Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao động thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1990 - 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong nhiều văn kiện của Ðảng, nhà nước và các địa phương đã đề cập khá đầy
đủ đến nguồn nhân lực trong phát triển, coi nó là yếu tố cơ bản cho phát triển kinh tế
nhanh và bền vững, là yếu tố hàng đầu đóng vai trò then chốt có tính chiến lược trong
phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Phát triển kinh tế được quyết định bởi nhân tố con
người nói chung và lực lượng lao động nói riêng, vì tăng trưởng và phát triển kinh tế
tùy thuộc trước hết vào năng lực, trí tuệ và mức độ lành nghề của người lao động.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố năng động nhất cả nước, với nhiều chuyển
biến tích cực trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Tốc độ phát triển kinh tế
nhanh đã đẩy mạnh quá trình đô thị hóa của thành phố. TP HCM được xem là nơi có
tốc độ đô thị hóa nhanh nhất và quy mô lớn nhất cả nước (tỉ lệ dân số đô thị là 82,3%
so với 31,9% của cả nước, 2012). Quá trình đô thị hóa đã tạo một diện mạo mới cho
thành phố, khang trang hơn, bề thế hơn, hình thành nhiều khu dân cư, xuất hiện hàng
loạt các khu công nghiệp, khu chế xuất... nhờ đó đã đưa TP HCM trở thành thành phố
lớn nhất và đầu tàu tăng trưởng kinh tế của vùng Đông Nam Bộ và cả nước.
Hiện nay, TP HCM là thành phố đông dân nhất cả nước, đạt 7,8 triệu người,
chiếm 8,8% dân số cả nước. Thành phố đóng góp 20,3% tổng sản phẩm xã hội và
21,2% tổng sản lượng công nghiệp của cả nước (2012). Quá trình đô thị hóa nhanh
cùng với nền kinh tế phát triển mạnh, TP. HCM đã thu hút một lực lượng rất lớn lao
động tập trung vào nhiều ngành nghề khác nhau, làm cho dân số của thành phố gia
tăng nhanh chóng. Điều đó tác động sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã hội TP.
HCM. Dân số tăng nhanh, nguồn lao động lớn, chất lượng lao động được nâng cao góp
phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của thành phố, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Nhưng hiện nay, TP. HCM vẫn chưa sử dụng hiệu
quả nguồn lao động, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế, quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động còn chậm, chưa phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế cũng như định
hướng của thành phố.
Vì vậy nhóm tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao động thành
phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1990 - 2012” nhằm nghiên cứu về quy mô và cơ cấu lao
-1-




động của thành phố, đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn đề hạn chế về quy
mô và cơ cấu lao động tại TP. HCM nhằm sử dụng lao động có hiệu quả để phát triển
kinh tế - xã hội trong thời gian tới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng bộ tài liệu tham khảo hữu ích cho giảng viên, sinh viên và những nhà
nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập những kiến thức có liên
quan đến nguồn lao động và cơ cấu lao động của TP HCM.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Tổng quan chọn lọc cơ sở lí luận và thực tiễn về quy mô và cơ cấu lao động.
- Thu thập số liệu về quy mô và cơ cấu lao động của TP HCM, các quận, huyện của
thành phố giai đoạn 1990 - 2012.
- Phân tích và đánh giá quy mô và cơ cấu lao động tại TP HCM giai đoạn 1990 - 2012.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, sử dụng hợp lí có hiệu quả nguồn
lao động tại TP HCM phù hợp với phát triển kinh tế của thành phố.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Không gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao động trên phạm vi toàn thành phố theo
ranh giới hành chính hiện nay: 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành.
3.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao động TP. HCM giai đoạn 1990 - 2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu quy mô lao động TP. HCM về số lượng và chất lượng lao động.
- Nghiên cứu sự thay đổi về cơ cấu lao động theo ngành và thành phần kinh tế của
TP. HCM giai đoạn 1990 – 2012.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, sử dụng hợp lí nguồn lao
động TP HCM trong thời gian tới.
-2-



4. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động của TP HCM đã được nhiều nhà
khoa học và nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức như luận án
nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, bài viết trên báo, tạp chí, các kỷ yếu hội thảo
khoa học…
Các công trình nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn lao động như Phạm Đức
Chính (2005), Thị trường lao động – cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia; Phạm Quý Thọ (2006), Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xu
hướng hội nhập quốc tế, NXB Lao động Xã hội; Các yếu tố tác động đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, Viện Nghiên cứu kinh tế quản lý
Trung ương; Đinh Đăng Định, Một số vấn đề về lao động, việc làm và đời sống người
lao động ở Việt Nam hiện nay, NXB Lao động; Địa lí kinh tế - xã hội đại cương của
Nguyễn Minh Tuệ, NXB Đại học Sư phạm. Các đề tài nghiên cứu và sách của các tác
giả đã khái quát nội dung lý luận về nguồn lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động và
vấn đề việc làm.
Về vấn đề quy mô và cơ cấu lao động của TP HCM có các tác giả với các công
trình sau: Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (luận án Tiến sĩ) (2004), “Nguồn lao động và sử
dụng nguồn lao động ở TP. HCM”, trường ĐH Sư phạm Hà Nội; Viện Kinh tế TP.
HCM với nhiều đề tài nghiên cứu như TS.Trần Hồi Sinh (chủ nhiệm đề tài) (2006),
“Chuyển dịch cơ cấu lao động 5 huyện ngoại thành TP. HCM trong quá trình đô thị
hoá – thực trạng và giải pháp”; TS. Bạch Văn Bảy (chủ nhiệm đề tài) (1996), “Một số
vấn đề biến đổi và phát triển dân số và nguồn lao động trên địa bàn TP. HCM”; Viện
Kinh tế TP. HCM (2006), “Nghiên cứu cơ chế chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
lao động và nâng cao mức sống dân cư ở khu vực nông thôn ngoại thành TP. HCM”;
PGS.TS Nguyễn Thị Cành (2001)“Điều tra nguồn nhân lực trên địa bàn TP HCM”.
Các công trình nghiên cứu về quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố nguồn lao động
cũng như sử dụng lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động ở ngoại thành TP HCM,
đánh giá những thành tựu đạt được và những tồn tại trong vấn đề sử dụng lao động

phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH của thành phố.
Các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo vô cùng quý giá và
thật sự bổ ích cho nhóm tác giả khi nghiên cứu thực hiện đề tài. Nhưng những công
-3-


trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung bàn về vấn đề lao động và việc làm trong nền
kinh tế thị trường, chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn hay khu vực ngoại thành,
chiến lược phát triển nguồn lao động, nguồn nhân lực chất lượng cao trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế mà chưa đề cập cụ thể đến cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu lao động
của TP. HCM trong thời gian qua.
TP HCM là một thành phố lớn với dân số đô thị chiếm 83,3% dân số thành phố,
có tốc độ phát triển kinh tế cao, là đầu tàu tăng trưởng kinh tế của vùng Đông Nam Bộ
và cả nước. Quá trình đô thị hoá nhanh cùng với nền kinh tế phát triển mạnh, TP.
HCM đã thu hút một lực lượng rất lớn lao động đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố. Tuy nhiên hiện nay, mặc dù quy mô lao động TP. HCM đông
nhưng chất lượng chưa cao, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, chưa
phù hợp với tiềm năng cũng như định hướng của thành phố. Chính vì vậy, nhóm tác
giả chọn đề tài này nhằm làm rõ sự thay đổi về quy mô và cơ cấu lao động của TP
HCM để từ đó đưa ra một số giải pháp sử dụng nguồn lao động có hiệu quả trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Hệ quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Hệ quan điểm
a. Quan điểm hệ thống
Trong quá trình nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao động tại TP. HCM, quan điểm
hệ thống là quan điểm quan trọng. Nguồn lao động là một bộ phận cấu thành của hệ
thống kinh tế - xã hội. Sự phát triển về số lượng và chất lượng lao động cũng như việc
sử dụng lao động phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế và thể chế xã hội nhất định. Vì vậy phải
coi các vấn đề lao động như một hệ thống con trong hệ thống kinh tế - xã hội hoàn
chỉnh, luôn vận động và phát triển không ngừng.

Trong hệ thống kinh tế - xã hội TP. HCM có các phân hệ nhỏ hơn như hệ thống
các ngành kinh tế, hệ thống dân cư, xã hội, đô thị… Trong đó, con người là chủ thể có
mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Bởi vậy, vấn đề lao động và chuyển dịch cơ
cấu lao động phải xem xét như là các hiện tượng, sự vật trong một hệ thống hoàn
chỉnh và không tách rời sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và cả nước.

-4-


b. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao động được đặt trong bối cảnh đô thị hoá và
phát triển kinh tế - xã hội của TP. HCM với những đặc thù của lãnh thổ về vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, lịch sử phát triển, định hướng phát triển …
trên cơ sở đó đưa ra những nhận định, giải pháp phù hợp.
Ngoài ra, việc nghiên cứu vấn đề lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động của
thành phố không thể tách rời vấn đề lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động của các
tỉnh lân cận, của vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Vì nguồn lao động TP. HCM là một
bộ phận trong nguồn lao động của vùng và cả nước. Từ việc xem xét với các bộ phận
lãnh thổ khác, sẽ xác định được những đặc trưng riêng phải giải quyết trong điều kiện
cụ thể của thành phố.
c. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Sự phát triển dân số, kinh tế - xã hội trong quá khứ và hiện tại ảnh hưởng rất lớn
đến nguồn lao động và sử dụng lao động trong hiện tại cũng như tương lai. Việc
nghiên cứu vấn đề lao động trong mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai sẽ
làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian.
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động ở TP. HCM được phân tích theo một chuỗi
thời gian gắn liền với quá trình đô thị hoá và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Vận dụng quan điểm lịch sử viễn cảnh trong việc nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao
động ở TP. HCM, đề tài đã chú ý phân tích, đánh giá tư liệu, thực trạng của từng giai
đoạn nhất định, trong đó đặc biệt chú ý đến các thời điểm lịch sử quan trọng và những

biến động kinh tế - xã hội trong điều kiện cụ thể.
d. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động phải đi đôi với sử dụng hợp
lý, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hoà
giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống con người. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu lao động cũng phải xem xét đến yếu tố
môi trường, chất lượng cuộc sống lao động trong quá trình nghiên cứu.

-5-


5.2. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thống kê
Các tài liệu thống kê đảm bảo giá trị pháp lý được triệt để khai thác phục vụ cho
việc nghiên cứu. Số liệu được thu thập, tổng hợp, xử lý trên cơ sở dữ liệu và kết quả
của các cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở, thống kê kinh tế - xã hội của Tổng cục
Thống kê, Cục Thống kê TP. HCM, cũng như từ các cơ quan quản lý của thành phố.
Tác giả cũng sử dụng các nguồn số liệu của các tổ chức, ban ngành, số liệu thống
kê về kinh tế, dân cư, lao động của các vùng để phân tích, so sánh khi cần làm sáng tỏ
vị trí của thành phố so với cả nước hoặc vùng lân cận.
b. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Trên cơ sở phân tích, tổng hợp tài liệu, số liệu thống kê, tác giả rút ra những kết
luận về thực trạng quy mô và cơ cấu lao động ở TP HCM và những vấn đề còn tồn tại
của lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động của thành phố.
c. Phương pháp bản đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của nghiên cứu địa lí. Trong quá trình thực hiện đề
tài, nhóm tác giả dựa trên cơ sở dữ liệu đã có thành lập nhiều biểu đồ, đồ thị và bảng
số liệu minh chứng để thể hiện thực trạng, các mối liên hệ, tác động qua lại giữa phát
triển kinh tế với vấn đề lao động và việc làm của thành phố.
d. Phương pháp điều tra thực địa

Để có những số liệu bổ sung và có những luận cứ đánh giá thực trạng kinh tế - xã
hội và nguồn lao động cũng như sử dụng lao động của thành phố, ngoài số liệu thống
kê thu thập được nhóm tác giả còn tiến hành thực địa, phỏng vấn nhân dân và cán bộ
lãnh đạo. Kết quả thu thập được là sơ sở đánh giá tổng hợp ban đầu, thẩm định lại
những nhận định, dự báo trong quá trình nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ của đề tài.

-6-


6. Cấu trúc đề tài
Đề tài “Nghiên cứu quy mô và cơ cấu lao động thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 1990 - 2012” ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về quy mô và cơ cấu lao động.
Chương 2: Quy mô và cơ cấu lao động thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1990 –
2012.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, sử dụng hợp lí lao
động ở thành phố Hồ Chí Minh.

-7-


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUY MÔ
VÀ CƠ CẤU LAO ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm về lao động và cơ cấu lao động
1.1.1. Một số khái niệm về lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất tự
nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình sản xuất,
con người sử công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm
phục vụ cho lợi ích của con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã

hội loài người, là cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hoá và xã hội. Nó là nhân tố
quyết định của bất cứ quá trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình phát
triển kinh tế, xã hội quy tụ lại là ở con người. Con người với lao động sáng tạo của họ
đang là vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thực
sự giải phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng thiên nhiên, trước hết giải
phóng người lao động, phát triển kiến thức và những khả năng sáng tạo của con người.
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã hội. Lao động có
năng suất, chất lượng hiệu quả là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội. Để sản
xuất ra của cải vật chất xã hội con người phải dùng sức lao động của mình thông qua
sử dụng một hoặc toàn bộ các công cụ lao động để tác động đến đối tượng lao động để
tạo ra những sản phẩm, vật dụng cần thiết cho nhu cầu sử dụng của mình. Chính quá
trình kết hợp giữa ba yếu tố lao động, tư liệu sản xuất, đối tượng lao động là quá trình
cần thiết để sản xuất ra sản phẩm.
 Nguồn lao động
Nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội,
có ảnh hưởng quyết định đến việc sử dụng các nguồn lực khác. Tất cả của cải vật chất
và các giá trị tinh thần đều thỏa mãn nhu cầu của xã hội do con người sản xuất ra.
Song không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia sản xuất mà chỉ một bộ phận dân số
trong độ tuổi nhất định.

