Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Thịnh Hưng (TNHH) trên thị trường tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.29 KB, 88 trang )

LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn cần thiết và hết sức quan trọng của mỗi
sinh viên, không những củng cố lại kiến thức đã học mà còn vận dụng các kiến
thức đó vào thực tiễn. Hơn nữa đồng thời giúp sinh viên nâng cao kiến thức luận,
phương pháp làm việc một cách hiệu quả đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Từ những cơ sở đó, được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ
nhiệm khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, tôi đã tiến hành thực tập tốt nghiệp
tại Công ty Thịnh Hưng (TNHH) từ ngày 27/12/2010 đến ngày 27/05/2011 với đề
tài:“Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty
Thịnh Hưng (TNHH) trên thị trường tỉnh Bắc Ninh” .
Để hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới Ban chủ nhiệm khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh đã tận tình giảng dạy
và truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Th.S Đặng Văn Tiến đã hướng dẫn tận
tình và giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian hoàn thành luận văn.
Qua đây tôi cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn Ban giám đốc, Phòng kế
toán Công ty Thịnh Hưng (TNHH) đã tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn và giúp
đỡ tôi hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp.
Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu nhưng do thời gian cũng như
kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của thầy, cô giáo để đề tài của tôi được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Tuyết Nhung


I. MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.


Khác hẳn với các doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh
nghiệp trong thời mở cửa ngày nay luôn biết đặt mình vào vòng xoáy kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên đòi
hỏi các doanh nghiệp phải biết chấp nhận, tuân thủ khai thác các quy luật kinh tế.
Trong cơ chế mới này mục tiêu hàng đầu cao nhất của các doanh nghiệp là
hiệu quả sản xuất kinh doanh bởi đó chính là điều kiện, là cơ sở cho sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp trong hiện tại và trong tương lai. Đó còn là tiền đề cho
doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, tăng vị thế cạnh tranh trên thị trường và
khẳng định chỗ đứng trong xã hội chỉ khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả lợi
ích kinh tế được đảm bảo thì lợi ích xã hội mới được thực hiện.
Với trình độ còn thấp, tiềm lực của các doanh nghiệp còn yếu hầu như trên
tất cả các mặt thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ đem lại động lực
thúc đẩy sản xuất đi lên, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giúp doanh nghiệp thoát khỏi nguy cơ phá sản và chiến thắng trên
thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Đây đang là một bài toán khó đối với
tất cả các doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại công ty, vận dụng một số lý
thuyết đã học, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của Công ty Thịnh Hưng (TNHH) trên thị trường tỉnh
Bắc Ninh” làm đề tài cho bài báo cáo thực tập của mình.


1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Thịnh Hưng, từ đó
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu tình hình kinh doanh thực tế diễn ra tại công ty. Những cơ hội
và thách thức mà môi trường bên trong cũng như bên ngoài mang lại cho công ty.

- Nghiên cứu các công ty bạn cũng đang kinh doanh cùng lĩnh vực với
Thịnh Hưng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Từ đó thấy được môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng ở tỉnh
Bắc Ninh trong đó Thịnh Hưng là một thành viên diễn ra gay gắt như thế nào.
- Từ thực trạng trên mới đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh cho công ty.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công ty Thịnh Hưng (TNHH) và các công ty bạn
hoạt động cùng lĩnh vực với Thịnh Hưng trên thị trường tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Công ty Thịnh Hưng (TNHH) và thị trường tỉnh Bắc Ninh.
+ Phạm vi thời gian: từ ngày 27/12/2010 đến ngày 27/05/2011.
1.4. Kết quả nghiên cứu dự kiến
- Đánh giá được thực trạng hoạt động cạnh tranh diễn ra tại công ty.
- Đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho
công ty
- Có được những nhận thức sâu hơn cho bản thân về cạnh tranh.


II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan tài liệu
2.1.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1.1. Cạnh tranh, đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường
a. Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh
* Khái niệm cạnh tranh:
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, các khái
niệm liên quan đến cạnh tranh còn rất khác nhau. Theo Mác “cạnh tranh là sự
phấn đấu ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt được những lợi nhuận siêu
ngạch”, có các quan niệm khác lại cho rằng “cạnh tranh là sự phấn đấu về chất

lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh nghiệp
khác” (theo nhóm tác giả cuốn “Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất
trong nước”). Theo kinh tế chính trị học thì “cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau
giữa các đối thủ nhằm giành lấy thị trường, khách hàng cho doanh nghiệp mình”.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các
doanh nghiệp trên thị trường nhằm giành được ưu thế hơn về cùng một loại sản
phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với các đối thủ cạnh
tranh.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất hiện và len lỏi
vào từng bước đi của các doanh nghiệp. Môi trường hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lúc này đầy sự biến động và vấn đề cạnh tranh đã trở nên cấp bách,
sôi động trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Như vậy, trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, trong bất cứ một lĩnh vực nào, bất cứ một hoạt động
nào của con người cũng nổi cộm lên vấn đề cạnh tranh. Ví như các quốc gia cạnh
tranh nhau để giành lợi thế trong đối ngoại, trao đổi, các doanh nghiệp cạnh tranh


