Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

25 quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.37 KB, 4 trang )

I/LỜI MỞ ĐẦU
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại diễn ra hằng ngày trong đời
sống và quan hệ mua bán hàng hóa đựoc xác lập và thực hiện thông qua hình
thức pháp lí là hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong bài viết dưới đây, dưới góc
nhìn của một sinh viên và bằng một số tài liệu tham khảo, em xin phân tích vấn
đề : quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa.
II/ NỘI DUNG
Căn cứ vào quy định của Luật thương mại năm 2005 và các quy định có liên
quan của Bộ luật Dân sự ( BLDS ) năm 2005 có thể xác định một hợp đồng mua
bán hàng hóa có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
1. Các chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực chủ thể để thực hiện
nghĩa vụ theo hợp đồng
Năng lực chủ thể để thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán
hàng hóa đó là :
- Có điều kiện thành lập hợp pháp
- Có nội dung đăng kí kinh doanh của thương nhân
Hai yếu tố trên là thước đo năng lực thực hiện hành vi kinh doanh của
thương nhân để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Hiện nay, trong một số ngành nghề kinh doanh, pháp luật thương mại đòi
hỏi chủ thể kinh doanh phải đáp ứng thêm những yếu tố cần thiết đó là trường
hợp mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện thì các
chủ thể cần phải có giấy phép hành nghề kinh doanh. Đây là cơ sở để xác định
năng lực pháp luật của các chủ thể tham gia hợp đồng .
Như vậy, có thể thấy rằng :
- Các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có năng lực chủ thể
để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Nếu chủ thể của hợp đồng là cá nhân thì
1


phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nếu chủ thể là thương nhân tham gia hợp


đồng mua bán với mục đích lợi nhuận thì còn có thêm điều kiện các thương nhân
này phải có đăng kí kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán và phải
đáp ứng đủ các điều kiện kinh doanh mà pháp luật quy định nếu hàng hóa trong
hợp đồng là hàng hóa kinh doanh có điều kiện.
2. Đại diện của các bên giao kết hợp đồng phải là người đại diện hợp pháp
Khái niệm người đại diện hợp pháp được quy định trong BLDS năm 2005.
Theo đó, đại diện hợp pháp bao gồm: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy
quyền. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định. Theo Bộ luật Dân sự (BLDS) “ Đại diện
theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và
người được đại diện. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản ”. (Điều 151).
Hiện nay, đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết do một bên chủ thể
không có thẩm quyền được xử lí theo quy định tại Điều 145 BLDS 2005 đó là
người không có quyền đại diện giao kết lại thực hiện việc giao kết hợp đồng thì
sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện.
3. Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử giữa người với người trong đời sống xã hội được xã hội thừa nhận.
Vấn đề quan trọng ở đây là đối tượng của hợp đồng : hàng hóa và dịch vụ
phải là những hàng hóa, dịch vụ được pháp luật cho phép trao đổi, mua bán…
vào thời điểm giao kết. Hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh trong thương mại hiện

2


nay được quy định trong danh mục ban hành theo nghị định số 56/2006/NĐ – CP

ngày 12/06/2006.
4. Hợp đồng giao kết phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện
Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết phải đảm bảo các nguyên tắc
của hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Việc quy định hợp đồng giao kết phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện xuất
phát từ quyền tự do kí kết hợp đồng và phù hợp với ý chí thực của họ, hướng đến
lợi ích chính đáng của các bên, đồng thời không xâm hại đến những lợi ích khác
được pháp luật bảo vệ. Những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để kí kết hợp
đồng … đều bị coi là vi phạm pháp luật và hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
5. Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực, nội dung hợp đồng phải được
xác lập theo các hình thức được quy định tại điều 24 Luật thương mại năm 2005.
Theo quy định tại Điều 24 Luật thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp
pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó .
Hiện nay ,việc công chứng hợp đồng chỉ áp dụng đối với một số loại hợp
đồng mua bán, cho thuê, cho mượn các đối tượng là quyền sử dụng đất, bất động
sản, hợp đồng bảo lãnh, v.v.
III/ KẾT LUẬN
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa là một nội dung
quan trọng, do đó các bên tham gia quan hệ hợp đồng cần phải hiểu rõ các điều
kiện trên để bảo vệ quyền lợi của mình. Do thời gian có hạn cũng như khả năng
nắm bắt vấn đề còn hạn chế, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp, khắc phục từ các thầy cô.

3


I/LỜI MỞ ĐẦU
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại diễn ra hằng ngày trong đời

sống và quan hệ mua bán hàng hóa đựoc xác lập và thực hiện thông qua hình
thức pháp lí là hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong bài viết dưới đây, dưới góc
nhìn của một sinh viên và bằng một số tài liệu tham khảo, em xin phân tích vấn
đề : quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa.

4



×