-8-


Theo Bộ lao động - Thương binh và Xã hội: Nguồn lao động là toàn bộ những
người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) và
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp,
đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và
những người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc nghỉ hưu trước tuổi
theo quy định của Bộ Luật lao động) [12], [34]. Trong nguồn lao động người ta không

tính đến lao động trẻ em. Như vậy, nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ
tuổi lao động theo quy định của Bộ Luật lao động gồm: Những người đang làm việc
trong nền kinh tế quốc dân, những người có khả năng lao động nhưng không có nhu
cầu làm việc, những người tàn tật, mất sức lao động (bị tai nạn khi lao động), những
người thất nghiệp và những người thuộc tình trạng khác (đang đi học, nội trợ…).
Nguồn lao động được quy định bởi quy mô dân số, cơ cấu dân số theo độ tuổi,
giới tính và sự phân bố theo lãnh thổ. Trong thực tế, không phải mọi người trong độ
tuổi lao động đều tham gia hoạt động kinh tế và ngược lại, không phải cứ ai ngoài độ
tuổi lao động thì không tham gia hoạt động kinh tế. Chỉ riêng những người trong độ
tuổi lao động chưa phản ánh đầy đủ về cung lao động, còn phải đo lường và phân tích
thêm mức độ tham gia hoạt động kinh tế của nguồn lao động. Vì thế theo khuyến nghị
của Liên Hiệp Quốc, nguồn lao động được chia thành hai bộ phận: dân số hoạt động
kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế.
 Dân số hoạt động kinh tế
Dân số hoạt động kinh tế (hay còn gọi là lực lượng lao động hoặc dân số làm
việc) bao gồm những người đang làm việc và cả những người không có việc làm (thất
nghiệp) nhưng đang tích cực tìm việc làm trong một ngành nào đó của nền kinh tế
trong một khoảng thời gian xác định [34, trang 113].
Ở nước ta, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội định nghĩa: Dân số hoạt động
kinh tế (hay còn gọi là lực lượng lao động) bao gồm toàn bộ những người đủ 15 tuổi
trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Trong
quy định này độ tuổi dân số hoạt động kinh tế rộng hơn, ngoài dân số trong độ tuổi lao
động còn bao gồm cả dân số trên độ tuổi lao động [12].

-9-


Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động (lực lượng lao động trong độ
tuổi lao động) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15 đến hết 60
tuổi, nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi) đang có việc làm, hoặc không có việc làm, nhưng có

nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
 Dân số không hoạt động kinh tế
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người từ đủ tuổi lao động
trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm nhưng có nhu cầu làm
việc. Những người này không hoạt động kinh tế vì đang đi học (học sinh, sinh viên);
đang làm công việc nội trợ cho bản thân và gia đình, không có thu nhập; không có khả
năng lao động (ốm đau, tàn tật…) và những người không có nhu cầu làm việc (được
hưởng lợi tức, thu nhập mà không phải làm việc…) [12], [34].
Sơ đồ: Nguồn lao động và dân số hoạt động kinh tế
Trong độ tuổi lao động

Ngoài độ tuổi lao động

Không

Không

Nội

Đi

Thất

Đang

Trên

Lao

Trên


Dưới

có khả

có nhu

trợ

học

nghiệp

làm

tuổi lao

động

tuổi lao

tuổi lao

năng

cầu

việc

động


trẻ em

động

động

lao

việc

đang

không

không

động

làm

làm

làm

làm

việc

việc


việc

Dân số không hoạt động kinh tế

Dân số hoạt động kinh tế

Nguồn lao động

Nguồn: [34, trang 114]
Nhìn chung, tỉ lệ dân số hoạt động kinh tế có sự khác nhau giữa nam và nữ, thành
thị và nông thôn, giữa các nước và khu vực với trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác
nhau. Điều này phụ thuộc chặt chẽ vào cơ cấu tuổi của dân số, vào đặc điểm kinh tế xã hội và khả năng tạo việc làm cho những người trong độ tuổi lao động. Đây là bộ
phận tích cực và năng động nhất của dân số và là lực lượng quyết định cho sự phát
triển của một quốc gia.

-10-


 Việc làm
Một trong những khái niệm gắn liền với lao động là khái niệm việc làm. Đảm
bảo việc làm thường xuyên cho lực lượng lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nghiên cứu được tập trung vào một số khía cạnh
như lao động có việc làm thường xuyên theo khu vực nông thôn – thành thị, theo khu
vực kinh tế và lao động thiếu việc làm. Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc, mọi hoạt
động tạo ra thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm gọi là việc làm. Các hoạt động lao
động được xác định là việc làm bao gồm:
* Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
* Những công việc tự làm để thu lợi cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình
nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho công việc đó.

Trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1994, Điều 13 đã định nghĩa mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật ngăn
cấm đều được thừa nhận là việc làm. Trong định nghĩa này đã thừa nhận việc làm phải
gắn với thu nhập, tức là các hoạt động kinh tế không có thu nhập thì không phải là việc
làm và việc làm nằm trong khuôn khổ quỹ đạo của chuẩn mực xã hội cho phép [12].
Người có việc làm là những người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm hoạt động
kinh tế đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền mặt
hay hiện vật; đang làm trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình;
hoặc đã có công việc trước đó, song tạm thời không làm việc và sẽ tiếp tục làm việc
ngay sau thời gian tạm nghỉ việc.
 Thất nghiệp
Việc làm và thất nghiệp có liên quan chặt chẽ với nhau trong sự biến động không
ngừng của thị trường lao động và sự phát triển kinh tế - xã hội. Thất nghiệp là biểu
hiện của sự không cân bằng của thị trường lao động khi nhu cầu việc làm nhiều hơn
chỗ làm việc. Ở những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam do tốc độ tăng
trưởng lực lượng lao động cao nhưng kinh tế chưa phát triển mạnh nên vấn đề thất
nghiệp vẫn đang là thách thức lớn. Nó không chỉ gây ra những hậu quả tiêu cực cho cá
nhân mà còn cho sự phát triển nền kinh tế. Nói một cách đơn giản, một người được coi

-11-


là thất nghiệp nếu người đó trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không
có việc làm và đang cố gắng tìm việc [12, trang 17].
Trong những quy định điều tra thực trạng lao động và việc làm của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội tiến hành, xác định người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi
trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế trong thời điểm điều tra không có việc làm
nhưng có nhu cầu làm việc.
Sự phát triển thị trường lao động ở nhiều nước đã chỉ ra các dạng thất nghiệp
khác nhau:

- Thất nghiệp tự nguyện (tự nhiên) là tình trạng thất nghiệp của người lao động
do không tích cực tìm kiếm việc làm ở mức lương hiện hành. Thất nghiệp tự nhiên là
dạng thất nghiệp chấp nhận được của nền kinh tế, tức là với mức thất nghiệp này nền
kinh tế vẫn giữ được sự phát triển bình thường.
- Thất nghiệp dài hạn là tình trạng thất nghiệp có thời gian kéo dài từ 1 năm trở
lên.
- Thất nghiệp chu kì là tình trạng thất nghiệp xảy ra trong giai đoạn đình trệ của
chu kì đầu sản xuất kinh doanh.
Khái niệm thất nghiệp trên là cơ sở để xác định người thất nghiệp. Tất cả các
nước đều cố gắng giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên.
1.1.2. Khái niệm về cơ cấu lao động
Chúng ta có thể hiểu “cơ cấu” hay “kết cấu” là một phạm trù phản ánh cấu trúc
bên trong của một hệ thống, là tập hợp những mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn định
giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng đó, trong một thời gian nhất định. Theo
PGS.TS Phạm Quý Thọ, trong cuốn “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng hội
nhập quốc tế” NXB Lao động – Xã hội đã đưa ra khái niệm về cơ cấu “Cơ cấu biểu
thị cấu trúc của một hệ thống, gồm nhiều bộ phận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau; cơ
cấu biểu hiện mối quan hệ về tỉ trọng giữa các bộ phận hợp thành so với tổng thể hoặc
là tỉ lệ giữa các bộ phận với nhau, bộ phận này tăng thì bộ phận kia giảm và ngược
lại” [28, Trang 16].

-12-


Cơ cấu lao động, đó là một phạm trù kinh tế, thể hiện tỉ trọng của từng yếu tố lao
động theo các tiêu thức khác nhau trong tổng thể hoặc tỉ lệ của từng yếu tố so với một
yếu tố khác được tính bằng phần trăm. Cơ cấu lao động thường được thể hiện là:
- Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế quốc dân: thể hiện theo ba nhóm ngành
lớn là nông – lâm – thủy sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Cơ cấu lao động
theo nhóm ngành kinh tế quốc dân có mối quan hệ chặt chẽ và phản ánh trình độ phát

triển kinh tế - xã hội. Sự biến đổi cơ cấu lao động theo ngành trong mối quan hệ với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội diễn ra theo quy luật là trình độ phát triển kinh tế xã hội càng cao thì lao động làm việc trong công nghiệp và dịch vụ tăng cả số lượng
và tỉ trọng. Việc chuyển bớt lao động làm việc từ khu vực nông nghiệp có năng suất
lao động thấp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ đòi hỏi có trình độ chuyên môn kĩ
thuật và năng suất lao động cao hơn có tác động quyết định làm tăng nhanh năng suất
lao động xã hội mà năng suất lao động là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển.
- Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế: là cơ cấu thể hiện mối quan hệ xã
hội của lực lượng lao động (quốc doanh, tập thể, tư nhân, cá thể, đầu tư nước ngoài…).
Nền kinh tế chỉ phát triển khi mọi lực lượng sản xuất được giải phóng, huy động tối đa
nguồn lực trong và ngoài nước (trong đó có nguồn lao động) vào quá trình phát triển.
Để huy động được sức mạnh của mọi thành viên xã hội, mọi thành phần kinh tế, đòi
hỏi phải thiết lập một hệ thống chính sách để duy trì mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa
các thành phần kinh tế nhằm khai thác triệt để tiềm lực kinh tế - xã hội của đất nước.
Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế sẽ giúp cho việc phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, huy động mọi tầng lớp, mọi nguồn vốn tham gia vào các hoạt động kinh
tế, xây dựng đất nước.
- Cơ cấu lao động theo lãnh thổ (thành thị - nông thôn, các vùng kinh tế…)
trong mối quan hệ với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất để tạo nên sự kết hợp
đồng bộ thúc đẩy phát triển sản xuất xã hội có hiệu quả. Sử dụng lao động theo lãnh
thổ là một hình thức đặc biệt của phân công lao động xã hội, mà kết quả mỗi địa
phương căn cứ vào điều kiện đặc thù của mình sẽ chuyên môn hóa sản xuất một (hay
một số) sản phẩm, đôi khi chỉ một bộ phận nào đó của sản phẩm để cung cấp cho nhu
cầu của các vùng khác trong nước và cả nước ngoài. Đôi khi để đảm bảo có sự cân
bằng đồng bộ các yếu tố này dẫn đến quá trình di chuyển dân cư và lao động giữa các
-13-


lãnh thổ. Phân công lao động theo lãnh thổ sẽ giúp sử dụng và khai thác thế mạnh của
từng vùng, từng địa phương.
- Ngoài ra còn có cơ cấu lao động phân theo giới tính, độ tuổi; cơ cấu lao động

phân theo trình độ văn hóa, chuyên môn kĩ thuật; cơ cấu lao động phân theo trình độ
có việc làm, thất nghiệp ở thành thị…
Trong quá trình nghiên cứu của đề tài, nhóm tác giả tập trung đi sâu phân tích cơ
cấu lao động phân theo ngành kinh tế và theo thành phần kinh tế.
 Đặc trưng của cơ cấu lao động
Trên cơ sở các số liệu thống kê về sự thay đổi trong cơ cấu lao động của các
nước tư bản Tây Âu, trải qua giai đoạn đô thị hóa phát triển, Jean Fourastier đưa ra lí
thuyết “ba khu vực hoạt động kinh tế - xã hội”. Theo lí thuyết này, tất cả các hoạt động
của các cộng đồng được chia thành ba khu vực hoạt động cơ bản:
Khu vực I: Bao gồm các hoạt động khai thác trực tiếp các tài nguyên thiên nhiên
có sẵn như đất, rừng, biển, trong đó nông nghiệp (theo nghĩa rộng) gồm có nông - lâm
- ngư là hoạt động chủ đạo và là hoạt động thời kỳ đầu của tất cả các cộng đồng mới
thành lập.
Khu vực II: Tổ chức xã hội của cộng đồng ngày một phát triển, nhu cầu của con
người cũng đòi hỏi cao hơn. Dựa trên những thành tựu của khoa học, con người biết
chế biến những sản phẩm của tài nguyên thiên nhiên (của khu vực I) hoặc tạo ra những
sản phẩm mới mà thiên nhiên không có. Nhờ đó mà sản phẩm xã hội làm ra tăng lên
đột biến. Năng suất lao động công nghiệp có ưu việt là cao hơn hẳn năng suất lao động
nông nghiệp, nền công nghiệp hóa có tốc độ phát triển nhanh tất nhiên kéo theo tốc độ
đô thị hóa và gia tăng thu nhập quốc dân tính theo đầu người. Mức sống dân cư đô thị
cao tạo ra một sức hút cực kì mạnh, kéo theo lao động từ nông thôn vào đô thị thành
những dòng di cư đông đảo J.Fourastier gọi lao động công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp là lao động khu vực II.
Khu vực III: Đô thị hóa mở rộng nhanh cả về số lượng đô thị lẫn quy mô dân số.
Các đô thị trong một quốc gia dần dần trở thành một hệ thống có mối quan hệ khăng
khít với nhau và nảy sinh những mối liên hệ liên vùng, liên quốc gia. Do vậy, sau thời
kì công nghiệp đại cơ khí hóa, đến thời kì công nghiệp tự động hóa, điện tử hóa, lao
-14-