nhau để lôi cuốn khách hàng về phía mình, để chiếm lĩnh những thị trường có
nhiều lợi thế và con người cạnh tranh nhau để vươn lên khẳng định vị trí của mình
cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ để những người dưới quyền phục tùng mệnh
lệnh, để có uy tín và vị thế trong quan hệ với các đối tác. Như vậy, có thể nói cạnh
tranh đã hình thành và bao trùm lên mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ tầm vi mô đến
vĩ mô, từ một cá nhân riêng lẻ đến tổng thể toàn xã hội. Điều này xuất phát từ một
lẽ đương nhiên nước ta đã và đang bước vào giai đoạn phát triển cao về mọi lĩnh
vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, mà bên cạnh đó cạnh tranh vốn là một quy luật
tự nhiên và khách quan của nền kinh tế thị trường, nó không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của mỗi người, bởi tự do là nguồn gốc dẫn đến cạnh tranh, cạnh
tranh là động lực để thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển. Bởi vậy, để

giành được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc các
doanh nghiệp phải thường xuyên động não, tích cực nhạy bén và năng động phải
thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới, bổ
sung xây dựng các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm trang thiết bị máy móc, loại bỏ
những máy móc đã cũ kỹ và lạc hậu và điều quan trọng phải có phương pháp tổ
chức quản lý có hiệu quả, đào tạo và đãi ngộ trình độ chuyên môn, tay nghề cho
người lao động. Thực tế cho thấy ở đâu thiếu có sự cạnh tranh thường ở đó biểu
hiện sự trị trệ và yếu kém sẽ dẫn doanh nghiệp sẽ mau chóng bị đào thải ra khỏi
quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Để thúc đẩy tiêu thụ và đẩy nhanh
tốc độ chu chuyển hàng hóa các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm
hiểu nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Do đó, cạnh tranh không chỉ kích thích tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn cải tiến mẫu mã, chủng loại
hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ làm cho sản xuất
ngày càng gắn liền với tiêu dùng, phục vụ nhu cầu xã hội được tốt hơn. Cạnh tranh
là một điều kiện đồng thời là một yếu tố kích thích hoạt động kinh doanh phát
triển. Bên cạnh những mặt tích cực cạnh tranh còn để lại nhiều hạn chế và tiêu
cực, đó là sự phân hóa sản xuất hàng hóa, làm phá sản những doanh nghiệp kinh
doanh gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ công nghệ


thấp và có thể làm cho doanh nghiệp phá sản khi doanh nghiệp gặp những rủi ro
khách quan mang lại như thiên tai, hỏa hoạn… hoặc bị rơi vào những hoàn cảnh,
điều kiện không thuận lợi.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất đó
là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với nhau,
kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay thế lẫn
nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận. Các doanh nghiệp
thương mại cần nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để một mặt chấp nhận cạnh
tranh theo khía cạnh tích cực để từ đó phát huy yếu tố nội lực nâng cao chất lượng
phục vụ khách hàng, mặt khác tránh tình trạng cạnh tranh bất hợp lý dẫn đến làm

tổn hại đến lợi ích cộng đồng cũng như làm suy yếu chính mình.
b. Các loại hình cạnh tranh
* Căn cứ vào đối tượng cạnh tranh: người ta chia làm 2 loại
+ Cạnh tranh giữa những người bán với nhau:
Là cuộc cạnh tranh chính và khốc liệt nhất trong nền kinh tế thị trường. Nó
có ý nghĩa sống còn đối với các chủ doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa những người
bán điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường. Khi cung một hàng hóa nào đó
lớn hơn cầu thì cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả hàng hóa đó giảm
xuống, chỉ những doanh nghiệp nào đủ khả năng cải tiến công nghệ, trang bị kỹ
thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán sản phẩm mới có thể tồn tại. Kết
quả để đánh giá doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này là tăng
lợi nhuận, tăng doanh số và thị phần. Trong nền kinh tế thị trường, việc cạnh tranh
là hiện tượng tất yếu không thể tránh khỏi đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Thực tế cho thấy cạnh tranh giữa những người bán với nhau sẽ đem lại lợi ích cho
người mua và trong quá trình ấy những doanh nghiệp nào không có chiến lược
cạnh tranh thích hợp thì sẽ bị gạt ra khỏi thị trường và đi đến phá sản. Nhưng mặt
khác sẽ có những doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ nắm chắc “Vũ khí” cạnh
tranh thị trường và dám chấp nhận “luật chơi” phát triển.
+ Cạnh tranh giữa những người mua:


Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu, khi một loại hàng hóa,
dịch vụ nào đó mà mức cung nhỏ hơn mức cầu thì cuộc cạnh tranh càng trở nên
quyết liệt và giá hàng hóa, dịch vụ đó sẽ càng tăng. Kết quả cuối cùng là người
bán thu được lợi nhuận cao, còn người mua phải mất thêm một số tiền. Khi đó
người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao
năng lực sản xuất của những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất
làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản
xuất trong toàn xã hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàn toàn tự nhiên, không
theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của các cơ quan quản lý

Nhà nước.
* Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường: 3 loại
+ Cạnh tranh hoàn hảo:
Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán, họ đều
quá nhỏ lẻ nên không ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Điều đó có nghĩa là không
cần biết sản xuất được bao nhiêu, họ đều có thể bán tất cả sản phẩm của mình tại
mức giá thị trường hiện hành. Vì vậy mặt hàng trong thị trường cạnh tranh hoàn
hảo không có lý do gì để bán rẻ hơn mức giá thị trường. Đồng thời hàng năm cũng
không tăng giá của mình lên cao hơn giá thị trường vì nếu hàng tăng giá thì hãng
sẽ không bán được hàng, do người tiêu dùng sẽ đi mua hàng với mức giá hợp lý từ
các đối thủ cạnh tranh của hãng. Do đó các hãng sản xuất sẽ luôn tìm các biện
pháp để giảm chi phí sản xuất đến mức tối đa, nhờ đó để có thể tăng lợi nhuận.
Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ không có những hiện tượng cung
cầu giả tạo, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính Nhà nước, vì vậy trong
thị trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả thị trường sẽ dẫn tới chi phí sản xuất.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo:
Nếu một hàng có thể tác động đáng kể đến giá cả thị trường đối với đầu ra
của hãng ấy thì hãng ấy được liệt vào “hàng cạnh tranh không hoàn hảo”. Như
vậy, cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường không đồng nhất với
nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau mặc dù sự khác biệt


