sự nghiệp của nhà nước được tạo lập, vận hành và phát
triển, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp thông qua
các văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật doanh nghiệp, Luật
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

lao động, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn

có liên quan.
Tòa án nhân dân cấp thành phố nói chung có hoạt động chủ yếu là xét xử, mà
liên quan tới hoạt động thương mại thì chủ yếu xét xử các vụ án kinh tế, thương mại.
Khi thực hiện chức năng này, Toà án nhân dân thành phố phải căn cứ vào các quy định
của pháp luật, cả pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng.Trong những năm qua,
để giải quyết các vụ án tranh chấp về kinh tế, kinh doanh thương mại thì hệ thống quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại do tòa án quản lý đó là:
2.1.

Bộ luật tố tụng dân sự 2004

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Nhà nước bảo đảm các quyền, lợi
ích hợp pháp của mọi chủ thể. Khi cá nhân, pháp nhân hay chủ thể khác có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm thì theo thủ tục do pháp luật quy định chủ thể đó được khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Và Bộ luật tố tụng dân sự 2004 là cơ sở
pháp lý quan trọng để Tòa án giải quyết vụ án các vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân. Điểm đặc thù khi giải quyết tranh chấp thương
mại tại Toà án là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Chương II ,
Chương III Bộ luật tố tụng dân sự, từ Điều 3 đến Điều 45 trong đó có nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12). Dựa
vào nội dung các tranh chấp thương mại mà Toà án có thẩm quyền giải quyết theo quy
định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cho đến nay
thì những quy định tại bộ luật này vẫn đang phát huy tác dụng tích cực của nó.
2.2.

Luật thương mại 2005

Bên cạnh pháp luật về thủ tục tố tụng trong bộ luật tố tụng dân sự 2015 là nguồn
luật quan trọng để toà án áp dụng khi xét xử tranh chấp đưa đến tại toà án, thì đối với
hoạt động quản lí lĩnh vực về thương mại tại tòa án nhân dân thành phốThái Bình còn

phải tuân theo quy định tại luật thương mại 2005. Luật thương mại 2005 là luật riêng
điều chỉnh cho hoạt động thương mại. Đối với những vấn đề phát sinh trong tranh
chấp từ quan hệ thương mại thì thứ tự ưu tiên áp dụng luật là: Luật chuyên ngành và
Luật thương mại. Nếu như không có quy định về vấn đề phát sinh này thì áp dụng quy
định của Bộ luật dân sự 2005. Ví dụ như đối với các vụ án tranh chấp kinh tế, thương
mại liên quan đến thời hiệu khởi kiện vụ án. Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh
chấp phát sinh từ quan hệ thương mại được xác định theo thứ tự: Luật chuyên ngành;
Luật thương mại. Như vậy, trước hết phải xác định theo luật chuyên ngành của từng
lĩnh vực. Trường hợp không có luật chuyên ngành thì áp dụng thời hiệu theo quy định
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

của Luật thương mại 2005. Theo đó “Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp
thương mại là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Riêng
những tranh chấp thương mại phát sinh từ dịch vụ Logictics thì thời hiệu khởi kiện là
09 tháng kể từ ngày giao hàng”.Nếu như trong luật thương mại không có quy định thì
tiếp tục áp dụng quy định của bộ luật dân sự 2005
2.3.

Bộ luật dân sự 2005

Bộ luật dân sự 2005 có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt

Nam. Nó thể hiện những quan điểm cơ bản nhất của nhà nước trong điều chỉnh các
quan hệ pháp luật tư, thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất cho các mối quan hệ
trong đời sống dân sự, đồng thời xác lập các quy tắc điều chỉnh cho quan hệ dân sự
phát sinh. Các đạo luật điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của quan hệ pháp luật tư
(như thương mại, đất đai, tín dụng, sở hữu trí tuệ….) cũng đều phải căn cứ vào các
nguyên tắc chung của bộ luật dân sự 2005. Vì lí do trên mà khi Tòa án tiến hành giải
quyết các tranh chấp về kinh tế, thương mại cũng cần phải xem xét, cân nhắc tới các
quy định trong bộ luật này. Cụ thể các vấn đề liên quan tới tranh chấp thương mại như
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng ; xử lí vi phạm hợp đồng; vấn đề lãi suất… đều được quy định từ chương 17
tới chương 21 trong Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó để đảm bảo giải quyết các vụ án
một cách chính xác và hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của các bên , Tòa án nhân dân
thành phố Thái Bình cũng cần dựa vào những quy định trong bộ luật này.
2.4.