động công nghiệp giảm dần mà sản phẩm xã hội vẫn tăng. Quỹ thời gian nhàn rỗi của
người lao động được gia tăng, trong điều kiện đó đòi hỏi phải có tổ chức dịch vụ thích
ứng nhằm cải thiện môi trường sống.
Dịch vụ thương mại, dịch vụ sinh hoạt, dịch vụ giao tiếp, nghỉ dưỡng du lịch, vui
chơi giải trí phát triển ngày một rộng, các hoạt động ngân hàng, tài chính, thuế quan,
ngoại thương phát triển tiếp theo, cũng như là đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, y tế,
văn hóa, giáo dục, giao thông liên lạc, quản lí hành chính…Nhu cầu về dịch vụ nói
chung đòi hỏi ngày càng lớn và không ngừng gia tăng về khối lượng cũng như về dạng
loại hình. J.Fourastier xếp các loại hoạt động nêu trên vào lao động khu vực III, gọi
chung là lao động dịch vụ.
Lí thuyết ba khu vực hoạt động kinh tế của J.Fouraster có một ý nghĩa rất lớn.
Muốn biết được trình độ phát triển của lực lượng sản xuất một quốc gia, ta chỉ cần
xem xét tỉ lệ lao động giữa ba khu vực đó thì có thể có khái niệm chung được, vì thực
chất quan hệ tỉ lệ lao động của ba khu vực hoạt động kinh tế này tương ứng với ba thời
kì phát triển của nền văn minh:
- Văn minh nông nghiệp
- Văn minh công nghiệp
- Văn minh hậu công nghiệp hay văn minh tin học, văn minh khoa học kĩ thuật
Sự phân chia lao động theo ngành phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của quốc
gia. Các nước đang phát triển, dân số lao động trong khu vực nông nghiệp lớn hơn khu
vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Nhưng hiện nay ở các nước đang phát triển, diễn
ra sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế chuyển từ khu vực I sang khu vực II và III.
Sự tăng trưởng GDP/người ngày càng cao thì tỉ trọng lao động làm việc trong nông
nghiệp càng giảm, trong công nghiệp và dịch vụ tăng và ngược lại. Sự thay đổi cơ cấu
kinh tế dẫn đến sự thay đổi cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỉ trọng lao động khu
vực I, tăng tỉ trọng lao động ở khu vực II và III. Các nước đang phát triển, muốn sử
dụng tốt lao động, giải quyết vấn đề việc làm, tăng thu nhập cho dân cư phải tiến hành
công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế [20], [34].

-15-



1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động
 Chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ phận trong
tổng số lao động, theo một không gian và khoảng thời gian nào đó. Như vậy, chuyển
dịch cơ cấu lao động là một khái niệm nêu ra trong một không gian và thời gian nhất
định, làm thay đổi số lượng và chất lượng lao động. Cơ cấu lao động chuyển dịch tùy
theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, phục vụ và đáp ứng cho chuyển dịch của cơ
cấu kinh tế. Ngoài ra, cơ cấu lao động chuyển dịch nhanh hay chậm phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như sự hấp dẫn của nghề nghiệp, điều kiện làm việc, hưởng thụ của
ngành nghề mới sẽ chuyển dịch sang làm việc; sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
thông qua các cơ chế, chính sách cụ thể... Tuy nhiên, khi cơ cấu lao động được chuyển
dịch thuận lợi, lại tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế thuận lợi và đòi hỏi
phải chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế.
 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi, vận động của các hiện
tượng, các bộ phận cấu thành tổng thể lao động theo chiều hướng nhất định tương đối
ổn định trong một thời gian với những bối cảnh kinh tế - xã hội xác định. Có những xu
hướng chuyển dịch mang tính quy luật hoạt động cùng với sự phát triển của xã hội, có
những xu hướng vận động chỉ trong những giai đoạn lịch sử mang tính nhất thời.
Thứ nhất: xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với xu hướng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo ngành. Đây là xu hướng chuyển dịch quan trọng nhất và có thể
chia thành hai giai đoạn:
- Ở giai đoạn đầu của nền kinh tế nước ta, lao động nông nghiệp từ chỗ chỉ tập
trung vào việc độc canh cây lúa là chính, chuyển sang sản xuất thâm canh tăng vụ và
đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi qua đó từng bước hình thành các vùng sản xuất chuyên
canh có quy mô lớn, được hiện đại hóa. Quy mô và tốc độ chuyển dịch lao động trong
giai đoạn này sẽ phụ thuộc vào tốc độ tăng năng suất lao động của ngành trồng cây
lương thực và khả năng ứng dụng tiến bộ kĩ thuật mới vào trong trồng trọt và chăn

nuôi.

-16-


- Ở giai đoạn tiếp theo, khi lao động trong nông nghiệp bắt đầu dư thừa thì các
ngành sản xuất phi nông nghiệp như công nghiệp nông thôn, ngành nghề tiểu thủ công
và dịch vụ… sẽ được đầu tư phát triển mạnh để thu hút lao động nông nghiệp. Tạo nên
sự chuyển dịch lao động theo hướng từ thuần nông sang chuyển dịch lao động nông –
công nghiệp – dịch vụ.
Thứ hai: xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với sự thay đổi cơ cấu
chuyên môn kĩ thuật. Đây là xu hướng chuyển dịch phản ánh sự biến đổi về chất của
nguồn lao động. Căn cứ vào mức độ phức tạp của từng loại chuyên môn và trình độ
lành nghề của lao động, xu hướng chuyển dịch diễn ra theo hai giai đoạn sau khi sự
đòi hỏi về mức độ phức tạp của công việc cũng như trình độ lành nghề ngày càng cao
thì xu hướng chuyển dịch cơ bản sẽ là tăng tỉ trọng lao động có trình độ công nhân kĩ
thuật, nghệ nhân, lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học…
và giảm tỉ trọng lao động có trình độ thấp.
Thứ ba: xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với cơ cấu kinh tế vùng lãnh
thổ. Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
sự tích tụ tập trung tư liệu sản xuất, kinh nghiệm lao động… thì xu hướng chuyển dịch
là: tỉ trọng lao động làm việc trong các làng nghề, các vùng sản xuất chuyên môn hóa
và khu công nghiệp tập trung trình độ cao sẽ ngày càng tăng lên. Kết quả sẽ tạo ra các
vùng kinh tế trọng điểm chuyên môn hóa, các khu công nghiệp chế biến tập trung và
làng nghề tiểu thủ công nghiệp có cơ cấu ngành nghề phong phú, đóng vai trò là
những hạt nhân đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động của cả nước [28, trang
25, 26].
 Ý nghĩa của chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động tạo điều kiện để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thích nghi với cơ cấu kinh tế mới. Kinh nghiệm của nhiều nước cho

thấy, muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải phối hợp chặt chẽ với sự thay đổi
về trình độ khoa học kĩ thuật, công nghệ, tài chính với chính sách phát triển nguồn
nhân lực.
Chuyển dịch cơ cấu lao động đóng góp vào sự phân bố lại lao động hợp lí giữa
các vùng, giữa các ngành, nghề, tạo điều kiện cho người lao động lựa chọn được nghề