giữa các sản phẩm là không đáng kể. Mỗi loại sản phẩm lại có uy tín, hình ảnh
khác nhau, các điều kiện mua bán hàng cũng rất khác nhau. Người bán có thể có
uy tín độc đáo khác nhau đối với người mua do nhiều lý do khác nhau như: khách
hàng quen, gây được lòng tin từ trước… Người bán là kéo khách về phía mình
bằng nhiều cách: quảng cáo, khuyến mại, phương thức bán hàng và cung cấp dịch
vụ, tín dụng, chiết khấu giá… Loại hình cạnh tranh không hoàn hảo hiện nay rất
phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
+ Cạnh tranh độc quyền:

Là cạnh tranh trên thị truờng mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm
thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không đồng nhất. Họ có thể
kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hóa bán ra trên thị trường.
Thị trường này có pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh, được gọi là thị trường
cạnh tranh độc quyền, ở đây xảy ra cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện
gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có rất nhiều trở ngại do
vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường này không có
cạnh tranh về giá cả, mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả.
Họ có thể định giá cao hơn, điều này tùy thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của
từng sản phẩm, mục đích cuối cùng là họ thu được lợi nhuận tối đa. Những doanh
nghiệp nhỏ tham gia thị trường này thường phải chấp nhận bán hàng theo giá cả
của Nhà độc quyền.
Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm
nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc khi các nhà độc quyền liên kết với nhau.
Độc quyền gây trở ngại cho sự phát triển và làm thiệt hại đến người tiêu dùng. Vì
vậy, hiện nay ở một số nước đã có luật chống độc quyền nhằm chống lại sự liên
minh độc quyền giữa các nhà kinh doanh.
* Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế: 2 loại
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành:
Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại
hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này các chủ doanh nghiệp


thôn tính nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động
của mình trên thị trường. Nhưng doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh
doanh, thậm chí bị phá sản.
+ Cạnh tranh giữa các ngành:
Là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác
nhau nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các chủ
doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có lợi nhuận nên đã chuyển

vốn kinh doanh từ những ngành ít thu được lợi nhuận sang những ngành có lợi
nhuận cao hơn. Sự điều chỉnh này sau một thời gian nhất định sẽ hình thành nên
sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất. Kết quả cuối cùng là các chủ
doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau và chỉ thu được
lợi nhuận như nhau. Tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân cho tất cả các
ngành.
c. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây phạm trù cạnh tranh hầu
như không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh nghiệp hầu
như đã được Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả
khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về Nhà nước. Vì
vậy, vô hình chung Nhà nước đã tạo ra một lối mòn trong kinh doanh, một thói
quen trì trệ và ỉ lại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ có
khách hàng tự tìm đến doanh nghiệp. Chính điều đó đã không tạo được động lực
cho doanh nghiệp phát triển. Sau khi kết thúc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt lớn, nền kinh tế
thị trường được hình thành thì vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có vai trò đặc biệt
quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng cũng
như nền kinh tế quốc dân nói chung.
* Đối với nền kinh tế quốc dân:
Đối với nền kinh tế cạnh tranh không chỉ là môi trường và động lực của sự
phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng suất lao


động mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội, cạnh tranh
còn là điều kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cạnh
tranh góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của
những sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người ngày càng được
nâng cao về chính trị, về kinh tế và văn hóa. Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát
triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển sâu

và rộng. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì nó vẫn
còn mang lại những mặt hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh tạo sự phân hóa
giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến có những manh mối làm ăn vi
phạm pháp luật như trốn thuế, lậu thuế, lậu hàng giả, buôn bán trái phép những
mặt hàng mà Nhà nước và pháp luật nghiêm cấm.
* Đối với doanh nghiệp:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt động
kinh doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng vững.
Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến lược cạnh tranh cụ
thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cà tầm vi mô và vĩ mô. Họ cạnh tranh để
giành những lợi thế về phía mình, cạnh tranh để giành giật khách hàng, làm cho
khách hàng tự tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với
thị hiếu, nhu cấu người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của
khách hàng, kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm
theo với mức giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát
triển. Do vậy cạnh tranh là rất quan trọng và cần thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt đầu
từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?
và sản xuất cho ai?. Nghiên cứu thị trường để doanh nghiệp xác định được nhu cầu
thị trường và chỉ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ không sản xuất ra
những gì mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các
sản phẩm có chất lượng cao hơn, tiện dụng với người tiêu dùng hơn. Muốn vậy
các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình


sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho
công nhân, cử các cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh
thắng lợi sẽ tạo cho doanh nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường, tăng thêm
uy tín cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh
doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà phát triển mạnh cho nền kinh tế.