Các văn bản pháp luật khác

Có thể thấy, các văn bản pháp luật chủ yếu mà toà án thường dùng làm căn cứ
pháp lý để giải quyết các vụ án tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của mình là:
Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Tuy nhiên, trên thực tế còn có nhiều những vụ án kinh tế, thương mại phức tạp, liên
quan tới nhiều lĩnh vực trong thực tiến. Do đó, tòa án nhân dân thành phố Thái Bình
cũng cần xem xét tới các quy định trong các bộ luật và các văn bản có liên quan như
Luật kinh doanh bất động sản năm 2014; Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2010); Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; Luật Xây dựng năm 2014; Luật Doanh
nghiệp năm 2014; Luật Đầu tư năm 2014; Luật Đầu tư công năm 2014; Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) để giải quyết vụ án một cách
triệt để nhất.

SVTT: Nguyễn Thị Thư


Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT QUẢN LÍ
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRONG THỜI GIAN QUA TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH.
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật quản lý hoạt động thương mại trong
thời gian qua tại tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
là hoạt động thường xuyên của tòa án nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình do Hiến pháp và pháp luật quy định. Áp dụng pháp luật trong hoạt
động giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Toà án mang những đặc điểm
chung của hoạt động áp dụng pháp luật, bên cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng.
Quy trình áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại của Toà án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Việc
áp dụng pháp luật trong hoạt động của Toà án luôn là mối quan tâm của xã hội, đặc
biệt là khi chúng ta đang tiến hành cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhất công cuộc
đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, công tác giải quyết vụ án về kinh
doanh, thương mại của tòa án nhân dân thành phố Thái Bình đã góp phần quan trọng
vào việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Những bản án, quyết định của
Toà án đúng pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá kết quả hoạt động

của ngành.Toà án là cơ quan tài phán của nhà nước tiến hành áp dụng pháp luật trong
trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại phát sinh trong hoạt động thương mại giữa
các chủ thể mà họ không tự giải quyết được với nhau và một bên làm đơn khởi kiện
yêu cầu sự can thiệp của toà án để bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án chỉ giải quyết
tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của mình theo quy định tại Điều 30 bộ luật
Tố tụng dân sự và giữa các bên không có thoả thuận về việc giải quyết tranh chấp đó
bằng con đường trọng tài. Ngoài ra thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại tại
toà án còn được phân định theo cấp toà án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của
nguyên đơn.
Theo sổ thụ lý, sổ kết quả các vụ án Dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Thái
Bình, trong 5 năm, từ 01/10/2010 đến 31/3/2015, Toà án nhân dân thành phố Thái
Bình, tỉnh Thái Bình đã thụ lý 1691 vụ, việc; đã giải quyết 1672 vụ, việc; đạt tỷ lệ
98,8%. Trong đó: Án Hình sự: Thụ lý, giải quyết 505 vụ, 868 bị cáo/502 vụ, 860 bị
cáo, đạt 99,4%; Án dân sự: Thụ lý, giải quyết 21/23 vụ, đạt 91,3%; Án Hôn nhân gia
đình: Thụ lý, giải quyết 1042/1056 vụ, đạt 98,6%; Án Kinh doanh thương mại: Thụ
lý, giải quyết 04/04 vụ, đạt 100%; Án Lao động-Hành chính: Trong 05 năm từ 2010SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

2015, TAND thành phố Thái Bình không thụ lý giải quyết vụ, việc nào về Lao động,
hành chính; Việc dân sự: Thụ lý, giải quyết 75/75 việc, đạt 100%; Xét rút ngắn thời
gian thử thách của án treo và giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam
giữ: Thụ lý 26 vụ - 26 bị án, đã giải quyết 26 vụ- 26 bị án, đạt tỷ lệ 100%.