-17-


nghiệp phù hợp, mang lại thu nhập cao hơn, tăng cơ hội tìm việc làm. Chuyển dịch cơ
cấu chất lượng lao động làm tăng tỉ trọng lao động có đào tạo là điều kiện tiên quyết
để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và là yếu tố quyết định cho
sự hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến quy mô và cơ cấu lao động
1.2.1.

Vị trí địa lí của lãnh thổ

* Vị trí địa lí tự nhiên là yếu tố chi phối các điều kiện tự nhiên của lãnh thổ, có
ảnh hưởng tới sự cư trú và sản xuất của con người. Sự ảnh hưởng đó có thể thấy thông
qua các yếu tố địa hình, khí hậu, đất đai, nguồn nước, sinh vật, khoáng sản…
* Vị trí địa lí kinh tế có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của
lãnh thổ, ảnh hưởng đến sự phân bố và cơ cấu dân cư, lao động. Một lãnh thổ có vị trí
thuận lợi cho giao lưu kinh tế cùng với đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn,
lợi thế về vị trí địa lí sẽ được tận dụng để phát triển kinh tế, thu hút lao động có trình
độ cao, lao động công nghiệp dịch vụ chiếm ưu thế.
1.2.2.

Các nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên


 Địa hình ảnh hưởng đến việc cư trú, đi lại của con người, chi phối phương
thức canh tác cũng như năng suất của đất đai. Dân cư và lao động thường tập trung
đông ở những vùng có địa hình bằng phẳng, thuận tiện cho sản xuất và sinh hoạt, càng
lên cao dân cư càng thưa thớt.
 Khí hậu chi phối mọi hoạt động sản xuất nhất là nông – lâm – ngư nghiệp,
ảnh hưởng tới sinh hoạt của dân cư và lao động. Vùng nhiệt đới ánh sáng nhiều, nhiệt
độ cao, cây trồng vật nuôi sinh trưởng nhanh, năng suất cao, nuôi sống nhiều người
nên đây cũng là nơi tập trung đông dân cư và lao động.
 Đất đai là yếu tố sản xuất quan trọng của nông nghiệp, mọi hoạt động kinh tế
- xã hội cần có đất đai. Sự tập trung dân cư và lao động đông đúc trước tiên là những
vùng đất đai màu mỡ, thuận lợi cho canh tác cây lương thực, thực phẩm. Sự chuyển
dịch dân cư – lao động sang các lĩnh vực phi nông nghiệp đều phải dựa vào nguồn
cung cấp lương thực, thực phẩm từ các vùng sản xuất trọng điểm - nơi có đất đai thích
hợp với cây lương thực, thực phẩm.

-18-


 Nguồn nước cần thiết cho sự sống của mọi sinh vật, cần thiết cho hoạt động
của nông nghiệp. Sự phân bố lao động chịu ảnh hưởng gián tiếp của nguồn nước.
Vùng khô hạn không đủ nước cho cây trồng vật nuôi phát triển thì dân cư lao động
cũng thưa thớt. Trái lại, nơi có nguồn nước phong phú thuận lợi cho các hoạt động sản
xuất, nguồn lao động tập trung đông đúc.
 Khoáng sản là nguyên liệu của công nghiệp. Sự phân bố khoáng sản ảnh
hưởng đến sự phân bố công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp khai thác) và lao động
công nghiệp. Công nghiệp khai khoáng đòi hỏi sức khỏe tốt và ở mức độ nhất định cần
tới trình độ văn hóa, chuyên môn kĩ thuật nên vùng công nghiệp khai khoáng thường
có kết cấu lao động nam nhiều hơn nữ và tỉ lệ lao động có chuyên môn kĩ thuật cao
 Sinh vật là nhân tố quan trọng tạo nên sự cân bằng sinh thái. Rừng có vai trò
điều hòa khí hậu, duy trì mực nước ngầm, hạn chế lũ lụt, giảm bớt hạn hán, làm trong

sạch môi trường sống. Hiện tượng thiên tai lũ lụt ở Việt Nam ngày càng nhiều, đây là
hậu quả của sự tàn phá rừng đầu nguồn, của tập quán du canh du cư ở đồng bào dân
tộc thiểu số, của sự khai hoang bừa bãi không khoa học. Điều đó ảnh hưởng không
nhỏ tới cuộc sống và các hoạt động sản xuất.
1.2.3.

Các nhân tố kinh tế - xã hội

 Dân số ảnh hưởng đến nguồn lao động
Dân số quyết định tới quy mô và chất lượng nguồn lao động.
- Gia tăng tự nhiên ảnh hưởng đến quy mô nguồn lao động
Nguồn lao động là một bộ phận quan trọng của dân số. Sự gia tăng dân số quyết
định mức gia tăng lao động trong tương lai (sau 15 đến 25 năm). Những nước có mức
gia tăng dân số cao góp phần làm tăng quy mô nguồn lao động. Nguồn lao động phát
triển nhanh về số lượng nhưng hạn chế về trình độ văn hóa, chuyên môn kĩ thuật làm
cho năng suất lao động thấp, thu nhập bình quân đầu người càng thấp, kinh tế chậm
phát triển, nhiều lao động không có việc làm.
Những nước có gia tăng dân số thấp và ổn định thì mức gia tăng lao động cũng
thấp và ổn định, tỉ lệ lao động trong dân số cao, tổng sản phẩm xã hội lớn, thu nhập
bình quân đầu người cao, tạo thuận lợi cho sự tích lũy vốn đầu tư mở rộng sản xuất và
đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao.
-19-


