Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

NHỮNG PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC TỐT ĐẸP CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM CẦN GIỮ GÌN, PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.85 KB, 64 trang )

PHẦN THỨ BA
NHỮNG PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC TỐT ĐẸP CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
CẦN GIỮ GÌN, PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC

I. PHẨM CHẤT YÊU NƯỚC
1. QUAN NIỆM VỀ YÊU NƯỚC VÀ PHẨM CHẤT YÊU NƯỚC
1.1. Yêu nước và phẩm chất yêu nước
Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có của tất cả dân tộc trên thế giới.
Tuy nhiên, sự hình thành chủ nghĩa yêu nước sớm hay muộn, mức độ đậm nhạt, nội
dung và hình thức biểu hiện cũng như chiều hướng phát triển, có sự khác nhau, điều đó
thường tùy thuộc vào từng dân tộc và trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Phẩm chất
yêu nước là cơ sở, nền tảng hình thành chủ nghĩa yêu nước, là phạm trù có tính chất
đánh giá mang tính đạo đức đối với chủ thể (cá nhân, cộng đồng) trước nghĩa vụ, trách
nhiệm đất nước đặt ra.
Trong tư duy, tình cảm của người Việt Nam, khái niệm “yêu nước” có liên quan
đến khái niệm “đất” và “nước”. Tư duy “nước” đi vào tâm thức người Việt Nam một
cách tự nhiên (Trần Quốc Vượng). Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng khác với nhiều
dân tộc khác, “nước” là khái niệm thuần túy của người Việt có từ xa xưa, xuất phát từ
địa lý tự nhiên vùng sông nước và từ điều kiện canh tác đặc thù của trồng lúa nước.
Cùng với từ “đất”, từ “nước” và “đất nước” dần dần được dùng với nghĩa bóng quan
trọng hơn, là để chỉ vùng đất, khu vực thuộc về một cộng đồng sinh sống, cư trú, làm
chủ. Đất nước, hay Tổ quốc, Quốc gia… đều mang hàm nghĩa chung như vậy.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa “nước” và “nhà” trong khái niệm “quốc gia” còn tùy
thuộc vào truyền thống mỗi dân tộc (văn hóa Trung Hoa truyền thống đề cao gia đình,
dòng họ, thậm chí “gia” nhiều khi cao hơn “quốc”). “Nước” hay “Đất nước” là cách gọi
thuần Việt, mang tính cộng cảm, nằm trong cơ tầng sâu sắc của văn hóa Việt Nam,
thăng hoa trong tâm thức thành “Tổ quốc”; còn “Quốc gia” (Nhà nước) là cách gọi theo
từ Hán Việt-mang ý nghĩa như một khái niệm chính trị nhiều hơn.
Phẩm chất yêu nước trong quan niệm của người Việt được hình thành trên cơ sở
nhận thức những mối quan hệ mật thiết:
- Về phương điện thiên nhiên, địa lý: nước chỉ non sông, giang sơn gấm vóc, chỉ


lãnh thổ với biên giới, cương vực rạch ròi, chỉ đất nước.
- Nước chỉ cộng đồng người: những tộc người sống trên đó và quan hệ giữa họ với
nhau, chỉ dân tộc và sự đoàn kết giữa các dân tộc. Dân tộc, nhân dân, hay đồng bào
(như người Việt Nam quan niệm), là những con người nắm chủ quyền trên lãnh thổ của
mình.
- Từ con người - hình thành nên gia đình, xã hội với thiết chế chính trị, kinh tế, bởi
vậy, nước còn bao gồm cả làng xã, quê hương, quốc gia, tổ quốc, các tầng lớp, giai cấp
với những chế độ chính trị xã hội nhất định trong từng thời kỳ lịch sử.

1


- Nước còn bao gồm cả những phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thống, lịch sử
… đó chính là văn hóa 27.
1.2. Nội dung phẩm chất yêu nước
Xuất phát từ quan niệm đất nước, tổ quốc trong phẩm chất yêu nước Việt Nam bao
gồm tổng hòa của những yếu tố: đất nước, dân tộc, con người, nhân dân, đồng bào, quê
hương, tổ quốc, văn hóa (ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lịch sử truyền thống)…, nên
yêu nước tức là yêu tất cả những cái nói trên trong một thể thống nhất.
- Phẩm chất yêu nước xuất phát và gắn với ý thức cộng đồng. Ý thức cộng đồng của
người Việt Nam được hình thành khá sớm do điều kiện phải đoàn kết để chống thiên tai
và địch họa (tổng cộng người Việt Nam có hơn 12 thế kỷ chống giặc ngoại xâm). Ý
thức cộng đồng dần dần được này nở trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái những
người có công với đất nước (chống giặc ngoại xâm, truyền nghề); được vun đắp thành
giá trị thần trong huyền sử cội nguồn Con Rồng cháu Tiên. Yêu nước gắn liền với
thương nòi, là biểu hiện của tình cảm yêu thương của những con người cùng chung một cội.
- Phẩm chất yêu nước có nội dung cụ thể: yêu quê hương, đất nước, tổ quốc mình;
yêu con người, dân tộc, nhân dân, đồng bào mình; yêu thuần phong, mỹ tục cùng những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Yêu nước ở Việt Nam gắn liền với thương nòi. Yêu
nước vừa là cảm tính vừa là lý tính. Yêu nước là tình cảm về quê hương, đất nước, đồng

bào mình, tình cảm đó xuất phát từ sự hiểu biết của lý trí. Yêu nước không chỉ thể hiện
ở tình cảm, mà còn bằng hành động (có khi hy sinh cả tính mạng) để bảo vệ đất nước,
bảo giống nòi, phát huy, phát triển tình yêu nước lên một tầm cao mới, bảo vệ độc lập
dân tộc trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Phẩm chất yêu nước của người phụ nữ Việt Nam hiện đại là kết quả của quá trình
kế thừa và phát huy, sáng tạo các giá trị yêu nước trong những điều kiện lịch sử mới.
2. Phẩm chất yêu nước của phụ nữ Việt Nam hiện thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước
Trong bối cảnh mới của lịch sử đất nước, người phụ nữ Việt Nam đang đứng trước
những thời cơ và thách thức mới. Phẩm chất yêu nước của phụ nữ Việt Nam được xác
định trên cơ sở vai trò và nhiệm vụ mới: người phụ nữ Việt Nam phải là người lao động
sáng tạo của thế kỷ khoa học tiên tiến và là người công dân tích cực, chủ động trong các
hoạt động xã hội, làm tròn chức năng nuôi dạy thế hệ trẻ, chủ nhân đích thực của thế kỷ
XXI.
Trong truyền thống, người phụ nữ yêu nước là yêu non sông, đất nước, yêu dân tộc,
yêu con người, nhân dân, đồng bào, yêu quê hương, quốc gia, Tổ quốc, bảo tồn, củng
cố, phát huy, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc... Ngày nay, phẩm chất yêu nước không
chỉ là những biểu hiện có tính chất cảm tính, mà yêu nước phải phát triển lên một trình
độ mới, chất lượng mới, vươn tới trình độ lý tính. Phẩm chất yêu nước của người phụ
nữ Việt Nam hiện đại bao gồm những nội dung sau:
27

Đề tài khoa học cấp Bộ “Sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống ở Hồ
Chí Minh. Sự vận dụng của Người trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước”, PGS. Nguyễn
Hùng Hậu chủ nhiệm, 2005, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

2


- Yêu nước là yêu dân tộc, yêu nhân nhân dân, cộng đồng;

- Yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”;
- Yêu nước phải sáng tạo, có ý chí vươn lên vượt khó, làm giàu cho đất nước;
- Yêu nước là phát huy lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong thời đại mới;
- Yêu nước phải nâng cao tinh thần tự hào dân tộc, giữ gìn phát triển văn hóa dân
tộc;
- Yêu nước là làm bạn với nhân dân thế giới, vì lợi ích của nhân loại;
- Yêu nước, hơn ai hết, người phụ nữ tích cực tham gia thực hiện bình đẳng giới.
Tất cả những phẩm chất yêu nước đó không tách rời nhau mà có mối quan hệ
gắn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất, trong đó có sự hài hòa giữa lý trí và cảm
tính, tư tưởng và tình cảm, suy nghĩ và hành động, nói và làm. Sau đây là những nội
dung cụ thể phẩm chất yêu nước của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới.
2.1. Yêu nước là phát huy tình yêu đối với dân tộc, nhân dân, yêu thương con
người
Tình yêu dân tộc mình, nhân dân mình và yêu những con người xung quanh mình là
tình yêu được bắt nguồn từ truyền thống “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong
một trong một nước phải thương nhau cùng”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn”; “Lá lành đùm lá rách”; “Chị ngã em nâng”.... Tình
yêu thương đó đã gắn kết dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thương yêu con người, sống có tình
nghĩa là phẩm chất, đạo đức quan trọng của con người Việt Nam. Người nói, tình yêu
thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những
người bị áp bức, bị bóc lột không phân biệt nòi giống, dân tộc. Người cho rằng nếu
không có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói
đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tình thương yêu con người phải được thể
hiện trong cuộc sống hàng ngày đối với nhân dân, đối với đồng chí, bè bạn, anh em.
Người phụ nữ yêu nước trong thời đại ngày nay là người phải biết phát huy truyền
thống yêu thương gắn bó giữa bản thân mình với gia đình và Tổ quốc. Tinh thần yêu
nước của con người Việt Nam nói chung và phụ nữ Việt Nam hôm nay nói riêng là phải
ra sức đóng góp vào việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đẩy mạnh sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền dân tộc. Yêu
thương nhân dân, yêu thương con người đòi hỏi người phụ nữ quan tâm đến đời sống
cộng đồng, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho toàn xã hội, quan tâm
giúp nhau làm giàu, quan tâm tới việc xóa đói giảm nghèo, quan tâm đến những người
có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội. Người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay cần phải cố
gắng khắc phục tính ích kỷ, vụ lợi chỉ biết vun vén cho cá nhân và gia đình mình, dẫn
đến sự đối lập lợi ích các nhân, gia đình với lợi ích cộng đồng và xã hội-căn bệnh
thường diễn ra trong cơ chế thị trường. Đây là một trong những phẩm chất yêu nước
quan trọng của người phụ nữ hiện đại.