* Đối với ngành:
Hiện nay đối với nền kinh tế nói chung, cạnh tranh đóng một vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm. Cạnh tranh bình
đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà vững chắc cho mọi ngành nghề phát triển. Nhất
là đối với ngành xây dựng là một ngành có vai trò chủ lực trong sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành phát triển
trên cơ sở khai thác lợi thế và điểm mạnh của ngành đó là thu hút được một nguồn
lao động dồi dào và có thể khai thác tối đa nguồn lực đó.
Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô hoạt
động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đáp ứng ở tầm vĩ mô hay
vi mô thì không thể thiếu sự có mặt và vai trò của yếu tố cạnh tranh.
* Đối với sản phẩm:
Nhờ có cạnh tranh mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao về
chất lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho lợi ích của
người tiêu dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn. Ngày nay các
sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn cung
cấp và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua nhưnữg ý nghĩa trên, ta thấy rằng cạnh tranh
không thể thiếu sót ở bất cứ một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành
mạnh sẽ thực sự tạo ra những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động lực thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội.
Bởi vậy cạnh tranh là một yếu tố rất cần có sự hỗ trợ và quản lỹ của Nhà
nước để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh
tranh không lành mạnh dẫn đến độc quyền và gây lũng đoạn, xáo trộn thị trường.


2.1.1.2. Nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp
a. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là gì?
Cạnh tranh không phải là sự hủy diệt mà là sự thay đổi, thay thế những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực của xã hội bằng các

doanh nghiệp hoạt động có hiẹu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội,
thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Tuy nhiên để cạnh tranh được và cạnh
tranh một cách lành mạnh không phải là dễ bởi nó phụ thuộc vào tiềm năng, lợi
thế và nhiều yếu tố khác của doanh nghiệp hay một quốc gia, đó chính là khả năng
cạnh tranh của một quốc qua, hay một ngành, một công ty xí nghiệp.
Phải nói rằng thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, trong giao tiếp hàng ngày của
các chuyên gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh. Nhưng cho đến
nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khả năng
cạnh tranh của công ty.
a.1) Theo cách tiếp cận khả năng cạnh tranh ở tầm quốc gia
Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới (gọi tắt là
WEF). Theo định nghĩa của WEF thì khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả
năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế
vững vàng tương đối và các đặc trưng kinh tế khác(WEF – 1997).
Như vậy khả năng cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết
bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân và sự có mặt (hay thiếu vắng)
các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách
kinh tế đã được thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật Bản, sau chiến tranh thế giới
thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh mất
mùa, thiếu thốn. Vậy mà đến năm 1968 Nhật Bản đã trở thành một nước có nền
kinh tế đứng thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ) và được xếp hàng các cường quốc kinh
tế lớn nhất, kỷ lục về sự tăng trưởng kinh tế này là một trong những đỉnh cao để
xác định năng lực cạnh tranh lớn của nền kinh tế Nhật Bản. Cũng theo WEF thì


các yếu tố xác định khả năng cạnh tranh được chia làm 8 nhóm chính bao gồm 200
chỉ số khác nhau.
a.2) Tiếp cận khả năng cạnh tranh ở cấp ngành, cấp công ty.
+ Quan điểm của M.Poter : Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được

phản ánh trong các cuốn sách của M.Poter, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
có thể hiểu là khả năng chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại
( hay sản phẩm thay thế) của công ty đó. Với cách tiếp cận này mỗi ngành dù là
trong hay ngoài nước năng lực cạnh tranh được quy định bởi các yếu tố sau:
1

Số lượng các doanh nghiệp mới tham gia.

2

Sự có mặt của các sản phẩm thay thế.

3

Vị thế của khách hàng.

4

Uy tín của nhà cung ứng.

5

Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh.

Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp xây
dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh cạnh tranh phù hợp với giai đoạn, thời kỳ
phát triển của nền kinh tế.
+ Quan điểm tân cổ điển về khả năng cạnh tranh của một sản phẩm.
Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, đã xem xét khả
năng cạnh tranh của một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và

năng suất. Như vậy khả năng cạnh tranh của một ngành, công ty được đánh giá
cao hay thấp tùy thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không vì chi phí các
yếu tố sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh.
+ Quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Westgren:
VarDwer, E.Martin và R.Westgren là những đồng tác giả của cuốn “Assessing
the competiviveness of Canada’s agrifood Industry”-1991. Theo các tác giả này thì
khả năng cạnh tranh của một ngành, của công ty được thể hiện ở việc tạo ra và duy
trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong nước và nước ngoài. Như vậy, lợi
nhuận và thị phần là hai chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty. Chúng
có mối quan hệ tỷ lệ thuận, lợi nhuận và thị phần càng lớn thể hiện khả năng cạnh


tranh của doanh nghiệp càng cao. Ngược lại, lợi nhuận và thị phần giảm hoặc nhỏ
phản ánh năng lực cạnh tranh của công ty bị hạn chế hoặc chưa cao. Tuy nhiên
chúng chỉ là những chỉ số tổng hợp bao gồm chỉ số thành phần khác nhau như:
1 Chỉ số về năng suất bao gồm năng suất lao động và tổng năng suất các
yếu tố sản xuất.
2 Chỉ số về công nghệ bao gồm các chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và
triển khai.
3 Sản phẩm bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt.
4 Đầu vào và các chi phí khác: giá cả đầu vào và hệ số chi phí các nguồn lực.
b. Các yếu tố quyết định tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
* Yếu tố giá cả:
Giá của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ
cung cầu. Người bán và người mua thỏa thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá
cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết
định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, có sự
cạnh tranh của các doanh nghiệp, “khách hàng là thượng đế” họ có quyền lựa chọn
những gì mà họ cho là tốt nhất, và cùng một loại sản phẩm với chất lượng tương
đương nhau, chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu

thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự
lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn hay
tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
* Chất lượng dịch vụ:
Nếu như trước kia, giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh
tranh thì ngày nay nó đã phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng dịch vụ và sản
phẩm nhất là khi đời sống ngày càng được nâng cao. Trên thực tế, cạnh tranh bằng
giá là “biện pháp nghèo nàn” nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu được, mà ngược
lại, cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm và dịch vụ nào tốt, đáp ứng
được yêu cầu thì người tiêu dùng cũng sẵn sàng mua với một mức giá có cao hơn