Như vậy từ sổ thụ lý, sổ kết quả các vụ án Dân sự của Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình, cho thấy trong 05 năm qua chỉ xảy ra 04 vụ án kinh doanh thương mại.
Mặc dù những vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại này, đều là những loại hợp
đồng nhỏ, giá trị dưới 50 triệu đồng và nếu có phát sinh tranh chấp các bên đương sự
cũng rất dễ hòa giải nhưng Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình đã thụ lí và giải
quyết nhanh chóng đúng luật định, đáp ứng yêu cầu của các nhà doanh nghiệp.Về cơ
bản, công tác xét xử án kinh doanh thương mại phúc thẩm đạt kết quả tốt. Việc áp
dụng pháp luật thực hiện các trình tự tố tụng từ giai đoạn nhận đơn kháng cáo và văn
bản kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân đến khi thụ lý và đưa vụ án ra xét xử theo
đúng quy định của pháp luật. 100% các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại phúc
thẩm được thụ lý và giải quyết trong thời hạn luật định. Tại phiên toà phúc thẩm, các
nội dung kháng cáo, kháng nghị cơ bản đã được giải quyết triệt để, thoả đáng. Việc xét
đơn kháng cáo quá hạn, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm đều được thực hiện đúng theo
các trình tự, thủ tục Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
Mặc dù việc chấp hành pháp luật trong hoạt động giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại của tòa án nhân dân thành phố Thái Bình cơ bản đạt kết quả tốt, tiến
độ, chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án đạt và vượt chỉ tiêu của ngành. Tỷ lệ án bị
hủy, sửa do lỗi chủ quan trong nhiều năm được hạn chế ở mức thấp và theo xu hướng
giảm dần. Song, thông qua việc nghiên cứu, xem xét một số vụ án bị hủy, sửa cho thấy
thực tiễn xét xử vẫn tồn tại khuyết điểm.Những sai sót thường mắc phải như là: việc
thực hiện mẫu các văn bản tố tụng không đúng theo quy định của pháp luật và mẫu của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn; việc trả hồ sơ cho viện kiểm
sát nhân dân để điều tra bổ sung không có căn cứ để vụ án bị kéo dài; biên bản phiên
toà không phản ánh đầy đủ nội dung diễn biến của phiên toà; phiên toà xét xử vắng
mặt người tham gia tố tụng không đúng quy định của pháp luật; cấp phúc thẩm sửa án
của cấp sơ thẩm không có căn cứ hoặc căn cứ chưa phù hợp.
Như vậy, thực tiễn hoạt động của tòa án nhân dân thành phố Thái Bình trong thời
gian qua cho thấy, công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân tối cao
thực hiện chưa đầy đủ, còn chậm làm cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động giải
quyết án hình sự của Tòa án các cấp còn lúng túng, kết quả giải quyết án chưa cao.


SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

3.2. Thực trạng thi hành pháp luật quản lý hoạt động thương mại trong
thời gian qua tại tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
3.2.1 Công tác thi hành pháp luật quản lý hoạt động thương mại tại cơ quan
Toà án nhân dân thành phố Thái Bình
Thi hành pháp luật trong hệ thống cơ quan Toà án nói riêng và các cơ quan, tổ
chức, công dân nói chung là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc thực hiện, bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cơ quan Toà án là cơ quan tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng nên việc thực thi
pháp luật trong các hoạt động của mình phải được đặt lên hàng đầu vì đó là điều kiện
tiên quyết để đảm bảo thực hiện công lý, thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Là cơ
quan tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời lại là các cơ quan hành chính sự
nghiệp nên cơ quan Toà án vừa phải đảm bảo thực hiện nghiêm túc các quy định của
pháp luật tố tụng, Luật tổ chức Toà án nhân dân, các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến tổ chức, hoạt động của Toà án và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên
quan đến lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước. Như vậy, công tác thi hành pháp luật
trong các cơ quan Toà án cũng đồng nghĩa với việc quản lý, theo dõi các hoạt động
của cơ quan này.
Với chức năng là các cơ quan tiến hành tố tụng, trong thời gian qua, toà án nhân

dân thành phố Thái Bình luôn đảm bảo thực hiện thi hành đúng, đầy đủ, chính xác các
quy định của pháp luật tố tụng trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án. Tuy nhiên,
thực tiễn giải quyết, xét xử các vụ án cho thấy, đối với các tranh chấp về kinh doanh
thương mại việc tòa án nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng pháp luật để giải quyết,
xét xử các vụ án cũng còn gặp không ít khó khăn. Nguyên nhân là do hệ thống pháp
luật của Nhà nước chưa hoàn chỉnh, thậm chí không ít văn bản pháp luật còn mâu
thuẫn, chồng chéo hoặc một số quy định của pháp luật không còn phù hợp nhưng
chậm được sửa đổi, bổ sung; nhận thức về một số quy định của pháp luật chưa thống
nhất, dẫn tới việc áp dụng pháp luật để giải quyết, xét xử không thống nhất. Do đó mà
các cơ quan tư pháp có những quan điểm khác nhau về một vẫn đề nào đó và vì sao
Toà án cấp trên lại sửa, huỷ bản án, quyết định của Toà án cấp dưới.
Để nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án, vấn đề đặt ra là phải đảm
bảo có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đặc biệt là phải nhanh chóng, kịp thời ban
hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Hướng dẫn áp dụng pháp luật của các
cơ quan tư pháp càng cụ thể, rõ ràng, rành mạch bao nhiêu thì nhận thức và áp dụng
pháp luật càng thống nhất bấy nhiêu. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực, trình độ
nghiệp vụ, tư cách, phẩm chất, đạo đức của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án,
chuyên viên pháp lý trong các cơ quan này là một đòi hỏi cấp thiết trong tình hình hiện
nay.
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường


3.2.2 Mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình trong việc thực hiện công tác thi hành pháp luật
Vì có đặc thù vừa là cơ quan tiến hành tố tụng, vừa là cơ quan hành chính sự
nghiệp nên toà án nhân dân thành phố Thái Bình phải thường xuyên quan hệ với các
cơ quan, tổ chức để thực hiện pháp luật tố tụng và các văn bản quy phạm pháp luật
khác liên quan đến hoạt động của Toà án của mình. Ngành tòa án nói chung và toàn án
nhân dân thành phố nói riêng thực hiện chức năng xét xử "độc lập, chỉ tuân theo pháp
luật" nhưng phải chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp
trên đối với không chỉ là công tác giải quyết xét xử mà còn đối với công tác thi hành
án và các hoạt động khác. Trong quá trình thực hiện chức năng giải quyết, xét xử các
vụ án, Toà án còn phải thiết lập các mối quan hệ với cơ quan Công an trong việc thay
đổi các biện pháp ngăn chặn, trích xuất bị cáo đến đến phiên toà, tống đạt cho bị can
những quyết định của Toà án, thực hiện công tác giảm án, tha tù hàng năm và phối
hợp thực hiện chủ trương, quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá…
Ngoài ra, để giải quyết tốt một vụ án, các Toà án còn phải thiết lập mối quan hệ
với các cơ quan bổ trợ tư pháp để nhận được sự giúp đỡ, phối hợp hoặc thực hiện trách
nhiệm của các cơ quan này trong các hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho các đương sự, bị cáo của Luật sư, bào chữa viên nhân dân; các cơ quan giám
định, phiên dịch; các cơ quan, tổ chức khác trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho
Toà án… Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc chuyển giao các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật để thi hành; giải thích, đính chính những sai sót,
trả lời các yêu cầu của cơ quan thi hành án, quyết định việc hoãn thi hành án dân sự…

4: ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA
PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI TỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THÁI BÌNH.
4.1. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật thương mại
4.1.1 Ưu điểm
Một trong những yêu cầu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, chính là sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Khi áp dụng pháp luật nói

chung, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà
án nhân dân nói riêng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phải áp dụng các quy định của
Hiến pháp, pháp luật tố tụng dân sự và hệ thống các văn bản pháp luật khác có liên
quan như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng. Trong
những năm qua, nhiều Nghị quyết của Đảng đã được quán triệt thành các kế hoạch
hành động thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách tư pháp. Hệ
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

thống các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực
tiễn làm cơ sở cho các Tòa án nhân dân xét xử các vụ án kinh doanh thương mại. Để
bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng dân sự đáp ứng được nhu
cầu trong giai đoạn mới, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ở lần
sửa đổi, bổ sung này, có nhiều điểm mới trong quy định sẽ giúp ích cho Tòa án trong
quá trình áp dụng pháp giải quyết các tranh chấp dân sự. Điển hình đó là:
Thứ nhất là: Nhiều tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của toà
án cấp tỉnh trước đây, nay thuộc thẩm quyền của toà án cấp huyện giải quyết
Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì Toà án nhân dân cấp
huyện chỉ có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh, thương mại từ điểm a đến điểm i Khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004
giữa các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi

nhuận. Song với Luật sửa đổi, Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tất
cả các tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc Khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân
sự 2004. Vì thế, các tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu; những
tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng tín dụng có liên quan đến ngân hàng; những
tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự ... theo quy
định của Luật sửa đổi thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án nhân dân cấp huyện.
Đây chính là việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện giải quyết các tranh chấp dân
sự theo lộ trình tăng thẩm quyền mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
Thứ hai là: Đơn giản hoá thủ tục khi xem xét đơn khởi kiện
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và hướng dẫn của ngành toà án
thì khi thụ lý hồ sơ khởi kiện, Toà án phải xem xét đơn khởi kiện, đánh giá đơn khởi
kiện có phù hợp với mẫu đơn khởi kiện đã được quy định hay không. Một trong những
yêu cầu đặt ra là đơn khởi kiện phải do chính các đương sự viết và ký tên hoặc điểm
chỉ. Thực hiện các quy định này trong thực tiễn xét xử không ít trường hợp đã gây khó
khăn cho đương sự khi đương sự không biết viết hoặc không có khả năng tự mình ký
hoặc điểm chỉ. Vì thế, để tạo thuận lợi cho các đương sự khi làm đơn khởi kiện, Luật
sửa đổi đã tổng hợp các quy định tại các điểm i, k, l thành Khoản 3 Điều 164 Bộ luật
tố tụng dân sự 2004 và bổ sung thêm trường hợp khởi kiện để bảo vệ người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn kiện do người đại diện theo pháp luật
của những người này ký hoặc điểm chỉ, nếu trường hợp người khởi kiện không biết
chữ, không nhìn được, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì phải có người làm
chứng và ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân
dân cấp xã. Đây là quy định mới nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page



Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

đương sự và tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động xét xử của Tòa án thời gian
qua.
Thứ ba là: Xác định rõ thêm những tranh chấp mới mà toà án nhân dân cấp
huyện, thành phố phải thụ lý giải quyết
Đây cũng là một điểm thay đổi rất mới trong việc thụ lý giải quyết vụ án dân sự.
Điểm mới này xuất phát từ sự phát triển của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống
pháp luật mà trước đây Bộ luật tố tụng dân sự 2004 chưa quy định nhưng do nhu cầu
thực tiễn cần phải có những quy định để điều chỉnh. Đó là các tranh chấp liên quan
đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và công nhận sự thỏa thuận về
quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự.... Đây là những tranh
chấp mới mà thực tiễn xét xử đã chỉ ra rằng toà án còn lúng túng trong việc có thụ lý
hay không thụ lý giải quyết những tranh chấp này.
Đối với các vụ án dân sự (theo nghĩa hẹp), so với các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004, Luật sửa đổi bổ sung thêm 3 loại tranh chấp nếu phát sinh sẽ
thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án. Đó là:
- Những tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
- Những tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự.
- Những tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký
mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Như vậy, với 03 điểm mới nêu trên, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật
tố tụng dân sự 2004 đã có những quy định thông thoáng hơn, mang tính chất đột phá,
phù hợp với thực tiễn và thông lệ thế giới; đồng thời giải quyết được những vướng
mắc phát sinh trong hoạt động thụ lý vụ án, đóng góp giá trị lớn vào công cuộc cải
cách tư pháp của nước ta hiện nay.
4.1.2 Bất cập, hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được thì hệ thống pháp luật thương mại còn tồn
tại một vài bất cập đó là :
Thứ nhất là: Sự chồng chéo và thiếu tính nhất quán trong quy định của Luật
chuyên nghành và Bộ luật dân sự.
Theo quy định tại điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, phức tạp, liên
quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, trong đó có tranh chấp vừa được điều chỉnh bởi quy
định của Bộ luật Dân sự, vừa được điều chỉnh bởi Luật chuyên ngành. Chính vì lý do
này mà việc xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án còn một số lúng
túng, vướng mắc hoặc sai lầm khi áp dụng quy định của Bộ luật dân sự và quy định
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

của Luật chuyên ngành như luật Thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa (được quy
định trong Luật Thương mại), về hợp đồng dịch vụ (quy định trong Bộ luật Dân sự),
hợp đồng cung ứng dịch vụ (được quy định trong Luật Thương mại), hợp đồng liên
kết, liên doanh hợp đồng hợp tác kinh doanh... theo quy định của Luật Doanh nghiệp
và Luật Đầu tư, hợp đồng bảo hiểm (được quy định trong Bộ luật Dân sự), hợp đồng
bảo hiểm (quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm)...
Vướng mắc ở đây là trường hợp nào thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự,
trường hợp nào thì áp dụng quy định của Luật chuyên ngành? Vì vậy, trong thực tiễn
xét xử, việc áp dụng quy định của Luật chuyên ngành, của Bộ luật Dân sự để giải