3


2.2. Yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, hướng đến mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Phẩm chất yêu nước của người phụ nữ trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải
được thể hiện trong vai trò người chủ đất nước, phát huy hết nội lực thi đua yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, tham gia những phong trào cách mạng sáng tạo, thực hiện tốt mục
tiêu mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Những hoạt động
của người phụ nữ nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng về phát triển đất
nước. Trước hết, người phụ nữ phải góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
và mở rộng hội nhập kinh tế để đưa nước ta vượt qua mọi khó khăn từng bước tiến lên
CNXH một cách vững chắc, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp hiện đại.
Phẩm chất yêu nước của phụ nữ phải được thể hiện cụ thể trong phong trào thi đua
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặc biệt là trong phát triển kinh tế và trong xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về vai trò của phụ nữ: “Non sông gấm vóc Việt
Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Yêu nước
trong bối cảnh hiện nay đặc biệt phải gắn liền với độc lập tự chủ và ý chí tự cường dân

tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập về kinh tế có hiệu quả. Ngược lại,
đó là cơ sở cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chính vì vậy, để xây dựng
đất nước và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta không thể trông chờ vào sự giúp đỡ, hay ỷ lại vào
bất cứ ai. Người phụ nữ yêu nước là người biết đem hết tinh thần và nghị lực, sức
mạnh, tài năng cùng cộng đồng dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc, gắn độc lập dân tộc
với CNXH, giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển đất nước, góp phần
đoàn kết dân tộc thành một khối thống nhất, cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh.
2.3. Yêu nước là phải làm giàu cho đất nước, cho gia đình và bản thân
Nhiệm vụ trọng tâm của nhân dân ta trong giai đoạn 2011-2020 là CNH, HĐH đất
nước, nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nạn, lạc hậu, vươn lên trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân dân ta có đời sống ấm no, hạnh
phúc là nguyện vọng ngàn đời của cha ông ta và của chúng ta hôm nay. Đó cũng là hoài
bão mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ lâu hướng tới: Nước độc lập, dân phải được hưởng
hạnh phúc, tự do.
Trước đây, khi đất nước bị kẻ ngoại xâm thống trị thì yêu nước là đấu tranh giành
lại độc lập dân tộc. Ngày nay, khi đất nước đã sạch bóng kẻ thù thì yêu nước không chỉ
là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc mà còn phải xây dựng đất nước giàu mạnh. Đất
nước giàu mạnh mới có thể giữ vững nền độc lập và nhân dân mới được hạnh phúc, tự
do. Vì vậy, phẩm chất yêu nước trong thời đại ngày nay là phải làm giàu cho đất nước,
cho gia đình và cho bản thân.
Chúng ta thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
trong đó bao hàm cả sự giàu có của mỗi gia đình và của mỗi con người về đời sống vật
chất và đời sống tinh thần. Mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc nằm
trong mục tiêu chung của đất nước. Vì vậy, yêu nước là làm giàu cho đất nước, gắn liền
với làm giàu cho gia đình và cho chính bản thân mỗi người phụ nữ.
4


Người phụ nữ trong thời đại ngày nay cần ý thức rõ được sự chuyển đổi nội dung
phẩm chất yêu nước mới trước yêu cầu mới của thời đại, của đất nước đặt ra. Đồng thời

cũng nhận rõ mối quan hệ giữa việc làm giàu cho đất nước, cho gia đình và cho bản
thân mình. Làm giàu cho đất nước là nền tảng cho sự làm giàu của mỗi gia đình, ngược
lại, sự giàu có của mỗi gia đình đóng góp vào sự thịnh vượng của đất nước. Đất nước
thịnh vượng, gia đình giàu có tạo tiền đề cho cuộc sống tốt đẹp của mỗi con người. Đó
cũng là niềm khao khát của những người nữ chủ nhân của đất nước, của mỗi gia đình.
2.4. Yêu nước là nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong thời đại mới
Từ trong sâu thẳm lòng yêu nước của người phụ nữ Việt Nam, là niềm tự hào về
giang sơn, về truyền thống lịch sử vẻ vang, về nền văn hóa dân tộc. Lòng tự hào, tự tôn
dân tộc không chỉ biểu hiện ở lòng căm thù giặc khi Tổ quốc bị xâm lăng, trong hòa
bình xây dựng đất nước, cần thấy được nỗi nhục của sự nghèo nàn, tụt hậu so với các
quốc gia khác. Niềm tự hào về đất nước là cơ sở tạo nên lòng tự tôn dân tộc, tính tự
trọng công dân của người phụ nữ trong giai đoạn mới. Người phụ nữ yêu nước phải
phấn đấu góp phần làm cho đất nước giàu đẹp.
Người phụ nữ yêu nước cần nêu cao lòng tự hào về văn hóa dân tộc, giữ gìn và phát
huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trước bạn bè quốc tế. Không chỉ quảng bá
hình ảnh dân tộc với bạn bè quốc tế, mà còn phải phê phán những hiện tượng quay lưng
lại với giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc. Không chỉ phê phán những kẻ làm xấu đi
thuần phong, mỹ tục của dân tộc, của phụ nữ Việt Nam và hiện tượng bắt chước văn
hóa nước ngoài một cách nô lệ; mà còn phải biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị mới
tốt đẹp từ bên ngoài để làm đẹp cho văn dân tộc trong giai đoạn mới.
Thực tế hiện nay, có hiện tượng chị em phụ nữ, đặc biệt là giới trẻ đã chạy theo lối
sống thực dụng, buông thả…do ảnh hưởng từ văn hóa bên ngoài. Trong đó có một số
chị em vì tiền, đã biến quan hệ hôn nhân, thân xác của mình thành “hàng hóa”, nô lệ
tình dục, nhất là với người nước ngoài. Điều đó đã làm xấu đi phẩm giá của người phụ
nữ Việt Nam. Vì vậy xã hội, gia đình và chính bản thân người phụ nữ phải nâng cao
lòng tự hào, tự tôn dân tộc tìm cách khắc phục những hiện tượng tiêu tực nói trên.
2.5. Yêu nước là góp phần xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc
Người phụ nữ mới Việt Nam phải có sự phát triển về thể lực, trí lực và tình cảm, có
lý tưởng và nhiệt tình cách mạng, trung thành với sự nghiệp đổi mới, có kỹ năng lao
động và sáng tạo, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, đáp

ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu vì
xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các phẩm chất cơ bản của
người phụ nữ Việt Nam mới cần xây dựng là con người công dân, con người khoa học
và con người nhân văn. Đề cao việc xây dựng ý thức công dân, tinh thần tôn trọng và
làm theo Hiến pháp và pháp luật; nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; đề
cao các giá trị nhân văn, hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp trong hoạt động thực tiễn
của mình.
Người phụ nữ yêu nước phải góp phần xây dựng đời sống văn hóa và môi trường
văn hóa thông qua đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động toàn dân

5


đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đẩy mạnh việc xây dựng môi trường văn hóa
trong tổ chức đảng và cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội, trong các doanh
nghiệp, trong gia đình và trong cộng đồng dân cư. Xây dựng nếp sống văn minh trong
xã hội, nhất là nơi công cộng. Người phụ nữ phải phát huy vai trò to lớn của mình trong
xây dựng văn hóa gia đình, tạo môi trường tốt để giáo dục những thế hệ công dân mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI đã nhấn mạnh: “Đưa phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu
quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình (…) sớm có chiến lược quốc gia về
xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống
của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ”28.
2.6. Yêu nước là làm bạn với nhân dân thế giới, vì lợi ích của nhân loại
Coi trọng tình cảm đối với cộng đồng quốc tế là truyền thống của người Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng, tình cảm ấy được nâng lên thành tinh thần quốc tế vô sản,
đã trở thành phẩm chất, yêu cầu đạo đức của mỗi người Việt Nam trong mối quan hệ
rộng lớn, vượt qua phạm vi quốc gia, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền
móng cho tinh thần đoàn kết của dân tộc ta với nhân dân dân thế giới, đã nhấn mạnh:
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất, đạo đức quan trọng của đạo đức cộng

sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa quốc tế bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân. Đó là
sự hiểu biết, tôn trọng, đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên thế giới, chống lại mọi chia rẽ
thù hằn, bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, bá quyền. Giúp bạn, chính là giúp mình.
Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập, dân
chủ và tiến bộ.
Trong giai đoạn mở cửa đổi mới hiện nay, nước ta chủ trương làm bạn với các nước
trên thế giới, mở rộng hợp tác, đầu tư để phát triển. Do vậy, chúng ta không chỉ vì lợi
ích của mình mà còn phải quan tâm đến lợi ích của các quốc gia, dân tộc khác. Vì lợi
ích của người khác cũng chính là vì lợi ích của mình. Độc lập, tự chủ không có nghĩa là
“đứng một mình” (Hồ Chí Minh). Chúng ta phải tham gia vào nhiều công việc mà nhân
loại cần giải quyết hiện nay. Đó là việc bảo vệ hòa bình thế giới, chống đói nghèo,
chống ô nhiễm môi trường, khắc phục thiên tai dịch bệnh... Đây là một nội dung mới
của phẩm chất yêu nước và cũng là sự phát triển lên tầm cao mới của chủ nghĩa yêu
nước trong thời đại toàn cầu hóa.
2.7. Yêu nước là phát huy vai trò của giới (phụ nữ)
Đất nước đang bước vào thế kỷ mới với những thời cơ và thách thức mới. Trong bối
cảnh đó, phẩm chất yêu nước của người phụ nữ Việt Nam phải được thể hiện ở sự nhận
thức về vai trò của chính mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Trước hết, người phụ nữ Việt Nam cần chủ động trong việc khẳng định vai trò, vị
thế, quyền lợi và trách nhiệm của mình trước yêu cầu mới của đất nước. Trong đó quan
trọng nhất là nhận thức về “Sự tiến bộ của phụ nữ gắn liền với sự phát triển của đất
nước”. Phẩm chất yêu nước, ý chí vươn lên của người phụ nữ phải được phát huy với cả

28

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2010, Tr. 223.