Một số nước có gia tăng dân số quá thấp hoặc âm làm cho quy mô dân số và lao
động có nguy cơ bị suy giảm, đội ngũ lao động ở đây có trình độ cao song lại thiếu
nguồn bổ sung lao động trẻ.
Khi mức gia tăng dân số cao, thu nhập quốc dân dành cho tiêu dùng và đầu tư
vào các công trình phúc lợi công cộng phục vụ cho dân số đó sẽ tăng lên, thu nhập đầu
tư cho tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng giảm đi, dẫn tới khó khăn cho mở rộng đầu

tư việc làm. Điều đó ảnh hưởng tới số lượng và chất lượng của lực lượng lao động.
Ngược lại, khi quy mô lực lượng lao động lớn, nhất là số người trong độ tuổi lao
động chiếm tỉ lệ cao trong dân số, dẫn tới quy mô dân số đặc biệt là dân số nữ trong độ
tuổi sinh đẻ lớn làm cho mức sinh cao.
- Gia tăng cơ học ảnh hưởng đến quy mô lực lượng lao động
Theo quy luật chung, người dân di chuyển từ nơi có mức sống thấp sang nơi có
mức sống cao; từ nơi có ít cơ hội kiếm được việc làm hoặc việc làm sang nơi có nhiều
cơ hội kiếm được việc làm hoặc việc làm có thu nhập cao. Như vậy dòng di dân với
các đặc trưng trên sẽ làm tăng quy mô lực lượng lao động nơi nhập cư và giảm quy mô
lực lượng lao động nơi xuất cư.
Nơi nhập cư: nếu bộ phận lực lượng lao động nhập cư có trình độ văn hóa và
trình độ nghề nghiệp thấp thì khó có thể tham gia vào khu vực kinh tế hiện đại, chỉ
tham gia vào khu vực kinh tế truyền thống, hoặc không tìm được việc làm, từ đó tạo
thêm gánh nặng thất nghiệp cho những nơi nhập cư.
Nơi xuất cư: Ở mức nào đó, việc xuất cư sẽ làm giảm bớt sự tập trung dân số,
giảm được số người thất nghiệp trong lực lượng lao động. Nhưng nếu di cư là lao động
chất xám, có trình độ nghề nghiệp và học vấn thì ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn
lao động tại nơi xuất cư. Đó cũng là một trong những trở ngại lớn cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của nơi xuất cư.
Ngoài ra, tại nơi xuất cư có quy mô lực lượng lao động lớn, sự phát triển kinh tế xã hội không đủ việc làm cho người lao động nên dẫn tới hiện tượng thừa lao động,
chủ yếu là những lao động có trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp thấp, khiến họ
phải di chuyển tới những nơi có cơ hội kiếm được việc làm. Điều này làm gia tăng
gánh nặng về các vấn đề kinh tế - xã hội cho nơi nhập cư.
-20-


- Cơ cấu dân số với cơ cấu lực lượng lao động
* Cơ cấu dân số trẻ: Dân số dưới độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ cao làm tăng sức
ép lên các dịch vụ giáo dục, y tế, hạn chế việc nâng cao chất lượng cuộc sống; khả
năng đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại lao động, cho chuyển giao công nghệ, phát triển

sản xuất bị hạn chế. Từ đó ảnh hưởng đến chất lượng cũng như khả năng chuyển dịch
cơ cấu lao động:
Theo trình độ lao động thì lao động được đào tạo nghề chiếm tỉ lệ thấp và lao
động chưa qua đào tạo nghề chiếm tỉ lệ cao.
Theo khu vực sản xuất, cơ cấu lực lượng lao động bao gồm: lực lượng lao động ở
khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao và lực lượng lao động ở khu vực công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ lệ thấp. Với cơ cấu dân số trẻ, để đáp ứng đủ nhu cầu lương
thực cho người dân nên nền kinh tế thường tập trung vào khu vực sản xuất nông
nghiệp. Điều đó dẫn tới hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp phổ biến trong lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp.
* Cơ cấu dân số già: có ảnh hưởng nhất định đến cơ cấu lực lượng lao động. Nếu
tỉ lệ người già quá đông thì dân số tham gia vào lực lượng lao động thấp, một bộ phận
lớn dân số không hoạt động kinh tế sẽ tăng thêm gánh nặng cho lực lượng lao động.
Một bộ phận lớn lao động sẽ phải tham gia vào khu vực dịch vụ an sinh xã hội cho
người cao tuổi, không thể đóng góp vào mức tăng trưởng kinh tế.
* Cơ cấu dân số hợp lí: Nếu cơ cấu dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế xã
hội, thì đầu tư cho phát triển nguồn lao động tương lai và hiện tại thuận lợi hơn. Cơ
cấu của lực lượng lao động có những đặc trưng: tỉ lệ lao động có chuyên môn kĩ thuật
cao chiếm phần lớn, tỉ lệ lao động có việc làm cao, thất nghiệp thấp.
- Phân bố dân cư với phân bố lực lượng lao động
Nếu phân bố dân cư bất hợp lí so với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thì sức
ép lao động việc làm cao. Lao động không gắn với phân bố tài nguyên, với đối tượng
lao động, với cơ sở vật chất kĩ thuật khiến cho vấn đề tạo việc làm trở nên khó khăn,
dẫn tới mức sống thấp, cuộc sống nghèo đói. Đó là nguyên nhân làm cho mức sinh
cao, mức di dân cao và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân bố lực lượng lao động.

-21-


Nếu phân bố dân cư hợp lí thì sẽ phát huy được các yếu tố tích cực của sản xuất

và phát triển như tài nguyên, con người, vốn… Cơ hội kiếm việc làm nhiều, thu nhập
cao. Có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất, phát triển nguồn nhân lực.
- Chất lượng dân số với chất lượng lực lượng lao động
Chất lượng dân số là nói về chất lượng của toàn bộ dân số, từ những người dưới
tuổi lao động, những người trong độ tuổi lao động đến những người trên tuổi lao động.
Chất lượng của dân số dưới tuổi lao động sẽ có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng
lao động trong tương lai vì sau 10 - 15 năm nữa họ sẽ bước vào tuổi lao động. Chất
lượng của những dân số trong độ tuổi lao động là chất lượng của nguồn lao động hiện
tại. Nếu chất lượng của nguồn lao động cao thì tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư,
chăm sóc nhóm dân số dưới tuổi lao động, làm cho chất lượng nguồn lao động tương
lai cao. Trình độ học vấn của trẻ em là sự thể hiện chất lượng nguồn lao động trong
tương lai và chịu ảnh hưởng rất lớn bởi trình độ học vấn của bố mẹ.
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao
động. Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, yêu cầu tốc độ chuyển dịch lao động cũng phải
tăng để cung cấp lao động cho các ngành nhằm đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Ngược lại, khi tăng trưởng kinh tế cao, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ, theo ngành, vùng kinh tế nhanh hơn do
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do tốc độ phát triển kinh tế đòi hỏi và quyết định.
 Cơ cấu kinh tế
* Cơ cấu ngành kinh tế chi phối lao động theo ngành. Một nền kinh tế nông
nghiệp, lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, năng suất lao động
thấp. Nền kinh tế công nghiệp phát triển, lao động chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp,
dịch vụ, người lao động có tính năng động cao, có kỉ luật và tác phong trong công
nghiệp.
* Cơ cấu thành phần kinh tế đơn điệu làm cho người lao động bị gò bó không
phát huy hết khả năng của mình. Thành phần kinh tế đa dạng mở đường cho người lao
động tự chủ, phát huy hết khả năng về vốn, sức khỏe, thời gian và trình độ của mình để
mở mang sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho bản thân và xã hội.
-22-