quyết vụ án của một số Tòa án chưa thống nhất như: có Tòa án áp dụng quy định của
Bộ luật Dân sự; có Tòa án áp dụng quy định của Luật chuyên ngành; có Tòa án áp
dụng đồng thời quy định của Bộ luật Dân sự và quy định của Luật chuyên ngành. Sự
chồng chéo và thiếu tính nhất quán đó dẫn đến một hậu quả, đó là đưa ra những phán
quyết thiếu khách quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng.
Thứ hai là: Khó khăn trong việc nhận dạng một vụ án kinh tế.
Để áp dụng khoản 1 điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự thì các bên tranh chấp phải có
đăng kí kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận khi tham gia quan hệ. Nhưng trên
thực tế hiện nay đang tồn tại nhiều quan hệ hợp đồng kinh tế được kí giữa một bên
không có đăng kí kinh doanh và không có mục đích lợi nhuận. Nhưng theo khoản 1
điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì đây không phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt
động kinh doanh thương mại vì một bên không có đăng kí kinh doanh. Mặt khác cũng
không thể coi đây là tranh chấp dân sự vì khoản 3 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự 2004
quy định tranh chấp dân sự là các tranh chấp về hơp đồng dân sự. Do vậy gây nhiều
khó khăn cho các thẩm phám thi tham gia nhận dạng một vụ tranh chấp kinh tế.
Thứ ba là: Về thời hạn giải quyết vụ án
Căn cứ theo điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định:
“1.Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn
tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai
tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án
có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với

SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page



Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường
hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
….
3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải
mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng”.
Với quy định trên của Bộ luật tố tụng dân sự 2005 thì thời hạn giải quyết vụ án
kinh doanh thương mại quá ngắn. Nếu trong một vụ án kinh doanh thương mại đương
sự không hợp tác, không có mặt để tham gia tố tụng khi được triệu tập. Ngoài lý do
không nhận được văn bản triệu tập, rất nhiều trường hợp đương sự không còn ở địa
phương hoặc đương sự cố tình lẩn tránh không hợp tác; hiểu biết nhiều về pháp luật
hạn chế khi tham gia ký kết các hợp đồng nên khi xảy ra tranh chấp không tự cung cấp
được chứng cứ, phải yêu cầu Tòa án thu thập từ các cơ quan, tổ chức khác. Tính phức
tạp trong mội dung tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết án bị kéo dài, quá hạn luật định, gây không ít khó
khăn cho Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án.
Thứ tư là: Vướng mắc khi áp dụng khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005
Luật thương mại năm 2005 ra đời có khá nhiều điểm mới, tiến bộ so với Luật
thương mại năm 1997. Song bên cạnh đó cũng còn một số điểm bất cập cần đặt ra xem
xét. Tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định “Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Tuy nhiên,
các hoạt động nhằm nhằm mục đích sinh lợi khác là những hoạt động cụ thể nào cho
đến nay chưa có văn bản giải thích. Như vậy, các tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng,
tín dụng, bảo hiểm có được xem là những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác và

có phải là đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại hay không ?
Thứ năm là: Vướng mắc trong các quy định về xác định thời hiệu khởi kiện vụ án
Về thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại
được xác định theo thứ tự: Luật chuyên ngành; Luật thương mại. Như vậy, trước hết
phải xác định theo luật chuyên ngành của từng lĩnh vực. Trường hợp không có luật
chuyên ngành thì áp dụng thời hiệu theo quy định của Luật thương mại 2005. Theo đó
“Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm, kể từ thời điểm
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Riêng những tranh chấp thương mại phát
sinh từ dịch vụ Logictics thì thời hiệu khởi kiện là 09 tháng kể từ ngày giao hàng”.
Theo quy định của Luật thương mại thì cách xác định thời hiệu khởi kiện đối với các
loại tranh chấp thương mại có nguyên tắc cơ bản giống với BLDS 2005. Tuy nhiên,
thực tiễn hiện nay cho thấy hầu như thời hiệu khởi kiện quy định trên không được áp
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

dụng mà chủ yếu áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định trong các luật chuyên ngành
điều chỉnh hoạt động thương mại trong các lĩnh vực cụ thể, dẫn đến việc áp dụng pháp
luật trong việc xác định thời hiệu giữa các tòa án, giữa các Thẩm phán chưa mang tính
thống nhất.
4.2.
Sự tác động của pháp luật thương mại tới hoạt động của tòa án nhân
dân thành phố Thái Bình.