6



ba tư cách: là người chủ nhân nữ, là người công dân nữ (đối với đất nước), và là người
mẹ, người vợ (đồng làm chủ trong gia đình).
Phụ nữ Việt Nam đang sống trong một thời đại mà vấn đề bình đẳng giới được đưa
vào chính sách, chiến lược phát triển của quốc gia.
Vấn đề giới liên quan đến khả năng sáng tạo của chủ thể cả trên phương diện nhận
thức, giá trị, và cả hoạt động thực tiễn, nên chị em phải nhận thức được về bản chất của
giá trị bình đẳng giới nhằm phát huy nguồn lực con người trong quá trình phát triển,
vừa là giá trị của phát triển toàn diện con người. Từ nhận thức đó, sự tham gia của chị
em phụ nữ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội là thể hiện sự bình đẳng giới (lĩnh vực
chính trị, lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực lao động và việc làm, lĩnh vực giáo dục- đào tạo,
lĩnh vực y tế, lĩnh vực gia đình...). Để tham gia thực hiện bình đẳng giới, chị em không
những phải thay đổi về mặt nhận thức, mà bản thân mình cũng phải khắc phục tâm lý tự
ti, mặc cảm. Tự tin, cố gắng vươn lên với tinh thần tự khẳng định địa vị của PN sẽ giúp
chị em có thể đóng góp nhiều nhất trong khả năng của mình cho xã hội, cho tương lai.
Tham gia thực hiện bình đẳng giới là một nét mới của phẩm chất yêu nước của phụ
nữ trong thời đại mới, khẳng định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng đất nước phát triển vì mục tiêu xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC PHẨM CHẤT
YÊU NƯỚC CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc và truyền thống
yêu nước của phụ nữ Việt Nam
Các biện pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước truyền thống có thể tiến hành thông qua
các hoạt động kỷ niệm, hoạt động giáo dục, hoạt động truyền thông, hoạt động thi
đua...tạo nên những đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, hội viên và các tầng
lớp phụ nữ.
Các hoạt động trên nhằm ôn lại chặng đường vẻ vang của dân tộc, của Đảng và
truyền thống của phụ nữ Việt Nam; phát huy hơn nữa lòng yêu nước, yêu CNXH, củng
cố, tăng cường niềm tin của nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng vào đường lối lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, các hoạt động này cũng gắn với việc tuyên
truyền những thành tựu của đất nước qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh

Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 - 2011) và thực hiện Nghị
quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận vai trò tích cực,
khả năng và những cống hiến to lớn của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước. Những phẩm chất yêu nước của phụ nữ Việt Nam cần được phát huy để
xây dựng đất nước trong điều kiện mới.
3.2. Tích cực chuyển đổi, bổ sung nội dung mới trong phẩm chất yêu nước
Trong mỗi thời đại khác nhau, môi trường kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá có sự
thay đổi khác nhau, cho nên phẩm chất yêu nước của dân tộc nói chung, của phụ nữ nói
riêng có sự chuyển đổi nội dung. Nếu trước đây yêu nước là đấu tranh dành lại độc lập
cho dân tộc với ý chí “không có gì quý hơn độc lập, tự do” thì ngày nay yêu nước là
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh. Nếu trước đây phẩm
7


chất hàng đầu của người phụ nữ Việt Nam là “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang” thì ngày nay tiêu chí phấn đấu của phụ nữ là: “Có lòng yêu nước, có sức khỏe, có
tri thức, có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng
nhân hậu”. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục cần hướng đến sự hình thành, phát
triển các phẩm chất đó (phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc, phụ nữ giúp nhau làm giàu, thực hiện bình đẳng giới...), đồng thời xóa bỏ
những quan niệm bảo thủ lạc hậu, hạn hẹp của xã hội cũ đối với người phụ nữ.
3.3. Tiếp nhận những phẩm chất yêu nước chân chính của các dân tộc trên thế giới
Chủ động giao lưu, hợp tác quốc tế là một yêu cầu tất yếu để xây dựng và phát triển
văn hoá, phát triển những phẩm chất yêu nước của con người Việt Nam hiện đại. Chúng
ta cần tìm hiểu, nghiên cứu những phẩm chất tốt đẹp, tiến bộ và nhân văn của các dân
tộc khác. Qua đó, tiếp thu có chọn lọc các giá trị yêu nước, học tập những kinh nghiệm
tốt về giáo dục phẩm chất yêu nước chân chính của các dân tộc trên thế giới. Đồng thời,
chúng ta phải làm tốt việc giới thiệu văn hóa, phẩm chất yêu nước của con người Việt
Nam, của phụ nữ Việt Nam với thế giới.
Tăng cường tuyên truyền về hoạt động quốc tế của các cấp hội phụ nữ, đặc biệt về

tình đoàn kết hữu nghị, mối quan hệ hợp tác giữa phụ nữ Việt Nam với phụ nữ các
nước trong khối ASEAN, trong khu vực châu Á và phụ nữ trên thế giới. Mở rộng giao
lưu văn hoá, tiếp thu tinh hoa phẩm chất yêu nước của nhân loại phải gắn liền với việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phẩm chất yêu nước của dân tộc, phát triển
phẩm chất yêu nước Việt Nam lên tầm cao mới để góp phần bảo vệ, gìn giữ và làm
phong phú cho nền văn hóa nhân loại.
3.4. Tôn vinh những tấm gương yêu nước của phụ nữ
Giáo dục phẩm chất yêu nước của phụ nữ VN thông qua thể hiện sự tri ân đối với
các thế hệ phụ nữ, các thế hệ cán bộ Hội. Tuyên truyền các gương tập thể, cá nhân điển
hình tiêu biểu trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và trong cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phong
trào PN nhằm tôn vinh và khuyến khích chị em phát huy hơn nữa tài năng của mình để
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời khẳng định vai trò
và vị thế của tổ chức Hội cũng như của phụ nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
3.5. Gắn kết lợi ích của độc lập dân tộc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa với lợi
ích và sự tiến bộ của phụ nữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nước độc lập dân phải được hưởng hạnh phúc, tự
do, nếu không thì độc lập, tự do không có ý nghĩa gì”. Muốn phát huy, phát triển phẩm
chất yêu nước của phụ nữ Việt Nam trong thời đại CNH, HĐH chúng ta cần gắn lợi ích
của dân tộc (độc lập) với lợi ích của nhân dân nói chung và của phụ nữ nói riêng. Tức là
phải quan tâm đến sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ. CNH, HĐH
phải nâng cao đời sống và sự công bằng, tiến bộ cho toàn xã hội, trong đó có PN, khắc
phục mặt trái của CNH, HĐH, của cơ chế thị trường và các biểu hiện tiêu cực hiện nay
(tham nhũng, lãng phí, mất dân chủ, bất bình đẳng nam nữ...). Có như vậy chúng ta mới
làm cho phẩm chất yêu nước tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam, phụ nữ Việt Nam

8


bộc lộ ra đời sống hàng ngày, trong lao động, công tác, chiến đấu, học tập... Từ đó nâng

cao tình thần yêu nước lên một trình độ mới, góp phần thực hiện CNH, HĐH đất nước.
3.6. Giáo dục ý thức về bình đẳng giới
Hạn chế sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ chính là lực cản sự tiến lên của xã hội.
Để phát triển đất nước, phải phát huy được sức mạnh của chủ thể nam và nữ trong các
hoạt động. Để người phụ nữ phát huy được phẩm chất yêu nước trên phương diện tham
gia thực hiện bình đẳng giới, trong công tác giáo dục cần chú ý:
- Giáo dục nhằm khắc phục hạn chế nhận thức về giới và sự “mù giới”, khai thác
giáo dục các giá trị bình đẳng giới trong văn hoá truyền thống, nghiên cứu bổ sung nội
dung giá trị bình đẳng giới trong giai đoạn phát triển nền kinh tế tri thức, để xây dựng
nội dung trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước đối với chị em.
- Các chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước phải bảo đảm được sự gắn
kết giữa phát triển văn hoá (trong đó có bình đẳng giới) và phát triển kinh tế-xã hội, xây
dựng và phát triển con người toàn diện. Tham gia thực hiện bình đẳng giới là nội dung
quan trọng của giáo dục phẩm chất yêu nước đối với phụ nữ Việt Nam.
- Góp phần hoàn thiện lý luận về giới và mở rộng sự tham gia của giới và phát triển
vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu giới từ góc
độ giá trị: là một trong những cơ sở để các dự án, chương trình phát triển ở mọi lĩnh
vực, bộ, ngành, địa phương trong cả nước, triển khai theo xu thế chủ đạo giới (lồng
ghép giới). Đây cũng chính là góp phần thực hiện quan điểm của Đảng: làm cho văn
hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn kết giữa phát triển văn hoá và
phát triển kinh tế-xã hội.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới, xét cho cùng là nhằm xây
dựng con người VN thấm sâu chủ nghĩa yêu nước VN. Yêu nước của con người Việt
Nam, của phụ nữ Việt Nam hôm nay được biểu hiện ở lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân
tộc sâu sắc; có hoài bão, khát vọng, ý chí thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh", vững bước đi lên CNXH; sẵn sàng làm mọi việc vì dân, vì
nước, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Yêu nước gắn liền với CNXH. Cùng
với việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ giáo dục chủ nghĩa yêu nước, phải
xây dựng môi trường văn hoá trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Các tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội phải phát huy được vai trò của mình trong việc

giáo dục thường xuyên chủ nghĩa yêu nước và CNXH cho các thế hệ người Việt Nam.
II. Ý THỨC TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
1. QUAN NIỆM VỀ Ý THỨC TRÁCH NHIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Quan niệm về ý thức trách nhiệm
Thuật ngữ “ý thức trách nhiệm” được tạo nên bởi hai khái niệm “ý thức” và “trách
nhiệm”, để hiểu rõ nội hàm thuật ngữ này cần làm rõ nghĩa của khái niệm “ý thức” và
“trách nhiệm”.

9


1.1.1. Khái niệm ý thức
Theo từ điển Tiếng Việt, khái niệm “ý thức” có hai nghĩa: nghĩa danh từ và nghĩa
động từ.
- Nghĩa danh từ của khái niệm “ý thức” là: khả năng phản ánh và tái hiện hiện thực
vào trong tư duy; cái người ta nhận biết được trong tư duy. Chẳng hạn, vật chất và ý
thức là hai phạm trù cơ bản của triết học; giáo dục ý thức LĐ, nâng cao ý thức kỷ luật…
- Nghĩa động từ của khái niệm “ý thức” là: Hoạt động nhận thức, hành vi nhận thức.
Chẳng hạn, chị ấy ý thức được công việc mình đang làm; anh ta đã ý thức được công
lao của vợ mình…
Ở chuyên đề này, chúng tôi dùng nghĩa động từ của khái niệm ý thức, đề cập đến
việc người phụ nữ Việt Nam hiện nay nhận thức được trách nhiệm của mình đối với gia
đình và xã hội.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm
Khái niệm “trách nhiệm” được cấu tạo bởi hai từ “trách” và “nhiệm”
- Trách là phận sự phải làm
- Nhiệm (nhận) là gánh vác công việc phải làm.
Do vậy, nghĩa của khái niệm “trách nhiệm” là gánh vác công việc, nhiệm vụ, chức

năng phải làm hoặc được giao phó, phải hoàn thành công việc, nhiệm vụ, chức năng đó
(nếu không hoàn thành thì phải chịu hậu quả - chịu trách nhiệm).
1.1.3. Thuật ngữ ý thức trách nhiệm
Từ nghĩa của hai khái niệm “ý thức” và “trách nhiệm” như trên có thể hiểu nội dung
của thuật ngữ “ý thức trách nhiệm” là nhận thức được công việc, nhiệm vụ, chức năng
của mình phải làm và phải hoàn thành tốt công việc, nhiệm vụ, chức năng đó.
Ý thức trách nhiệm của người phụ nữ đối với gia đình và xã hội chính là phải nhận
thức được vai trò, nhiệm vụ, chức năng của mình đối với gia đình và xã hội, phải làm
tốt vai trò, nhiệm vụ, chức năng đó.
1.2. Vai trò của ý thức trách nhiệm của người phụ nữ Việt Nam đối với gia
đình và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Vai trò của ý thức trách nhiệm của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước được đặt ra vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại, có ý
nghĩa vô cùng to lớn đối với ga đình và xã hội và đối với chính người phụ nữ. Ý thức
trách nhiệm của người phụ nữ đối với gia đình và xã hội hiện nay vừa là niềm hạnh
phúc, vừa là niềm tự hào vừa là một thách thức và cả sức ép đối với phụ nữ.
1.2.1. Ý thức trách nhiệm đối với gia đình
Việc xây dựng gia đình tiến bộ, no ấm, hòa thuận và hạnh phúc là một yêu cầu to
lớn của mỗi gia đình, mỗi con người và cả xã hội ở nước ta hiện nay trong quá trình
CNH, HĐH đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm gia đình là “tế bào” của xã
hội, gia đình lành mạnh thì xã hội lành mạnh và phát triển bền vững. Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ XI đã đặt ra nhiệm vụ: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây
10


dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của
văn hóa, của con người Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ”29. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Gia đình là hạt nhân” của xã hội, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải xây dựng hạt nhân cho tốt”. Nhìn từ chiều sâu đạo đức, tinh thần thì gia đình đúng
là hạt nhân của xã hội. Do vậy, ý thức trách nhiệm đối với gia đình là nhận thức được

nhiệm vụ, chức năng của mỗi người trong việc xây dựng gia đình của mình theo tiêu chí
tiến bộ, no ấm, hòa thuận và hạnh phúc. Ý thức trách nhiệm với gia đình đặt ra đối với
toàn xã hội, đối với mọi thành viên của mỗi gia đình, trong đó đối với người phụ nữ
(người mẹ, người vợ, người con) có ý nghĩa vô cùng to lớn. Bởi người phụ nữ trong gia
đình là người đồng làm chủ gia đình, người có thiên chức làm vợ, làm mẹ giữ vai trò
mang tính quyết định trong cuộc sống và hạnh phúc của gia đình.
Ý thức trách nhiệm đối với gia đình của người phụ nữ cũng đồng thời là ý thức
trách nhiệm đối với chính cuộc sống và hạnh phúc của người phụ nữ.
Ý thức trách nhiệm đối với gia đình của người phụ nữ thể hiện quyền bình đẳng của
người phụ nữ trong gia đình, xác nhận địa vị của phụ nữ và cả phẩm giá của người phụ
nữ đối với gia đình và xã hội.
Ý thức trách nhiệm đối với gia đình trong thời kỳ CHN, HĐH giúp cho người phụ
nữ phát huy truyền thống đảm đang vốn có của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử và
nâng cao hơn nữa những năng lực, phẩm chất, đạo đức của họ trong thời đại mới.
1.2.2. Ý thức trách nhiệm đối với xã hội
Việc xây dựng xã hội Việt Nam trong giai đoạn CNH, HĐH với mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo Cương lĩnh bổ sung và phát triển của
Đại hội Đảng lần thứ XI là một sự nghiệp vô cùng to lớn, cần phát huy cao độ ý thức tự
giác cao của toàn Đảng, toàn dan, toàn xã hội. Trong đó có tinh thần trách nhiệm của
phụ nữ (chiếm hơn 50% dân số của xã hội) và cũng là người được thụ hưởng thành tựu
của sự nghiệp đó.
- Ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH có ý nghĩa
phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng xã hội tốt đẹp, nhân văn, nhân đạo theo ý
tưởng cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã vạch ra.
- Ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH thể hiện
quyền bình đẳng giới và tạo điều kiện thực hiện quyền bình đẳng giới trong xã hội mới
ở nước ta. Đồng thời thực hiện mục tiêu của Chương trình Vì sự tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam hiện nay.
- Ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với gia đình trong thời kỳ CNH, HĐH góp
phần nâng cao địa vị xã hội của người phụ nữ: Ngày nay, phụ nữ Việt Nam không chỉ

“đảm đang” việc nhà, việc nước mà vươn lên “đảm nhiệm” nhiều công việc to lớn,
nhiều trọng trách của xã hội. Đây là một niềm vinh dự, tự hào song cũng là những đòi
hỏi sự vượt qua nhiều khó khăn, thử thách lớn lao.

29

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI…Sđd, Tr. 223

11


- Ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH cũng như
ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với gia đình giúp cho người phụ nữ không chỉ phát
huy cao hơn nữa truyền thống “đảm việc nước” của mình trong lịch sử dân tộc mà còn
tạo nên những phẩm chất, đạo đức mới của người phụ nữ hiện đại.
Ý thức trách nhiệm đối với gia đình và đối với xã hội luôn luôn gắn bó với nhau.
Làm tốt trách nhiệm gia đình cũng là làm tốt trách nhiệm với xã hội, ngược lại làm tốt
trách nhiệm với xã hội thì cần phải làm tốt trách nhiệm với gia đình. Đây là mối quan
hệ biện chứng, sự tác động qua lại giữa người phụ nữ với gia đình và xã hội ngày nay,
trong xã hội hiện đại đòi hỏi cao hơn. Chúng ta có thể mô hình hóa mối quan hệ này
như sau:
Người phụ nữ

Người PN và
trách nhiệm
GĐ, XH

Gia đình

Xã hội


Như vậy, ý thức trách nhiệm đối với gia đình và xã hội của người phụ nữ Việt Nam
hiện nay có vai trò vô cùng to lớn đối với đất nước, đối với xã hội và đối với chính hạnh
phúc, quyền lợi, địa vị cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
2. NỘI DUNG Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CỦA PHỤ NỮ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH
VÀ XÃ HỘI HIÊN NAY
2.1. Biểu hiện của ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với gia đình
Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống gia đình trong thời kỳ CNH, HĐH
và hội nhập, giao lưu văn hóa, trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình cũng
đang có những thay đổi lớn lao. Người phụ nữ ngày nay với tư cách là người mẹ, là
công dân của xã hội có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của gia đình hướng tới
mục tiêu: no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Song, họ cũng cần ý thức được những thách thức
đang đặt ra để thực hiện trách nhiệm với gia đình một cách chủ động.
2.1.1. Phụ nữ với trách nhiệm thực hiện chức năng sinh sản và tái sản xuất ra
con người
Ý nghĩa duy trì nòi giống để xã hội được tiếp tục tồn tại và phát triển cho thấy tầm
quan trọng của việc thực hiện chức năng sinh đẻ và tái sản xuất ra con người. Phụ nữ có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người, xét cả 2
phương diện là sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Ngày nay, trách nhiệm này không chỉ đơn
thuần là sinh con để duy trì nòi giống như quan niệm trước đây, mà cần được nhìn nhận
từ góc độ mới. Một loạt những câu hỏi đặt ra mà người phụ nữ cần phải tìm được câu
trả lời: Khi nào sinh con sẽ là tốt nhất? Làm thế nào để có thể sinh ra những đứa con
thông minh, khỏe mạnh? Làm thế nào để có thể chủ động và có kế hoạch chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để sinh con? Điều này đòi hỏi người phụ nữ phải có kiến thức, phải

12


biết học hỏi kinh nghiệm và sự chủ động từ chính mình. Thực tế cũng cho thấy, trong
khi bản thân người phụ nữ trong gia đình thường là không tự quyết định được một mình

những vấn đề hệ trọng này, điều quan trọng là người phụ nữ cần biết cách thương
thuyết, bàn bạc với người chồng, và các thành viên trong gia đình để tìm kiếm sự ủng
hộ. Ý thức được điều này sẽ giúp phụ nữ tìm ra những cách thức hữu hiệu phù hợp với
từng hoàn cảnh của mỗi gia đình.
2.1.2. Phụ nữ với trách nhiệm chăm sóc và giáo dục con cái trong gia đình
Trong sự phát triển của gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội, vai trò của phụ
nữ trong việc chăm sóc và giáo dục con cái luôn giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Tầm
quan trọng này không chỉ xuất phát từ vị trí đặc biệt của chức năng giáo dục, xã hội hóa
của gia đình, mà còn vì sự ảnh hưởng của người mẹ tới việc hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ em ngày từ buổi ban đầu khi đứa trẻ “bước vào” quá trình xã hội hóa.
Quan niệm “trời sinh voi, trời sinh cỏ” hoàn toàn không còn phù hợp và cần phải
thay đổi. Trong xã hội hiện đại, dưới tác động của toàn cầu hóa và giao lưu văn hóa,
trách nhiệm của gia đình, nhất là của người PN trong chăm sóc và giáo dục con cái
đang đặt ra nhiều thách thức. Người mẹ cần có kiến thức/tri thức để định hướng phát
triển nhân cách của đứa trẻ một cách toàn diện. Người mẹ cần có phương pháp giáo dục
phù hợp với mỗi độ tuổi của đứa trẻ. Hiểu biết về những tác động tích cực và tiêu cực
của môi trường bên ngoài gia đình đến việc học tập và phát triển của con cái, là yếu tố
hết sức quan trọng giúp người PN có những điều chỉnh, uốn nắn kịp thời đối với con
cái. Ngoài ra, nắm bắt dược tâm tư, tình cảm, biết lắng nghe và chia sẻ những suy nghĩ
và nguyện vọng của con cái cũng rất quan trọng để người phụ nữ “gần” hơn với con cái,
giúp con cái nhận ra rằng, cha mẹ và gia đình là nơi chúng có thể bộc bạch những nỗi
trăn trở, là nơi tìm thấy sự cảm thông và chia sẻ. Bình đẳng, dân chủ và tự do - những
giá trị mới cần vận dụng một cách phù hợp trong phương pháp giáo dục con cái.
Phụ nữ ngày này có nhiều điều kiện để tham gia công việc xã hội. Song lại có một
thực tế là không ít gia đình và phụ nữ đã coi nhẹ việc chăm sóc và giáo dục con cái,
“chuyển giao” toàn bộ trách nhiệm này cho nhà trường và xã hội. Điều này đã dẫn đến
nhiều hệ lụy cho xã hội, như số trẻ em phạm tội, trẻ em lang thang, trẻ em mắc các tệ
nạn xã hội có xu hướng gia tăng. Chính điều này đã cảnh tỉnh chúng ta rằng, dù bất kỳ ở
thời đại nào, thì trách nhiệm chăm sóc và giáo dục con cái của gia đình là trách nhiệm
không thể ủy thác, trong đó phụ nữ là một chủ thể không thể thiếu.

2.1.3. Ý thức trách nhiệm trong tổ chức cuộc sống và gắn kết tình cảm giữa các
thành viên trong gia đình
Dù xã hội ngày nay hiện đại và văn minh hơn rất nhiều, thì quan niệm “gia đình là
tổ ấm” vẫn còn nguyên giá trị. Cuộc sống mang “dấu ấn công nghiệp” và sự cổ vũ thái
quá của giá trị tự do cá nhân đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của nhiều gia
đình, dẫn đến sự “lỏng lẻo, mong manh”, thậm chí là đổ vỡ. Chúng ta hiểu rằng, việc
tiếp nhận giá trị bình đẳng giới tác động đến sự thay đổi vai trò truyền thống của phụ nữ
và nam giới trong GĐ. Song điều đó không có nghĩa là sự hoán đổi vai trò hay người
phụ nữ sẽ không còn thực hiện chức năng chăm lo cuộc sống, tổ chức cuộc sống GĐ.