* Cơ cấu lãnh thổ ảnh hưởng đến sự phân bố lao động theo lãnh thổ và đặc trưng
cơ cấu nghề nghiệp ở từng địa phương. Sự chuyên môn hóa của các vùng kinh tế tạo
nên sự chuyên môn hóa lao động giữa các vùng. Đồng thời, sự phát triển tổng hợp
vùng sẽ tận dụng tiềm năng lao động trong vùng để phát triển KT - XH và tăng lực
lượng lao động dịch vụ, tạo những mối liên hệ hữu cơ trong và ngoài vùng, ổn định và
phát triển vùng kinh tế. Cơ cấu lãnh thổ nền KT - XH càng phát triển, càng tạo điều
kiện sử dụng hợp lí nguồn lao động, tạo nên sức mạnh của nền kinh tế.
 Lịch sử khai thác lãnh thổ
Những vùng có lịch sử khai thác lâu đời thường là những vùng đông dân, lực
lượng lao động dồi dào. Đó thường là những vùng thiên nhiên ưu đãi, đất đai phì
nhiêu, giao lưu thuận tiện, chủ yếu là các đồng bằng châu thổ như các đồng bằng vùng
Châu Á gió mùa với truyền thống trồng lúa nước cần nhiều lao động và nuôi sống
được số dân đông, hoặc là những nơi phân bố tập trung khoáng sản để khai thác; hoặc
là những nơi có vị trí thuận lợi cho buôn bán, sớm hình thành những trung tâm thương
mại. Hà Nội là thành phố có lịch sử hình thành lâu đời, cơ sở hạ tầng khá phát triển,
tập trung đông dân cư và lao động, đội ngũ lao động có trình độ cao, nơi tập trung
đông đảo các nhà khoa học.
 Cơ sở hạ tầng
Ở đâu có cơ sở hạ tầng phát triển, ở đó nền kinh tế thịnh vượng, dân cư lao động
tập trung đông. Giao thông vận tải, thông tin liên lạc là những yếu tố quan trọng hàng
đầu trong cơ sở hạ tầng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, nó đảm bảo thông tin
nhanh nhạy, lưu thông hàng hóa kịp thời, tạo điều kiện phát triển kinh tế, thu hút lao
động tập trung.
Muốn phân bố lại lực lượng lao động trên lãnh thổ, phải quan tâm xây dựng cơ
sở hạ tầng, trước hết là đường giao thông mạng lưới thông tin, nhà ở, sau nữa là trường
học, trạm y tế, điện, nước,…Những vùng đồng bằng, những thành phố tập trung đông
người do cơ sở hạ tầng ở đó phát triển thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt.
Cơ sở hạ tầng phát triển tạo điều kiện mở mang sản xuất và hình thành nhiều loại

hình dịch vụ, làm gia tăng lực lượng lao động, lao động có sự chuyển dịch phù hợp với
sự phát triển của nền kinh tế.
-23-


 Đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
Quyết định xu hướng phát triển và sử dụng nguồn lao động. Đường lối đổi mới,
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các chính sách hợp lí thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân trong nước đưa vào sản xuất, tận
dụng được tiềm năng lao động. Các chính sách tạo sự công bằng xã hội như khuyến
nông, xóa đói, giảm nghèo…tạo cơ hội cho nông dân, những người nghèo có vốn sản
xuất, nâng cao mức sống, tăng sức khỏe người dân nói chung, người lao động nói
riêng. Các chính sách về giáo dục, y tế sẽ tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất
lượng lao động.
 Giáo dục
Giáo dục có vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển tiềm năng con người.
Giáo dục cung cấp những tri thức phổ thông hiện đại, những kiến thức khoa học kỹ
thuật chuyên ngành cho người lao động. Năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào
sức khỏe người lao động, vào công nghệ sản xuất mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu
biết của người lao động. Giáo dục và đào tạo là một bộ phận hữu cơ của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo ra các nguồn lao động có chất lượng cao để thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
 Y tế
Sức khỏe làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả hiện tại và tương lai. Người
lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao
sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong khi đang làm việc. Việc nuôi dưỡng và
chăm sóc sức khỏe tốt sẽ là yếu tố làm tăng năng suất lao động xã hội.
1.3. Cơ sở thực tiễn về quy mô và cơ cấu lao động tại Việt Nam
1.3.1. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tăng nhanh
Con người là vốn quý nhất. Lao động là một trong những nguồn tài nguyên quan

trọng của mỗi quốc gia. Nước ta có nguồn lao động dồi dào, đó là một tiềm năng to
lớn để phát triển kinh tế - xã hội.

-24-


-

Quy mô lực lượng lao động nước ta lớn và tăng nhanh
Bảng 1.1: Lực lượng lao động của nước ta thời kì 1989-2012 (triệu người)
Năm

1989

1999

2009

2012

Lực lượng lao động

28,4

37,3

47,7

52,3


Nguồn: [5], [30]
Năm 2012, cả nước có 52,3 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động, chiếm 58,9% tổng dân số, bao gồm 51,4 triệu người có việc làm và 925,6 nghìn
người thất nghiệp. Trong tổng số lực lượng lao động của cả nước, nữ giới chiếm tỉ
trọng thấp hơn nam giới (48,6% nữ giới so với 51,4% nam giới). Sức trẻ là đặc điểm
nổi trội của tiềm năng nguồn lao động nước ta. Cơ cấu dân số hoạt động kinh tế chia
theo nhóm tuổi tập trung nhiều nhất ở nhóm 15 – 34 tuổi chiếm gần 50%, tiếp đó là
nhóm 35 – 54 tuổi (bảng 1.2).
Bảng 1.2: Cơ cấu dân số hoạt động kinh tế theo nhóm tuổi các năm 1989,
2009 và 2012 (%)
Năm

Nhóm trẻ
(15-34 tuổi)

Nhóm trung niên
(35-54 tuổi)

Nhóm cao tuổi
(≥ 55 tuổi)

1989

52,6

40,3

7,1

2009


47,6

42,1

10,3

2012

44,7

43,8

11,5

Nguồn: [5], [30]
Nguồn lao động trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ
tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa,
đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là
yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng gây áp lực lớn cho giải
quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động. Đặc biệt, với tốc độ tăng dân số
nhanh và cơ cấu dân số trẻ nên mỗi năm nước ta có hơn 1,2 triệu người đến tuổi lao
động và được bổ sung vào lực lượng lao động của đất nước càng làm cho vấn đề việc
làm thêm gay gắt.

-25-


×