một chút cũng không sao, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật
đang trong giai đoạn phát triển mạnh, vì thế đời sống của nhân dân được nâng cao
rất nhiều so với trước thì chất lượng sản phẩm và dịch vụ phải đưa lên hàng đầu.
Chất lượng sản phẩm dịch vụ là một vấn đề sống còn đối với một doanh
nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân khi mà họ đang phải đương
đầu với các đối thủ cạnh tranh khác. Một khi chất lượng sản phẩm và dịch vụ
không được đảm bảo thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng, mất
thị trường, nhanh chóng tới chỗ suy yếu và phá sản.
* Tổ chức dịch vụ tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình nhập và xuất hàng, đây
cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận.
Việc đầu tiên của quá trình tổ chức tiêu thụ sản phẩm là phải lựa chọn các
kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm sản
phẩm, với các mục tiêu của doanh nghiệp. Lựa chọn các kênh phân phối nhằm
mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải
phóng nguồn hàng để bù đắp chi phí sản xuất dịch vụ, thu hồi vốn. Xây dựng một
hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây dựng một nền móng

vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ thị phần của doanh nghiệp có được.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt sẽ làm tăng sản lượng bán
hàng từ đó sẽ tăng doanh thu, tăng lợi nhuận dẫn tới tốc độ thu hồi vốn nhanh,
kích thích sản xuất phát triển. Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong
những yếu tố làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, giúp cho doanh
nghiệp tìm ra được nhiều bạn hàng mới, mở rộng thị trường nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Các hoạt động chiêu thị:
Ngày nay các hoạt động chiêu thị rất được chú ý trong cá doanh nghiệp.
Hoạt động chiêu thị là tổng hợp các chương trình quảng cáo, khuyến mãi... xác
định cả về chi phí, cách thức thực hiện, phương tiện thực hiện, nhân sự, thời gian,
đối tượng doanh nghiệp hướng tới… Hoạt động chiêu thị nhằm kích thích người


tiêu dùng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, góp phần giúp doanh nghiệp mở
rộng thị trường, làm cho người tiêu dùng hiểu rõ hơn về sản phẩm.
* Phương thức thanh toán:
Là một yếu tố được sử dụng khá phổ biến hiện nay để tạo ra khả năng cạnh
tranh cho doanh nghiệp. Có nhiều phương thức thanh toán khác nhau được áp
dụng hiện nay như thanh toán chậm, trả góp, mở L/C… Phương thức thanh toán
hợp lý giúp cho hoạt động mua bán diễn ra thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn, có lợi
cho cả người bán và người mua.
c. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Các nhân tố chủ quan:
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc yếu tố bên trong doanh
nghiệp. Các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh và
khả năng cạnh tranh của công ty. Bởi vậy mà nó được coi là các yếu tố cấu thành
khả năng cạnh tranh của công ty.
+ Khả năng về tài chính:
Vốn là tiền đề cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Bất cứ hoạt

động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét tính toán đến
tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực lớn về tài
chính sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư, trong mua sắm đổi mới công
nghệ và máy móc cũng như có điều kiện để đào tạo và đãi ngộ nhân sự. Những
thuận lợi đó sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được trình độ chuyên môn, tay nghề
cho cán bộ, nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí để nâng cao
sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào yếu kém về tài chính sẽ
không có điều kiện để mua sắm, trang trải nợ và như vậy sẽ không tạo được uy tín
về khả năng thanh toán và khả năng đáp ứng những sản phẩm có chất lượng cao
đối với khách hàng. Từ đó làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không
tiến triển được và có nguy cơ bị thụt lùi hoặc phá sản. Như vậy khả năng tài chính
là yếu tố quan trọng đầu tiên để doanh nghiệp hình thành và phát triển.
+ Nguồn lực về vật chất kỹ thuật:


Nguồn lực vật chất kỹ thuật sẽ phản ánh thực lực của doanh nghiệp đối với
đối thủ cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai thác trong quá
trình hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bởi lẽ trình độ máy móc và
công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại thì các sản
phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ được bảo toàn về chất lượng khi đến tay
người tiêu dùng. Có hệ thống máy móc hiện đại sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tiêu
thụ hàng hóa, tăng nhanh vòng quay về vốn, giảm bớt được khâu kiểm tra về chất
lượng hàng hóa. Nếu xét về công nghệ máy móc có ảnh hưởng đến giá thành của
sản phẩm thì cũng sẽ ảnh hưởng đến giá bán của doanh nghiệp thương mại. Ngày
nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cuộc chiến giữa các
doanh nghiệp đang trở thành cuộc cạnh tranh về trí tuệ, về trình độ công nghệ.
Công nghệ tiên tiến không những đảm bảo năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm cao, giá thành hạ mà còn có thể xác lập tiêu chuẩn mới cho từng ngành sản
xuất kỹ thuật. Mặt khác khi mà việc bảo vệ môi trường như hiện nay đang trở