13


Tổ chức cuộc sống gia đình - đó không chỉ là sắp xếp các công việc gia đình một
cách khoa học, nó còn chứa đựng trong đó trái tim, tình yêu và tình ruột thịt. Sự quan
tâm đến cảm nhận, tình yêu thương và chia sẻ lẫn nhau thì không một xã hội hiện đại
nào có thể thay thể được gia đình. Tổ chức cuộc sống gia đình một cách hợp lý còn có
nghĩa là phụ nữ biết cách thu hút các thành viên khác trong gia đình, nhất là người
chồng chia sẻ công việc và khó khăn trong gia đình, biết tạo điều kiện để phụ nữ được
phát triển. Chúng ta không phủ nhận rằng, cuộc sống hiện đại và những áp lực từ công
việc trong một thế giới đang đổi thay nhanh chóng như hiện nay đang làm cho cả phụ
nữ và nam giới ít có thời gian dành cho gia đình. Đồng thời cũng cần khẳng định rằng,
xã hội hiện đại với nhiều vấn đề phức tạp trong đời sống gia đình và xã hội, vai trò của
gia đình và trách nhiệm của các thành viên lại càng cần được quan tâm hơn bao giờ hết.
Trong gia đình, bên cạnh mối quan hệ tình cảm giữa các thế hệ, thì quan hệ vợ
chồng là một trong những mối quan hệ chịu tác động rất lớn của những thay đổi xã hội
trong quá trình hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa. Vấn đề “chung thủy” đã tốn khá
nhiều giấy mực khi bàn về quan hệ vợ chồng trong xã hội hiện đại. Cách hiểu một chiều
và lệch lạc về tự do cá nhân, về hôn nhân, ly hôn tự nguyện sẽ dễ dẫn đến sự phủ nhận
trách nhiệm và sự “ràng buộc” giữa vợ và chồng, mà hệ lụy của nó là sự tan vỡ của

nhiều gia đình. Người phụ nữ biết tổ chức cuộc sống gia đình và biết gắn kết sợi dây
tình cảm của các thành viên gia đình là người biết lấy các giá trị bền vững của gia đình
làm nền tảng để tiếp nhận những giá trị mới làm cho gia đình phát triển hơn và hạnh
phúc hơn.
2.1.4. Ý thức trách nhiệm đóng góp về kinh tế cho gia đình
Người PN trong giai đoạn hiện nay trở thành một chủ thể quan trọng trong đời sống
kinh tế của gia đình. Cùng với người chồng, người vợ cũng là người tạo thu nhập chính
trong đại bộ phận gia đình VN. Tuy nhiên, dưới những tác động của kinh tế thị trường,
đang có những hiện tượng trở nên thái quá, có nghĩa là từ chỗ PN ít tham gia hoạt động
kinh tế, đến chỗ PN lại dành quá nhiều thời gian cho hoạt động kinh tế, bị cuốn theo
“nhịp sống nhanh” của xã hội hiện đại, mà sao nhãng trách nhiệm với gia đình.
Mặc dù, sự đóng góp về kinh tế cho gia đình là điều kiện quan trọng để người phụ
nữ có tiếng nói và vươn tới một vị trí bình đẳng với người chồng trong gia đình, song
kinh tế không phải là mục đích tự thân, mà là phương tiện để chúng ta hướng tới một
cuộc gia đình hạnh phúc. Thực tế cho thấy sự đổ vỡ của nhiều gia đình lại không phải
xuất phát từ sự nghèo đói. Do vậy, bên cạnh việc tham gia hoạt động kinh tế tạo thu
nhập, người phụ nữ cần ý thức được rằng sự quan tâm, trách nhiệm chăm sóc, nuôi dạy,
giáo dục con cái, trách nhiệm gắn bó tình cảm của các thành viên trong gia đình sẽ là
điều cốt lõi tạo nên một gia đình bền vững.
Người phụ nữ hiện đại cần biết cách cân bằng trách nhiệm gia đình với việc tham
gia các hoạt động kinh tế ngoài xã hội. Bên cạnh đó, cũng cần đổi mới trong quan niệm
về sự “đảm đảng” của người phụ nữ, đó không phải là người phụ nữ tự mình làm tất
thảy mọi việc. Quan niệm đó cũng không nên được hiểu trong “khuôn viên” của gia
đình. Người phụ nữ hôm nay có tri thức nhiều hơn, được độc lập về kinh tế nhiều hơn –
đây là nền tảng quan trọng cho một gia đình được phát triển (hạnh phúc).

14


2.2. Biểu hiện của ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với xã hội

Phân tích mối quan hệ cơ cấu ba cực: cá nhân (phụ nữ) - gia đình - cộng đồng xã
hội - cho thấy trách nhiệm của phụ nữ đối với xã hội cần được hiểu dưới hai chiều cạnh:
Một là, trách nhiệm của phụ nữ với gia đình. Khi người phụ nữ thực hiện trách
nhiệm đối với gia đình có nghĩa là họ đang thực hiện trách nhiệm với xã hội, vì gia đình
là tế bào của xã hội, là “tế bào”, là “hạt nhân” của xã hội. Gia đình có bền vững, phát
triển thì xã hội mới phồn thịnh.
Thứ hai, trách nhiệm của phụ nữ đối với xã hội thông qua sự đóng góp của họ vào
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trách nhiệm này được biểu hiện cụ thể như sau:
2.2.1. Sự tham gia của phụ nữ vào công việc/hoạt động chung của cộng đồng
Ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với xã hội thể hiện thông qua sự tham gia vào đời
sống chính trị-xã hội, trước hết là, ở cộng đồng nơi họ sinh sống. Ở nông thôn cũng như
thành thị, sự tham gia của phụ nữ vào đời sống cộng đồng rất đa dạng từ những sinh hoạt
của cộng đồng (lễ hội, họp thôn/họp tổ dân phố, hưởng ứng các phong trào của các tổ
chức chính trị, xã hôi, tích cực tham gia xây dựng khu dân cư…) đến những sự kiện lớn
hơn (tham gia bầu cử, đóng góp ý kiến cho kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa
phương, chống tham nhũng…). Sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các hoạt động
chung của cộng đồng vừa đáp ứng yêu cầu về dân chủ trong đời sống cộng đồng, vừa
đảm bảo thu hút được tài năng, trí tuệ của một nửa dân số.
Phụ nữ tham gia vào các hoạt động chung của cộng đồng không chỉ đem lại lợi ích
cho cộng đồng, mà bản thân người phụ nữ cũng sẽ được hưởng lợi từ sự tham gia đó.
Trong quá trình này, phụ nữ được tiếp cận với thông tin và kiến thức, nâng cao sự hiểu
biết về pháp luật, chính sách, về những vấn đề còn đang tồn tại trong đời sống của cộng
đồng. Nhu cầu giao lưu, mở rộng mạng lưới và các mối quan hệ, thực hành dân chủ sẽ
giúp phụ nữ hòa nhập tốt hơn vào đời sống xã hội.
Điều quan trọng ở đây là PN cần vứt bỏ quan niệm hoạt động xã hội là công việc
của nam giới. PN cần mạnh dạn trao đổi đóng góp ý kiến vào công việc chung của cộng
đồng, chủ động tham gia xây dựng và tìm hiểu luật pháp, chính sách. Chúng ta hiểu
rằng sự tham gia của PN vào đời sống cộng đồng còn gặp những khó khăn như thiếu
thời gian, do bị cuốn hút vào công việc GĐ và lao động tạo thu nhập, song tính chủ

động trước hết từ phía PN là điều kiện đầu tiên để giúp họ vượt qua những rào cản này.
2.2.2. Thực hiện tốt công việc chuyên môn, nghề nghiệp đã lựa chọn là thể hiện
sự đóng góp thiết thực của phụ nữ cho xã hội
Sự tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội với mức độ khác
nhau, phụ thuộc vào vào đặc thù nghề nghiệp và vị trí công việc của họ. Không phải chỉ
những phụ nữ giữ vị trí, công việc quan trọng mới có đóng góp cho xã hội, mà dù làm
bất cứ công việc gì được pháp luật thừa nhận, người phụ nữ cũng có đóng góp quan
trọng cho sự phát triển của đất nước khi họ làm tốt công việc mà mình đã lựa chọn.
Xã hội hiện đại đã mở rất nhiều cơ hội để phụ nữ được công hiến sức lực và tài
năng của mình. Tuy nhiên, đứng trước những yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới
15


đất nước và xu thế hội nhập quốc tế, người phụ nữ cần có những phẩm chất mới về trí
tuệ và kỹ năng nghề nghiệp. Người phụ nữ không chỉ cần có trình độ học vấn, có kiến
thức mà còn cần có phương pháp làm việc khoa học để đạt được năng suất lao động và
hiệu quả công việc một cách tốt nhất. Năng động sáng tạo là môt yêu cầu mới giúp
chúng ta có kỹ năng xử lý tốt tình huống khó khăn, đem lại kết quả như mong muốn
trong công việc. Trong những điều kiện mới, cần có cách suy nghĩ, cách làm khác
trước; cần vượt qua những cách làm không còn phù hợp. Không ngừng học hỏi với
phương châm học tập suốt đời để công việc luôn đạt được hiệu quả cao nhất – đó chính
là cách chúng ta có đóng góp thiết thực nhất cho xã hội. Những phẩm chất mới này là
không thể thiếu đối với bất kỳ người lao động nào trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Song, đối với người phụ nữ, điều đó càng có ý nghĩa quan trọng, bởi họ cần vượt lên
định kiến giới của xã hội và định kiến của chính mình để hoàn thành tốt công việc mà
họ đã lựa chọn trong bối cảnh của thế giới đầy biến động và những thách thức trong
công việc ngày càng nhiều hơn.
2.2.3. Sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý xã hội
Một bộ phận phụ nữ có đóng góp quan trọng cho xã hội thông qua sự tham gia của
họ vào các ví trí lãnh đạo và quản lý xã hội. Mặc dù, mức độ tham gia của phụ nữ vào