Từ những phân tích bên trên chúng ta có thể thấy được rằng, hệ thống pháp luật
điều chỉnh hoạt động thương mại bên cạnh những ưu điểm thì còn tồn tại rất nhiều hạn
chế. Nó có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới hoạt động của Tòa án nhân dân nói
chung và của Toàn án nhân dân thành phố Thái Bình nói riêng.
4.2.1 Tác động tích cực
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường Toà án đang là
phương thức giải quyết thông dụng và phổ biến nhất. Vì thế để đảm bảo hiệu quả, chất
lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án
nhân dân thì điều kiện cần đó là phải có sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản pháp
luật có liên quan. Trong những năm qua, nhờ Nhà nước ta không ngừng xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật giúp, điều này giúp cho việc đưa ra các bản án và quyết
định trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình luôn đảm bảo
được độ chính xác, đúng pháp luật, có hiệu quả và hiệu lực cao. Chính vì vậy, nếu hệ
thống pháp luật có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại không hoàn thiện, thì chất lượng áp dụng pháp luật sẽ
không cao, thậm chí không thực hiện được.
Hơn nữa, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật chuyên ngành, nhất là các quy
định về Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Ngân hàng, Luật
Kinh doanh bảo hiểm… được thể hiện ở những tiêu chuẩn như tính toàn diện, tính
đồng bộ, tính phù hợp, tính hiệu lực, hiệu quả và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ
thống pháp, càng tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc đưa ra những phán xét chính
xác hơn, hợp lí hơn của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
4.2.2 Tác động tiêu cực
Không chỉ ảnh hưởng tích cực tới hoạt động của Tòa án nhân dân thành phố Thái
Bình mà qua thực tiến áp dụng, hệ thống pháp luật thương mại còn tồn tại nhiều bất
cập, có tác động tiêu cực tới hoạt động giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân thành
phố Thái Bình.
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5


Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

Trong một thời gian dài, các quy định của pháp luật tố tụng còn bị xem nhẹ theo
quan niệm chỉ là “thủ tục tố tụng” nên không được chú trọng, chủ yếu là các văn bản
đơn hành có giá trị pháp lý thấp hơn luật. Nhiều thủ tục chưa được pháp luật tố tụng
điều chỉnh hoặc các quy định của pháp luật tố tụng mang tính chung chung, chồng
chéo, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Khi áp dụng pháp luật quá coi trọng các
văn bản hướng dẫn, thậm chí cả công văn, ý kiến chỉ đạo của cấp trên mà thiếu quan
tâm đến các quy định trong bộ luật, luật. Điều này dẫn đến sự chậm trễ trong công tác
giải quyết vụ án tranh chấp về kinh doanh thương mại của Tòa án.
Ngoài ra pháp luật quy định về tổ chức Toà án còn theo đơn vị hành chính. Hoạt
động xét xử của Toà án là nhân danh công lý và chỉ căn cứ vào pháp luật. Tuy nhiên tổ
chức Toà án ở nước ta hiện nay theo đơn vị hành chính lãnh thổ nên còn những hiện
tượng can thiệp của chính quyền địa phương, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử
sự can thiệp không đúng của chính quyền địa phương và tổ chức Đảng vào hoạt động
xét xử các vụ án cụ thể khiến cho các bản án hay quyết định thiếu khách quan, thiếu
chính xác

5: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT
Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và toàn diện, đặc biệt trong giai
đoạn hội nhập kinh tế hiện nay luôn là yêu cầu cấp bách mà nhà nước ta cần phải thực
hiện. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh tế với nhiều quy định qua thực
tiễn áp dụng đã bộc lộ các tồn tại, bất cập cần được giải thích, sửa đổi, bổ sung. Qua
công tác giải quyết án tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, em xin nêu một số

vấn đề cần đặt ra giải quyết đó là:
Thứ nhất là, Căn cứ những điểm hạn chế, bấp cập được đưa ra tại phần 4.1.2 bên
trên cho thấy, giữa các quy định pháp luật trong Luật thương mại 2005 và bộ luật Dân
sự 2005 còn có sự chồng chéo, không thống nhất với nhau. Do đó, việc điều chỉnh
Luật Thương mại 2005 để tránh tình trạng trùng lắp với các luật khác, đồng thời tạo
hành lang pháp lý đầy đủ để giải quyết tốt hơn tranh chấp thương mại là rất cần thiết.
Vì vậy, Nhà nước ta cần soạn thảo lại các nghị định bổ sung hướng dẫn thi hành Luật
Thương mại năm 2005 theo hướng minh bạch, rõ ràng hơn, giảm thiểu tối đa sự chồng
chéo với các bộ luật khác.

SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

Thứ hai là, Nhà nước ta cần đưa ra những quy định hướng dẫn theo hướng mở
rộng quyền thoả thuận của các bên để lựa chọn Toà án thích hợp giải quyết các tranh
chấp đã hoặc sẽ phát sinh. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định một trường hợp các
bên tranh chấp được quyền thoả thuận lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về kinh
doanh, thương mại. Theo Điểm b khoản 1 Điều 35 thì các đương sự có quyền tự thoả
thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án, nơi nguyên đơn có trụ sở hoặc cư trú
giải quyết tranh chấp. Nhưng trên thực tế có rất nhiều trường hợp các bên tham gia
quan hệ thoả thuận trước với nhau lựa chọn Toà án của một địa phương cụ thể giải
quyết tranh chấp; ví dụ: Toà án nơi Thực hiện hợp đồng, Toà án nơi một bên có chi

nhánh… thì thoả thuận đó có giá trị ràng buộc các bên hay không ?
Thứ ba là, Nhà nước cần bổ sung, điều chỉnh kịp thời Luật và các văn bản quy
phạm pháp luật không còn phù hợp; sớm ban hành các quy định và các hướng dẫn
thực hiện pháp luật để pháp luật thương mại ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện cho
toà án có cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng để giải quyết các tranh chấp thương mại ngày
càng phổ biến trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

6: ĐỀ XUẤT ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN
Đề tài 1: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại và thực tiễn giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình”.
Lí do chọn đề tài:
Trong bối cảnh đất nước đang phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội;
hoạt động kinh doanh thương mại của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những tác động cũng như đóng góp đángkể cho sự
phát triển chung của đất nước. Sự phát triển của các thành phần kinh tế, sự gia tăng số
lương các doanh nghiệp đã và đang tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn
nhưng cũng không kém phần phức tạp và cạnh tranh gay gắt. Các tranh chấp kinh
doanh, thương mại cũng từ đó mà phát sinh với số lượng ngày càng tăng qua các năm
cùng với tính chất phức tạp của nó. Vì vậy việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là
điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh
doanh và để giúp các doanh nghiệp tránh được những hậu quả tiêu cực do mâu thuẫn
và xung đột lợi ích gây ra.Chính từ thực tế này, em quyết định chọn đề tài “Pháp luật
về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại và thực tiễn giải quyết tranh chấp
SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page



Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình” là đề tài nghiên cứu
của mình.
Với đề tài khóa luận dự kiến này, em hi vọng rằng các thầy cô giáo trong bộ môn
Luật chuyên nghành sẽ hướng dẫn em làm tốt đề tài khóa luận này.
Đề tài 2 : “ Pháp luật về giải quyết tranh chấp về thừa kế tại Tòa án và thực tiễn giải
quyết tranh chấp về thừa kế tại tòa án nhân dân thành phố Thái Bình”.
Lí do chọn đề tài :
Bộ luật dân sự(BLDS) nói chung và chế định thừa kế nói riêng điều chỉnh quan
hệ tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế-xã hội của nước ta trong sự hội nhập với nền
kinh tế thế giới vì vậy BLDS phải có tính ổn định và tương thích với BLDS các nước.
Tuy nhiên, BLDS được xây dựng trong thời kỳ bắt đầu của kinh tế thị trường, cho nên
không thể dự liệu hết sự phát triển của các giao lưu dân sự. Trong BLDS, phần thừa kế
đóng vai trò quan trọng điều chỉnh việc chuyển tài sản của người chết cho người sống
theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Việc điều chỉnh quan hệ thừa kế cần
phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường nhưng phải đảm bảo lợi ích của người thừa
kế. Trên thực tế các tranh chấp về thừa kế nói chung và tranh chấp về thừa kế theo
pháp luật nói riêng xảy ra trong đời sống thực tiễn hết sức đa dạng, phức tạp và xảy ra
ngày một nhiều.Trước thực tế đó, được thực tập tại TAND Thành Phố Thái Bình, Tỉnh
Thái Bình, em quyết định chọn đề tài : “Pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế và
thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tòa án nhân dân thành phố Thái Bình” để
làm đề tài nghiên cứu của mình.
Với đề tài khóa luận dự kiến này, em hi vọng rằng các thầy cô giáo trong bộ môn
Luật căn bản sẽ hướng dẫn em làm tốt đề tài khóa luận này.

SVTT: Nguyễn Thị Thư


Lớp HC: K48P5

Page


Báo cáo thực tập tổng hợp

GVHD: Th.s Nguyễn Thái Trường

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/06/2004.
2. Bộ luật dân sự số 33/2005/QH ngày 14/06/2005.
3. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 33/2002/QH10 ngày 02/04/2002.
4. Luật thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/06/2005.
5. Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014
6. Sổ thụ lý, sổ kết quả các vụ án dân sự của TAND thành phố Thái Bình.
7. Luận văn của Nguyễn Lan Anh (2013), “ Thực trạng giải quyết tranh chấp
kinh doanh,thương mại tại Tòa Kinh tế- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam” ,
truy cập ngày 14/1/2016, < >
8. Website:

SVTT: Nguyễn Thị Thư

Lớp HC: K48P5

Page




×