thành một vấn đề của toàn cầu thì doanh nghiệp nào có trình độ công nghệ cao,
thiết bị máy móc hiện đại nhất định sẽ dành được ưu thế trong cạnh tranh.
+ Nguồn nhân lực:
Con người là yếu tố quyết định mọi thành bại của hoạt động kinh doanh.
Bởi vậy doanh nghiệp phải chú ý việc sử dụng con người, xây dựng môi trường
văn hóa và có nề nếp, tổ chức. Đồng thời doanh nghiệp phải quan tâm đến các chỉ
tiêu rất cơ bản như số lượng lao động, trình độ nghiệp vụ, năng suất lao động, thu
nhập bình quân, năng lực của cán bộ quản lý.
Con người là yếu tố chủ chốt, là tài sản quan trọng và có giá trị cao nhất
của doanh nghiệp. Chỉ có con người mới có đầu óc và sáng kiến để sáng tạo ra sản
phẩm. Chỉ có con người mới biết và khơi dậy được nhu cầu của con người, chỉ có
con người mới tạo được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp và tất cả những yếu
tố này đã hình thành nên khả năng cạnh tranh. Vậy muốn nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình, doanh nghiệp phải chú ý quan tâm đến tất cả mọi người trong


doanh nghiệp, từ những người lao động bậc thấp đến các nhà quản trị cấp cao. Bởi
mỗi người đều có một vị trí một chức năng quan trọng trong các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Những người lãnh đạo chính là những người cầm lái con
tàu doanh nghiệp, họ là những người đứng mũi chịu sào trong mỗi bước đi, là
những người có quyền lực cao nhất và trách nhiệm nặng nề nhất. Họ chính là
những người xác định hướng đi và mục tiêu cho doanh nghiệp, còn thực hiện
quyết định của họ là những nhân viên dưới quyền.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào chỉ có lãnh đạo giỏi vẫn chưa đủ, vẫn
chỉ có người ra quyết định mà chưa có người thực hiện thì công việc không thể
hoàn thành. Phải có một đội ngũ nhân viên giỏi cả về trình độ tay nghề, có óc sáng
tạo, có trách nhiệm và ý thức trong công việc thì mới có thể đưa ra những sản
phẩm dịch vụ tốt nhất, mang tính cạnh tranh cao nhất. Trong nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung trước kia ban lãnh đạo có thể không có trình độ chuyên môn cao, họ
chỉ cần có thâm niên công tác lâu năm trong nghề là yên trí đứng ở vị trí lãnh đạo,

và đội ngũ nhân viên không cần giỏi về chuyên môn vẫn có thể tồn tại lâu dài
trong doanh nghiệp. Ngày nay với quy luật đào thải của nền kinh tế thị trường thì
không bao giờ tồn tại hiện tượng đó nữa.
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp nào có đội ngũ lãnh đạo giỏi, tài
tình và sáng suốt thì ở đó công nhân viên rất yên tâm để cống hiến hết mình, họ
luôn có cảm giác là doanh nghiệp mình sẽ luôn đứng vững và phát triển. Trách
nhiệm và quyền lợi của họ được đảm bảo và phát huy. Ở đâu có nhân viên nhiệt
tình có trách nhiệm thì ở đó có sự phát triển vững chắc, bởi những quyết định mà
ban lãnh đạo đưa ra đã có người thực hiện. Như vậy để có năng lực cạnh tranh thì
những người trong doanh nghiệp đó phải có ý thức và trách nhiệm về nghĩa vụ của
mình. Muốn vậy khâu tuyển dụng đào tạo và đãi ngộ nhân sự phải được quan tâm
hàng đầu, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
* Các nhân tố khách quan:
Là hệ thống toàn bộ các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, có liên quan và
ảnh hưởng đến quá trình tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp. Các


nhân tố khách quan bao gồm:
+ Nhà cung cấp:
Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành ổn định theo kế hoạch
đã định trước. Trên thực tế nhà cung cấp thường được phân thành ba loại chủ yếu:
loại cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu, loại cung cấp nhân công, loại cung cấp tiền
và các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm. Như vậy mỗi doanh nghiệp cùng một lúc có
quan hệ với nhiều nguồn cung cấp thuộc cả ba loại trên. Vấn đề đặt ra là yêu cầu
của việc cung cấp phải đầy đủ về số lượng, kịp thời về thời gian, đảm bảo về chất
lượng và ổn định về giá cả. Mỗi sự sai lệch trong quan hệ với nhà cung cấp đều
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, điều đó sẽ làm giảm sức
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm tính độc quyền và sức ép từ phía các nhà cung cấp, các doanh

nghiệp phải biết tìm đến các nguồn lực tin cậy, ổn định và giá cả hợp lí với
phương châm là đa dạng hóa các nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc “không bỏ
tiền vào một ống”. Mặt khác trong quan hệ này doanh nghiệp nên tìm cho mình
một nhà cung cấp chính có đầy đủ sự tin cậy nhưng phải luôn tránh sự lệ thuộc,
cần phải xây dựng kế hoạch cung ứng cho mình. Như vậy doanh nghiệp cần phải
thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp để họ cung cấp đầy đủ về số lượng.
+ Khách hàng:
Khách hàng là những người đang mua và sẽ mua hàng của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp khách hàng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất đối
với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tính chất quyết định của khách hàng
thể hiện ở các mặt sau:
Khách hàng quyết định hàng hóa của doanh nghiệp được bán theo giá nào?
Trên thực tế doanh nghiệp chỉ có thể bán với giá mà người tiêu dùng chấp nhận.
Khách hàng quyết định doanh nghiệp bán sản phẩm như thế nào? Phương thức bán
hàng và phương thức phục vụ khách hàng do khách hàng lựa chọn, vì trong nền
kinh tế thị trường người mua có quyền lựa chọn theo ý thích của mình và đồng