lãnh đạo, quản lý còn rất khiêm tốn so với tiềm năng và sự gia tăng của lực lượng lao
động nữ, song phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội và điều kiện để đáp ứng được những
yêu cầu và đòi hỏi của công việc đặc biệt này. Môi trường chính trị, kinh tế và xã hội
thuận lợi đã tác động tích cực đến sự tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực chính trị. Điều
quan trọng là phụ nữ cần ý thức được trách nhiệm, không mặc cảm, tự ti và không an
phận, với niềm tin rằng phụ nữ hoàn toàn có thể làm tốt công việc lãnh đạo quản lý.
Thực tế cho thấy, người PN tham gia vào công tác quản lý, lãnh đạo gặp nhiều khó
khăn hơn nam giới vì nhiều lý do khác nhau, song trong thực tế đã có nhiều tấm gương
phụ nữ vượt qua định kiến của xã hội, không ngừng nỗ lực vươn lên để tham gia vào
công tác lãnh đạo, quản lý. Trong điều kiện hiện nay, người lãnh đạo, quản lý cần có
phương pháp và phong cách lãnh đạo mới phù hợp, cần có tầm nhìn xa và kỹ năng lãnh
đạo, quản lý chuyên nghiệp. PN là một nguồn nhân lực quan trọng, có đầy đủ những
yêu cầu của một người làm công việc lãnh đạo, quản lý, do vậy họ là một lực lượng cần
thiết phải tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Yếu tố nội lực của phụ nữ là điều kiện tiên quyết để phụ nữ khẳng định vị
trí của mình, phát huy tài năng, trí tuệ đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
3. GIẢI PHÁP GIÁO DỤC (NÂNG CAO) Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CỦA PHỤ
NỮ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
3.1. Xây dựng chương trình/chiến lược nâng cao năng lực cho phụ nữ thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đòi hỏi khách quan về những tố chất mới của người lao động trong điều kiện mới
đã đặt ra yêu cầu về việc xây dựng chương trình nâng cao năng lực cho phụ nữ thời kỳ
CNH, HĐH đất nước. Nâng cao năng lực cho phụ nữ để giúp họ thực hiện tốt trách
nhiệm của phụ nữ đối với gia đình và xã hội là việc làm cần thiết trước mắt cũng như
chiến lược có tính lâu dài. Khi năng lực của phụ nữ được nâng cao, họ không chỉ hoàn
16


thành tốt trách nhiệm của mình đối với xã hội và gia đình, mà điều đó còn làm thay đổi
các mối quan hệ giới trong gia đình và ngoài xã hội theo hướng bình đẳng hơn. Điều

này cũng khẳng định rằng phụ nữ cần chủ động thực hiện bình đẳng giới từ chính nội
lực của mình, bên cạnh những giải pháp hướng tới cộng đồng và xã hội.
Việc xây dựng chương trình này đòi hỏi cần tính đến thực tế là phụ nữ bao gồm
nhiều nhóm xã hội khác nhau, với công việc và khả năng khác nhau. Do vậy, chương
trình vừa có tính định hướng chiến lược, vừa xây dựng được các chương trình nâng cao
năng lực phù hợp cho các nhóm phụ nữ khác nhau trong xã hội (nhóm phụ nữ nông
dân, nhóm nữ công nhân, nhóm nữ trí thức). Hội LHPN có vai trò chủ chốt trong xây
dựng và tham mưu cho các bộ, ngành, địa phương trong xây dựng chương trình.
3.2. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam
Một là, cần cụ thể hóa ý thức trách nhiệm của phụ nữ đối với gia đình và xã hội
trong các chương trình hoạt động, sinh hoạt của Hội LHPN các cấp. Điều này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, bởi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội cần được hiểu một
cách cụ thể và thông qua những việc làm thiết thực trong cuộc sống và công việc hàng
ngày, nhất là đối với phụ nữ ở cơ sở.
Hai là, trang bị kỹ năng sống, kỹ năng xử lý tình huống cho phụ nữ gắn với nâng
cao ý thức trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, ví dụ xử lý tình huống khi có mâu
thuẫn giữa vợ chồng hay làm thế nào để giải quyết vấn đề xung đột các vai trò mà
người phụ nữ phải thực hiện…Những kỹ năng xử lý tình huống trong cuộc sống gia
đình rất cần thiết đối với phụ nữ, bởi qua đó phụ nữ sẽ học được cách thức giải quyết
mẫu thuẫn một cách có hiệu quả.
Ba là, đổi mới các hình thức hoạt động, sinh hoạt của Hội LHPN: Có nhiều hình
thức để đa dạng hóa các hoạt động của Hội LHPN, nhằm thu hút sự tham gia của phụ
nữ vào tổ chức của Hội. Thông qua sinh hoạt các câu lạc bộ, chia sẻ kinh nghiệm của
phụ nữ trong việc thực hiện trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, nhiều phụ nữ trẻ sẽ
học được những bài học bổ ích.
3.3. Hội Liên hiệp Phụ nữ kết hợp với gia đình, chính quyền và các tổ chức
chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, hỗ trợ phụ nữ thực hiện trách nhiệm đối
với gia đình và xã hội
Mặc dù tính chủ động của phụ nữ trong việc thực hiện các trách nhiệm đối với gia
đình và xã hội là vấn đề cốt lõi, song thực tế cho thấy, bản thân một mình phụ nữ sẽ rất

khó khăn trong việc thực hiện trách nhiệm này, nếu như họ không nhận được sự hỗ trợ
từ các thành viên khác trong gia đình, nhất là người chồng. Việc thay đổi nhận thức của
cộng đồng nói chung, và nam giới nói riêng về bình đẳng giới và trách nhiệm của nam
giới trong việc chia sẻ và hỗ trợ phụ nữ trong cuộc sống gia đình là điều kiện cần thiết
để phụ nữ hoàn thành tốt trách nhiệm của mình. Có như vậy, chúng ta mới không tạo ra
“sức ép” cho phụ nữ và không có “cái nhìn một chiều” về vai trò của phụ nữ đối với gia
đình và xã hội.
Hội LHPN cần xây dựng các chương trình hoạt động, phối hợp với chính quyền và
các tổ chức chính trị-xã hội khác, để tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng về
bình đẳng giới, trong đó cần hướng tới đối tượng nam giới. Sẽ là lý tưởng nếu các tổ
17


chức chính trị-xã hội đứng ra tổ chức các hoạt động này, bởi sự tác động của nam giới
đối với nam giới sẽ có hiệu quả cao hơn. Cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền
(hội thi, sân khấu, tiểu phẩm truyền hình, gương điển hình về bình đẳng giới…). Cần
tránh tuyên truyền một cách chung chung, mang tính hô hào. Các chủ đề của hoạt động
tuyên truyền phải thiết thực, gắn với đời sống của mỗi gia đình, nhằm khuyến khích sự
chia sẻ của nam giới trong trách nhiệm gia đình với phụ nữ và thu hút sự ủng hộ của
nam giới đối với sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động xã hội.
3.4. Phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông
Truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của
phụ nữ cũng như làm thay đổi nhận thức của công chúng về vai trò và trách nhiệm của
cả phụ nữ và nam giới đối với gia đình và xã hội. Chúng ta biết rằng, bên cạnh cơ hội là
những thách thức đặt ra đối với phụ nữ khi thực hiện hai trách nhiệm này. Ở đây có sự
mâu thuẫn giữa định kiến xã hội (phụ nữ phải thực hiện chính trách nhiệm gia đình, mà
ít có sự chia sẻ của người nam giới) và áp lực từ công việc, những yêu cầu về năng lực
của phụ nữ . Bên cạnh đó là sự chuyển đổi các quan niệm hướng đến tính tự chủ cá
nhân, sự thay đổi trong quan hệ giới so với các giá trị truyền thống. Sự “pha trộn” này
đang rất cần có sự định hướng của xã hội thông qua truyền thông, một mặt giúp phụ nữ

ý thức được trách nhiệm của mình, mặt khác, tạo dư luận xã hội đồng thuận hỗ trợ phụ
nữ và kêu gọi ý thức trách nhiệm của nam giới đối với cả hai trách nhiệm này.
Khi truyền thông có trách nhiệm giới, đây sẽ là công cụ có hiệu quả không chỉ giúp
phụ nữ nhận thấy trách nhiệm của mình, nhận thấy những khó khăn thách thức cần phải
vượt qua, mà còn hướng tới xây dựng mối quan hệ giới hài hòa. Quan hệ giới hài hòa
vừa phản ánh các giá trị văn hóa truyền thống (trách nhiệm, thủy chung, gắn kết, hòa
thuận) vừa tiếp nhận những giá trị mới (bình đẳng, dân chủ, độc lập). Truyền thông
không chỉ có chức năng cung cấp thông tin, phản ánh thực tế, mà có vai trò quan trọng
trong định hướng dư luận xã hội để trong quá trình “giao thoa giữa các giá trị” không
dẫn đến mâu thuẫn hay xung đột vai trò của người PN trong gia đình và ngoài xã hội.
III. Ý THỨC TIẾP THU TRI THỨC, LÀM CHỦ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
VÀ KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP
1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾP THU TRI THỨC, LÀM CHỦ KHOA HỌC,
CÔNG NGHỆ VÀ KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP
Cùng với dòng chảy của lịch sử dân tộc, những phẩm chất, đạo đức của phụ nữ Việt
Nam đã được hình thành và phát triển tạo nên nét đẹp riêng của người phụ nữ, đồng
thời góp phần làm nên những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Do yêu cầu của thời đại, bên cạnh những phẩm chất, đạo đức truyền thống quí báu
cần được tiếp tục giữ gìn, phát huy, phụ nữ Việt Nam cũng cần được bổ sung thêm
những phẩm chất, đạo đức mới cho phù hợp. Trong đó, người phụ nữ phải không ngừng
vươn lên tiếp thu tri thức mới, hiện đại; có đủ năng lực làm chủ khoa học, công nghệ
mới và có kỹ năng nghề nghiệp để có thể thích ứng một cách linh hoạt với điều kiện
mới nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình và đóng góp
phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước.

18


1.1. Quan niệm về ý thức vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học, công
nghệ và kỹ năng nghề nghiệp

- Vươn lên có nghĩa là vượt qua mọi rào cản khó khăn, thử thách; vượt qua tâm lý
mặc cảm tự ti; vượt lên chính mình để không ngừng phấn đấu, học tập tiếp thu tri thức,
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp nhằm hoàn thành tốt công việc và
khẳng định vị thế của mình trong xã hội.
Thực tế đã chứng minh nhiều phụ nữ với sự nỗ lực vượt bậc, với bản lĩnh kiên
cường và ý chí quyết tâm cao đã vượt qua hoàn cảnh, vượt qua số phận để tự khẳng
định, vươn lên thoát nghèo, làm giàu và thành đạt.
- Làm chủ khoa học - công nghệ nghĩa là khả năng chủ động, vận dụng đúng đắn,
thành thạo các kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại, các tri thức khoa học để đạt năng suất
cao và hiệu quả tốt trong quá trình lao động sản xuất, trong nghiên cứu khoa học…
- Kỹ năng nghề nghiệp là khả năng ứng dụng thành thạo tri thức và kỹ thuật,
công nghệ mới trong quá trình lao động sản xuất; đồng thời có khả năng ứng biến
linh hoạt trong mọi hoàn cảnh, trong những biến đổi không ngừng của môi trường và
điều kiện sống… để lao động sáng tạo. Trong đó, kỹ năng chủ yếu thuộc về năng lực
của mỗi người, giúp cho sự thành công trong công việc và nghề nghiệp của mỗi
người. Nếu thiếu kỹ năng nghề nghiệp, phụ nữ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế cơ
hội tìm kiếm việc làm và phát triển. Kỹ năng không phải tự nhiên mà có, nó là kết
quả của quá trình học tập rèn luyện không ngừng, từ sự trải nghiệm và tích lũy kinh
nghiệm trong lao động sản xuất, trong cuộc sống hàng ngày với một sự tận tụy, tâm
huyết trong công việc của mỗi người.
Đây là những phẩm chất không thể thiếu đối với mỗi người trong thời đại hiện nay,
nhất là đối với phụ nữ vì phụ nữ thường bị chi phối nặng bởi sự tự ti, mặc cảm, thụ
động, thiếu tính quyết đoán hơn nam giới, bị ràng buộc bởi nhiều tập quán lạc hậu và
các chức năng gia đình hơn nam giới và lao động thường thiếu kỹ năng hơn nam giới.
1.2. Sự cần thiết vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học, công nghệ và kỹ
năng nghề nghiệp
1.2.1. Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước của nhân dân ta hiện nay đòi hỏi phải phát
huy cao độ năng lực tinh thần của con người Việt Nam. Đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu: dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh – một sự nghiệp to lớn của nhân dân ta
đồng thời là quá trình cải biến xã hội sâu sắc, đòi hỏi phát huy nguồn lực trí tuệ và năng
lực của mỗi con người Việt Nam. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu
tăng nhanh về văn hoá của mọi tầng lớp dân cư trong đó có phụ nữ, quá trình dân chủ
hoá xã hội là yêu cầu đặt ra hiện nay.
Việc mở cửa để hoà nhập với các khu vực và các nước trên thế giới, tiếp thu các
thành tựu văn hoá, văn minh của nhân loại đòi hỏi chúng ta phải có một trình độ văn
hoá, phẩm chất tinh thần tương ứng để làm chủ được những quá trình khoa học, công
nghệ hiện đại. Việt Nam mở cửa, đổi mới đất nước trong thời đại mới - thời đại khoa
19


học, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ. Đặc trưng nổi bật của khoa học - công nghệ
và kinh tế tri thức là phát triển chủ yếu dựa vào tri thức và ứng dụng những kỹ thuật,
công nghệ cao, hiện đại trong quá trình sản xuất, chứ không chỉ dựa vào nguồn vốn tài
chính và sức lao động như trong xã hội truyền thống. Phần lớn của cải vật chất được tạo
ra dựa vào tri thức nhờ chất lượng lao động được đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao và sáng tạo.
- Việc ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ mới, hiện đại và kinh tế
tri thức là nguyên nhân căn bản làm cho toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, nhất là toàn
cầu hóa về kinh tế. Những thay đổi mới này đã tác động trực tiếp và sâu sắc đến từng
con người, gia đình, cộng đồng, xã hội, quốc gia và cả thế giới; làm triệt tiêu dần những
ngành nghề giản đơn, trình độ thấp và làm phá sản hàng loạt cơ sở sản xuất và doanh
nghiệp theo lối công nghiệp cổ điển; mặt khác làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới đòi
hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng nghề nghiệp cao.
- Trong thời đại hiện nay, những hoạt động lao động sản xuất nếu không được đào
tạo mà chỉ bằng kinh nghiệm, bằng vốn sống thì năng suất lao động sẽ rất hạn chế, kém
hiệu quả. Vì vậy, nó đòi hỏi mỗi người phải có ý thức vươn lên làm chủ tri thức mới,
làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp để thích nghi với môi trường
mới, có khả năng hành động linh hoạt trong cái phức tạp, bất định và thường xuyên

biến động của môi trường mới nếu không muốn bị đào thải.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa một mặt tạo
ra cơ hội cho người lao động, trong đó có lao động nữ có thể tiếp cận các phương tiện
sản xuất hiện đại, góp phần giải phóng sức lao động, tăng thêm cơ hội tìm kiếm việc
làm mới, nhất là việc làm phi nông nghiệp từ đó nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống
cho bản thân và gia đình; đồng thời tạo ra cơ hội cho phụ nữ có điều kiện vươn lên nắm
bắt tri thức và khoa học - công nghệ hiện đại để tự khẳng định vị thế của mình trong xã
hội và phát triển bằng chính tri thức, trí tuệ của mình.
Song sự phát triển của khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa cũng
đặt ra những thách thức to lớn đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ ở các nước nghèo và các
nước đang phát triển. So với nam giới, phụ nữ có nguy cơ cao bị đẩy ra khỏi thị trường
lao động, bị bất bình đẳng giới và bị xúc phạm nhân phẩm; đồng thời cũng gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận đến các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe do trình độ học
vấn thấp, lại bị ràng buộc chặt chẽ bởi những phong tục, tập quán xã hội lạc hậu.
1.2.2. Do yêu cầu của kinh tế thị trường với tính cạnh tranh gay gắt
Nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế này với cơ chế và nhiều chính
sách mới, đã tạo cho ra cho phụ nữ nhiều cơ hội hơn để tham gia vào các hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, xã hội. Phụ nữ được tự do trong sản xuất ở các
lĩnh vực khác nhau, trong kinh doanh và trong nghiên cứu khoa học sáng tạo để tự
khẳng định, làm giàu cho bản thân và gia đình và xã hội.
- Song, kinh tế thị trường với tính cạnh tranh, sàng lọc gay gắt và quyết liệt cũng tác
động mạnh mẽ đến phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo, ít được đào tạo, trình độ và kỹ năng

20


lao động thấp. Một trong những bất lợi lớn đối với phụ nữ khi tham gia vào kinh tế thị
trường là vấn đề việc làm, do họ bị ràng buộc hơn bởi những chức năng gia đình nên
khó cạnh tranh được với nam giới về sức khỏe, về trình độ kĩ thuật, về điều kiện thời

gian vật chất. Hơn nữa, trong kinh tế thị trường, nhiều nhà tuyển dụng cũng không
muốn tuyển dụng lao động nữ vì những lý do nêu trên.
Trong nhiều trường hợp, vì lý do sinh tồn khiến cho phụ nữ phải chấp nhận làm
những công việc nặng nhọc, thu nhập thấp và nhiều rủi ro, nhất là lao động nữ trình độ
thấp, thiếu kỹ năng nghề nghiệp.
Tóm lại: Từ yêu cầu khách quan của thời đại mới với nhiều biến đổi, mỗi phụ nữ vì
nhu cầu sinh tồn và phát triển của bản thân cũng như của gia đình cần luôn ý thức vươn
lên tiếp thu tri thức mới, làm chủ khoa học – công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp để có thể
trụ vững và tự khẳng định vị thế của mình trong thời đại mới.
2. NỘI DUNG TIẾP THU TRI THỨC, LÀM CHỦ KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
VÀ KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP
2.1. Tiếp thu tri thức
- Tri thức là những gì đã biết, đã được hiểu trong một lĩnh vực cụ thể của con người
về các lĩnh vực của đời sống tự nhiên và xã hội thông qua quá trình nhận thức, quá trình
học tập, giao tiếp của con người. Tri thức được biểu hiện cụ thể ở kiến thức của con
người về các lĩnh vực, ở trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng
nghề nghiệp của con người.
- Tri thức đạt được ở các cấp độ khác nhau: từ tri thức kinh nghiệm (có được do
quan sát, mô tả, thực nghiệm mang lại), đến tri thức lý luận (kết quả của sự khái quát
hóa những tri thức kinh nghiệm); từ nông đến sâu, từ đơn giản đến phức tạp.
- Các tri thức ở cấp độ thấp cho kết quả tương ứng là những hoạt động trình độ
thấp, năng suất hạn chế, hiệu quả không cao, tính cạnh tranh yếu và hạn chế về cơ hội
phát triển. Các tri thức ở cấp độ cao giúp cho con người hiểu rõ và nắm vững qui luật,
nắm vững khoa học, kỹ thuật, công nghệ để phát triển.
- Ngày nay, sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức và
toàn cầu hóa một mặt làm cho tri thức được quảng bá rộng rãi và phổ cập nhanh chóng,
mặt khác cũng làm cho tri thức trở nên lạc hậu rất nhanh. Cho nên người lao động,
trong đó có lao động nữ buộc phải luôn có ý thức vươn lên thường xuyên học tập, trau
dồi cập nhật kịp thời tri thức mới, bao gồm cả tri thức chuyên môn và tri thức của nhiều
lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội (tri thức liên ngành, tri thức thực tiễn, tri thức

khoa học hiện đại…). Đó là điều kiện quan trọng để có thể trụ vững và phát triển trong
thời đại mới.
- Tri thức do con người sáng tạo, đúc rút qua hoạt động thực tiễn hay nghiên cứu
khoa học. Tuy nhiên, không phải bất kỳ ai cũng có thể sáng tạo ra và sử dụng được các
thành tựu của tri thức, nhất là tri thức hiện đại. Tri thức chỉ có được đối với những ai
được đào tạo ở một trình độ nhất định. Vì vậy, học tập suốt đời, đào tạo liên tục, giáo
dục thường xuyên để tiếp thu kịp thời tri thức của nhân loại, của thời đại, ở cấp độ cao

21


hơn, có thể tham gia vào việc sáng tạo ra tri thức mới trên các lĩnh vực là một yêu cầu
đã và đang đặt ra đối với người lao động, trong đó có lao động nữ.
2.2. Làm chủ khoa học - công nghệ
- Đặc điểm căn bản của quá trình sản xuất trong thời đại hiện nay là sử dụng kỹ
thuật, công nghệ mới và cao để hướng tới mục tiêu năng suất, chất lượng và hiệu quả,
dẫn tới vai trò của nguồn tài nguyên thiên nhiên và sức lao động giản đơn giảm đáng
kể. Trong khi nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực được đào tạo
chuyên môn kỹ thuật và có kỹ năng lao động giỏi trở thành cấp bách đối với nhà sản
xuất trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, khoa học, lãnh đạo
quản lý….
- Do vậy, lao động nữ ở từng đối tượng phải luôn ý thức được điều đó để vươn lên
làm chủ kỹ thuật, khoa học - công nghệ hiện đại. Việc làm chủ được tri thức, làm chủ
khoa học - công nghệ cũng giúp cho phụ nữ có năng lực tổ chức tốt cuộc sống gia đình
của mình một cách khoa học, hợp lý để có thể tham gia vào thị trường lao động một
cách chủ động, tích cực và hiệu quả.
Đối với nữ nông dân, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với đặc trưng
sử dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại vào sản xuất
nông nghiệp đòi hỏi lao động nữ trong khu vực nông nghiệp phải có ý thức vươn lên
nắm vững tri thức trong lĩnh vực nông nghiệp để có thể làm chủ những tri thức mới,

những kỹ thuật và công nghệ mới, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản
phẩm mà mình tạo ra. Đó là điều kiện không thể thiếu để nâng cao thu nhập, cải thiện
cuộc sống cho bản thân và gia đình.
Đối với nữ công nhân, do khu vực sản xuất công nghiệp thường xuyên phải đổi
mới công nghệ nên phải thường xuyên học tập, tự học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề,
làm chủ những dây chuyền công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại để trụ vững và có vị trí tốt
trong quá trình sản xuất công nghiệp. Đó là điều kiện không thể thiếu để nâng cao năng
lực cạnh tranh với lao động nam và để có thu nhập cao, ổn định.
Đối với lao động nữ trong khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ gắn với công nghệ cao,
ngoài việc làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại liên quan trực tiếp đến công việc
của mình, thì nâng cao kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghề nghiệp, làm chủ ngoại ngữ… là
một yêu cầu có tính bắt buộc nếu không muốn bị thải loại trong môi trường đầy tính
cạnh tranh gay gắt này.
Đối với nữ trí thức, các nhà khoa học nữ trên các lĩnh vực, việc tiếp thu tri thức,
nâng cao trình độ và năng lực nghiên cứu khoa học, làm chủ được những tri thức khoa
học đã được đào tạo để say mê nghiên cứu sáng tạo những giá trị mới, công trình
nghiên cứu khoa học mới, vươn lên trở thành những chuyên gia giỏi, những nhà khoa
học tài ba trong lĩnh vực của mình là yêu cầu số một.
Ngoài trình độ chuyên môn, làm chủ ngoại ngữ là hết sức cần thiết đối với trí thức
nữ vì đó là công cụ giúp họ tiếp xúc và tiếp thu kịp thời những tri thức mới và những
thành tựu văn minh nhân loại vốn thay đổi từng ngày, từng giờ để không bị lạc hậu với
thời cuộc và để sáng tạo.

22


Đối với nữ lãnh đạo, quản lý, các chị chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ khi làm chủ
được chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là phải rèn luyện kỹ năng lãnh đạo, quản lý; kỹ
năng tổ chức, vận động thuyết phục quần chúng mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ
của mình.

2.3. Có kỹ năng nghề nghiệp
- Tri thức và kỹ năng lao động là những kết quả chỉ có thể có được trong quá
trình rèn luyện chuyên môn hoặc qua thực tiễn, cho phép người LĐ có khả năng thực
hiện được một hoặc một số công việc trong hệ thống phân công lao động XH.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế và khoa học - kỹ thuật, việc phân công lao
động ngày càng chuyên sâu. Do vậy, người lao động phải được đào tạo nghề nghiệp
một cách cơ bản và chuyên sâu, kết hợp với tự đào tạo nghề thông qua môi trường
hoạt động thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nhất là trong một số nghề
nghiệp mà kỹ năng, kỹ xảo dựa nhiều vào sự khéo léo như nghề thủ công mỹ nghệ,
hay dựa vào kinh nghiệm truyền thống (nghệ thuật, y học cổ truyền…)
Trong nền kinh tế mang tính toàn cầu hiện nay, lao động nữ phải có kỹ năng lao
động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công
nghệ sản xuất, đồng thời, cần có cả những phẩm chất mang tính toàn cầu. Họ cần được
trang bị những kỹ năng, tầm nhìn và chiến lược thích ứng với nhu cầu quốc tế.
3. GIẢI PHÁP ĐỂ PHỤ NỮ VƯƠN LÊN TIẾP THU TRI THỨC, LÀM CHỦ KHOA
HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP
3.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về sự cần thiết phải tạo điều kiện cho PN
vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp
- Do bị ảnh hưởng của xã hội truyền thống, tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, sự bất
bình đẳng giới còn khá nặng nề trong xã hội ta. Nhiều người, thậm chí cả cấp lãnh đạo
quản lý và bản thân nhiều phụ nữ còn chưa thấy rõ vai trò và năng lực của phụ nữ trong
phát triển xã hội, nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ học tập, rèn luyện, phấn
đấu vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp.
- Để phụ nữ có thể vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ
năng nghề nghiệp thì nâng cao nhận thức cho giới lãnh đạo quản lý các cấp, nhất là cấp
cơ sở là điều kiện có ý nghĩa quan trọng vì họ chính là người trực tiếp sử dụng lao động
nữ và thực hiện các chế độ, chính sách đối với lao động nữ.
- Nâng cao nhận thức cho toàn xã hội, cho các thành viên trong gia đình, mà quan
trọng nhất là người chồng, xóa bỏ những rào cản xã hội, những định kiến giới để xã hội
cũng như mỗi thành viên trong gia đình có thể thông cảm, chia sẻ trách nhiệm gia đình

và ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ vươn lên học tập nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp.
3.2. Tạo cơ chế, chính sách, pháp luật, điều kiện và môi trường thuận lợi cho PN
vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp
- Tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong việc vạch đường
lối, chủ trương và lãnh đạo thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ,

23


tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phụ nữ phát triển toàn diện. Cần đặc biệt chú
trọng đến việc phát huy vai trò và nâng cao vị thế của phụ nữ, bồi dưỡng, đào tạo để
phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản
lý các cấp.
- Nhà nước thể chế hóa bằng cơ chế chính sách, bằng pháp luật và bằng nguồn đầu
tư ngân sách để tạo quyền cho phụ nữ. Ban hành các chính sách xã hội, các chính sách
có quan điểm giới để giảm nhẹ lao động nặng nhọc cho phụ nữ; đồng thời nâng cao
trình độ học vấn, trình độ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ.
- Nâng cao vai trò và trách nhiệm của Hội LHPN và UBVSTBPN các cấp trong
việc giáo dục, rèn luyện, tổ chức giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ
vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp. Đấu
tranh bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, trong đó có quyền
được học tập nâng cao trình độ, quyền được bình đẳng trong lao động việc làm và các
vấn đề khác.
3.3. Đưa tri thức, khoa học công nghệ đến với phụ nữ
Bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp linh hoạt để đưa tri thức, khoa học công
nghệ đến với phụ nữ.
- Biện pháp cơ bản và lâu dài là giáo dục, đào tạo, trang bị tri thức, khoa học công
nghệ cho thế hệ trẻ trong hệ thống của nền giáo dục quốc dân. Đặc biệt chú ý đến nữ
sinh để các em được hưởng một nền giáo dục bình đẳng với nam sinh.

- Bồi dưỡng kiến thức, trình độ khoa học, công nghệ cần thiết cho phụ nữ đang trực
tiếp tham gia sản xuất, kinh doanh, hoạt động trên các lĩnh vực xã hội khác. Thông qua
các sinh hoạt câu lạc bộ (“khuyến nông, khuyến viên”, “nhà nông giúp nhau làm giàu”,
câu lạc bộ nữ công nhân, nữ trí thức, nữ doanh nhân để nâng cao hiểu biết về nghề
nghiệp, kỹ năng chuyên môn).
- Các cơ quan nghiên cứu cần tìm tòi những ngành nghề mới, những công nghệ mới
phù hợp với giới tính của phụ nữ, phát huy được sự tinh tế, khéo léo của phụ nữ, từ đó
có thể tạo điều kích thích sự sáng tạo, tri thức của phụ nữ trong xã hội hiện đại.
3.4. Sự tự nỗ lực vươn lên của bản thân phụ nữ
- Bản thân mỗi phụ nữ cần chủ động, nỗ lực học tập, rèn luyện, vươn lên tiếp thu tri
thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp để đáp ứng được các yêu
cầu của xã hội và nhiệm vụ được giao.
- Dù môi trường và điều kiện phát triển có thuận lợi đến mấy mà bản thân mỗi phụ
nữ không nỗ lực vượt qua mọi khó khăn trở ngại thì các chị cũng không thể vươn lên
tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp. Đây là yếu tố
có nghĩa quyết định nhất.
- Bên cạnh những thách thức của thời đại, mỗi phụ nữ còn cần vươn lên vượt qua
những rào cản xã hội, khắc phục tư tưởng ỉ lại, tự ti, an phận, cam chịu và thụ động
trông chờ vào sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và xã hội.

24


- Phụ nữ cần tăng cường đoàn kết giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn, phát huy nội
lực để vươn lên tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học - công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp.
IV. TINH THẦN NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO VÀ Ý CHÍ VƯƠN LÊN TRONG
CUỘC SỐNG
1. QUAN NIỆM VỀ TINH THẦN NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO, Ý CHÍ VƯƠN LÊN
TRONG CUỘC SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA CHÚNG
1.1. Quan niệm về tinh thần năng động, sáng tạo, ý chí vươn lên trong cuộc sống

1.1.1. Quan niệm về tinh thần năng động, sáng tạo
Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải có những phẩm chất phù hợp. Bên cạnh
những phẩm chất truyền thống, đã trở thành những hằng số như lòng yêu nước, tinh
thần nhân văn, cần cù lao động... thì con người trong xã hội mới cũng cần hình thành
nên những phẩm chất mới, để đáp ứng những yêu cầu của thời đại mới. Năng động,
sáng tạo vừa là một phẩm chất, vừa là một giá trị của con người hiện nay.
Năng động, sáng tạo thể hiện trước hết ở khả năng nắm bắt quy luật của đời sống.
Đời sống luôn vận động và biến đổi không ngừng. Đặc biệt, dưới sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, tốc độ biến đổi của đời sống trong thế kỷ XXI này
lại càng nhanh chóng. Một phát minh của ngày hôm qua rất có thể sẽ trở thành lạc hậu
trong ngày hôm nay. Tuy nhiên, dù là xã hội nông nghiệp hay xã hội hậu công nghiệp,
xã hội thông tin thì sự vận động của đời sống cũng phải tuân theo những quy luật nhất
định. Người năng động, sáng tạo chính là người nhận thức và nắm bắt được quy luật,
những yêu cầu của đời sống đặt ra. Từ đó, họ có thể đề ra những phương án hành động
phù hợp và hiệu quả.
Năng động, sáng tạo thể hiện sự chủ động của con người trong mọi hoàn cảnh.
Người năng động, sáng tạo là người không chấp nhận sự an phận thủ thường. Họ là
những người không chấp nhận sự thụ động trong công việc, luôn tìm cách học hỏi và
phát huy những sáng kiến cá nhân. Tính tích cực chủ động được họ phát huy cao độ
trong tư duy, trong công việc.
Tinh thần năng động, sáng tạo được thể hiện chủ yếu trong học tập, lao động, sản
xuất, trong công tác. Không bằng lòng với những lối mòn, người năng động, sáng tạo
luôn chủ động tìm cho mình một hướng đi mới, phù hợp với quy luật của đời sống,
đồng thời đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, năng động, sáng tạo không phải
là một tố chất bẩm sinh, nó được hình thành trên cơ sở của nhiều yếu tố, trong đó phải
kể đến sự trau dồi về học vấn, kiến thức... Năng động, sáng tạo là những giá trị mới, bổ
sung, làm giàu cho bảng thang giá trị của con người Việt Nam.
1.1.2. Quan niệm về ý chí vươn lên trong cuộc sống
Ý chí vươn lên trong cuộc sống trước hết thể hiện ở tinh thần vượt khó. Con
người khi sinh ra không phải ai cũng có những hoàn cảnh thuận lợi; tương tự như vậy,

trên bước đường đời, không phải lúc nào con người ta cũng được đi trên thảm đỏ.
Những khó khăn, thậm chí tai họa có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Đứng trước những
hoàn cảnh đó, con người thường có hai thái độ ứng xử: một là dễ dàng nhụt chí, đầu

25


×