quyết định phương thức phục vụ của người bán. Điều này cho thấy tính chất quyết
định của khách hàng làm cho thị trường chuyển từ thị trường người bán sang thị
trường người mua, khách hàng trở thành thượng đế. Do vậy doanh nghiệp chịu
ảnh hưởng rất nhiều bới yếu tố khách hàng, khách hàng có thể ganh đua với doanh
nghiệp bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm cao hơn, hoặc ép giảm giá xuống,
mặt khác khách hàng còn làm cho các đối thủ cạnh tranh chống chọi lại nhau và
dẫn đến làm tổn hao đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhóm khách hàng thường
gây áp lực với doanh nghiệp là những nhóm khách hàng tập trung và mua với khối
lượng lớn. Nhóm khách hàng mua đúng tiêu chuẩn phổ biến và không có gì khác
biệt vì họ có thể tìm được nhà cung cấp khác một cách dễ dàng hoặc nhóm khách
hàng có đầy đủ thông tin về sản phẩm, giá cả thị trường, giá thành của nhà cung
cấp. Điều này đem lại cho khách một lợi thế mạnh hơn trong cuộc mặc cả so với

trường hợp họ chỉ có ít thông tin.
Bên cạnh đó sự yêu cầu của khách hàng cũng sẽ gây áp lực làm tụt giảm
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở chỗ nếu doanh nghiệp
không theo đuổi kịp những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng thì họ sẽ có xu
hướng chuyển dịch sang những doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó có thể đáp
ứng đầy đủ nhu cầu của họ. Và như vậy sức cạnh tranh sẽ giảm sút. Điều đó chứng
tỏ yếu tố khách hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại, vận hành và phát triển
của doanh nghiệp.
+ Các đối thủ cành tranh hiện tại và tiềm ẩn:
Doanh nghiệp luôn phải đối phó với hàng loạt đối thủ cạnh tranh. Vấn đề
quan trọng ở đây là không được coi thường bất kì đối thủ nào, nhưng cũng không
nên coi đối thủ là kẻ địch. Cách xử lí khôn ngoan nhất không phải là hướng mũi
nhọn vào đối thủ của mình mà ngược lại phải xác định, điều khiển và hòa giải, lại
vừa phải hướng suy nghĩ và sự quan tâm của mình vào khách hàng là có nghĩa
mình đã thành công một phần trong cạnh tranh. Mặt khác cũng nên quan tâm tới
việc dự đoán trong tương lai và định hướng tới khách hàng. Vì thế, trong cạnh
tranh người được lợi nhất là khách hàng, nhờ có cạnh tranh mà khách hàng được


tôn vinh là thượng đế. Để có và giữ được khách hàng, doanh nghiệp cần phải tìm
cách sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn, đẹp hơn và rẻ hơn, không
những thể còn phải chiều lòng khách hàng, lôi kéo khách hàng bằng cách hoạt
động quảng cáo khuyến mãi và tiếp thị.
Có thể nói rằng khi doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác mới bắt
đầu bước chân vào thị trường thì họ là những đồng nghiệp, những đối tác để gây
dựng thị trường, để hình thành nên một khu vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho
khách hàng. Nhưng khi có người khách hàng đầu tiên bước vào khu vực thị trường
này, thì họ sẽ trở thành đối thủ của nhau, họ tìm mọi cách để lôi kéo khách hàng
về phía mình.
Trong những thời điểm và giai đoạn khác nhau thường có những đối thủ

cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị
trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực
hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ
sung những đặc điểm mới của thì trường, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản
phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt nổi trội hơn trên thị trường, doanh
nghiệp nên đề phòng và lường trước các đối tác làm ăn, các bạn hàng, bởi vì họ có
thể trở thành những đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Nếu ở trong một thị trương kinh doanh nhất định, doanh nghiệp vượt trội
lên các đổi thủ về chất lượng sản phẩm, về giá cả và chất lượng phục vụ thì doanh
nghiệp đó có khả năng cạnh tranh và sẽ có điều kiện tiến xa hơn so với các đối thủ.
+ Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế:
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong các lực lượng tạo nên sức ép
cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp cùng ngành. Sự ra đời của sản phẩm mới
là một tất yếu nhắm đáp ứng biến động của nhu cẩu của thị trường theo hướng
ngày càng đa dạng, phong phú. Chính nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các
sản phẩm bị thay thế. Các sản phẩm thay thế sẽ có ưu thế hơn và sẽ dần thu hẹp thị
trường của sản phẩm thay thế. Để khắc phục tình trạng thị trường bị thu hẹp các
doanh nghiệp phải luôn hướng tới những sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản


phẩm, cải tiến mẫu mã, hay nói cách khác doanh nghiệp phải luôn hướng tới
khách hàng để tìm độ thỏa dụng mới.
d. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh:
d.1) Các chỉ tiêu chung:
- Hệ số vay nợ:
Hệ số vay nợ

Tài sản nợ

Tổng tài sản

Hệ số này càng cao, khả năng tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp
càng giảm.
- Hệ số thanh toán lãi vay:
Hệ số thanh toán lãi vay

LN trước thuế + Lãi tiền vay

Lãi tiền vay
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp. Nếu tỷ
lệ này quá thấp sẽ làm giảm khả năng trả lãi, đồng thời lợi nhuận của doanh
nghiệp cũng không thể cao. Đây là một trong các căn cứ để Ngân hàng quyết định
có cung cấp các khoản vay tiếp theo hay không.
- Hệ số thanh toán hiện hành:
Hệ số thanh toán hiện hành

Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn

- Hệ số thanh toán nhanh:
Hệ số thanh toán nhanh

Tài sản lưu động - hàng tồn

=

kho
Nợ ngắn hạn

- Hệ số thanh toán tức thời:
Hệ số thanh toán tức thời


Tiền mặt
Nợ ngắn
hạn

- Hệ số doanh lợi:
Lợi nhuận trước


Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu

thuế
Doanh thu

Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn SXKD

Lợi nhuận trước thuế
Vốn sản xuất kinh

doanh
Hai hệ số trên phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu hệ số này càng cao thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn.
d.2) Những chỉ tiêu riêng đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
* Giá trị trúng thầu và số lượng các công trình thắng thầu:
Chỉ tiêu này cho biết một cách khái quát tình hình kết quả dự thầu của
doanh nghiệp. Qua đó có thể đánh giá được chất lượng, hiệu quả của công tác dự
thầu trong năm và biết quy mô của các công trình mà doanh nghiệp đã trúng thầu.
Từ đó ta thấy được khả năng, tiềm lực của doanh nghiệp.
- Xác suất trúng thầu:
+ Tính theo số hợp đồng:


Trong đó:

K1 = ∑Ltt x 100%
∑Ldt
- K1: xác suất trúng thầu theo số hợp đồng (%)

- ∑Ltt: tổng số lần thắng thầu
- ∑Ldt: tổng số lần tham gia dự thầu
+ Tính theo giá trị hợp đồng:

Trong đó:

K2 = ∑Gtt x 100%
∑Gdt
- K2: xác suất trúng thầu theo giá trị hợp đồng (%)

- ∑Gtt: tổng giá trị hợp đồng thắng thầu
- ∑Gdt: tổng giá trị hợp đồng tham gia dự thầu
* Thị phần và uy tín của doanh nghiệp:
Đây là chỉ tiêu đánh giá một cách khái quát khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Trong đó thị phần biểu hiện thành hai mặt: thị phần tuyệt đối và thị phần


tương đối.
∑ giá trị xây lắp của doanh
Thị phần tổng quát =

nghiệp
∑ giá trị xây lắp toàn ngành


Hoặc:

∑ giá trị xây lắp của doanh nghiệp
∑ doanh thu xây lắp toàn ngành
Thị phần tương đối: được xác định trên cơ sở tự so sánh phần thị trường
tuyệt đối của doanh nghiệp với phần thị trường tuyệt đối của một số đối thủ cạnh
tranh nhất.
Uy tín của doanh nghiệp: chỉ tiêu này liên quan đến tất cả các chỉ tiêu trên
và các yếu tố khác như: chất lượng công trình, tổ chức doanh nghiệp, tổ chức các
dự án thi công, marketting...
2.1.1.3. Sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
a. Thực chất khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp đều tìm mọi cách để
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Các biện pháp dịch vụ mà doanh nghiệp tiến hành để nâng cao khả năng
cạnh tranh như cải tiến dịch vụ giúp tiết kiệm chi phí. Một dịch vụ hoàn hảo sẽ
giúp cho doanh nghiệp có được các sản phẩm dịch vụ mang tính cạnh tranh cao
hơn nhờ chất lượng dịch vụ được đảm bảo uy tín.
Vậy nâng cao khả năng cạnh tranh là việc tăng cường các hoạt động từ dịch
vụ, kinh tế khả năng ra quyết định nhằm giúp cho doanh nghiệp đứng vững và
phát triển.
b. Sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội
nhưng cũng làm tăng thêm nhiều đối thủ cạnh tranh. Trước những cơ hội và thách
thức như vậy mỗi doanh nghiệp phải tìm cách vượt qua nếu không nhuy cơ phá


sản là rất lớn. trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách

quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh
tranh, chấp nhận cạnh tranh và cạnh tranh bằng tất cả khả năng của mình mới có
thể giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, tăng khả năng cạnh
tranh là một điều tất yếu của mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị
trường.
c. Sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của Công ty Thịnh
Hưng (TNHH).
Công ty Thịnh Hưng (TNHH) là một doanh nghiệp trẻ hoạt động trong lĩnh
vực xây dựng với ngành nghề chính là chuyên nhận thầu và xây lắp công trình.
Khi mới thành lập công ty Thịnh Hưng gặp không ít khó khăn. Thị phần của công
ty không đáng kể, công ty phải chịu một sự cạnh tranh rất gay gắt. Trước tình hình
đó, để tồn tại và phát triển công ty cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển.
2.1.2. Tổng hợp và đánh giá các nghiên cứu có liên quan trước đây
Năm 1985, cuốn sách “ Lợi thế cạnh tranh” được xuất bản lần đầu. Cuốn
sách là sự bổ sung chính yếu cho tác phẩm “ Chiến lược cạnh tranh”. Nếu “ Chiến
lược cạnh tranh” tập trung vào các ngành kinh doanh thì “ Lợi thế cạnh tranh” lại
chủ yếu nói về các công ty và doanh nghiệp. Mục tiêu là khái niệm hoá một công
ty với những nguồn gốc cơ bản của lợi thế cạnh tranh và tính bền vững của lợi thế
đó. Trọng tâm của tác phẩm này là một lý thuyết dựa trên hoạt động ( activitybased theory) của công ty. Để cạnh tranh trong bất kỳ ngành nào, các công ty phải
thực hiện một loạt những hoạt động riêng rẽ như thực hiện đơn đặt hàng, tiếp xúc
khách hàng, lắp rắp sản phẩm, đào tạo nhân viên… Chính các hoạt động này, vốn
ở tầm nhỏ hẹp hơn các chức năng như Marketing hay R&D, mới là nơi phát sinh
chi phí và tạo ra giá trị cho người mua. Chính chúng mới là các đơn vị cơ bản
( basic units) của lợi thế cạnh tranh. Đa số các công trình nghiên cứu trước đây
gắn lợi thế cạnh tranh với quy mô và thị phần, và điều này thực ra đã quá đơn giản


×