Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

90 phân tích các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.6 KB, 4 trang )

BỘ TƯ PHÁP
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----- *** -----

BÀI TẬP CÁ NHÂN 2
Môn:
LUẬT HÀNH CHÍNH

Đề bài số 8 :
Phân tích các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của vi phạm
hành chính.

Họ và tên: Nguyễn Thị Ánh Ngân
MSV

: DS33D032

Lớp

: DS33D


Hà Nội - 04/2010
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi
cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của
pháp luật. Để xác định một hành vi có phải là vi phạm hành chính hay không
cần phải căn cứ vào bốn dấu hiệu pháp lý của vi phạm hành chính. Đó là dấu
hiệu trong mặt khách quan; dấu hiệu trong mặt chủ quan; dấu hiệu về chủ
thể; dấu hiệu về khách thể.
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những yếu tố bên trong của


chủ thể vi phạm. Chúng có mối quan hệ hữu cơ với hành vi và các dấu hiệu
khác trong mặt khách quan. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật bao gồm:
lỗi, động cơ, mục đích.
Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi vi phạm của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong mặt
chủ quan và bắt buộc phải có trong vi phạm pháp luật hành chính. Dấu hiệu
lỗi trong vi phạm hành chính có thể là lỗi cố ý và lỗi vô ý.
- Lỗi cố ý là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi vi phạm
hành chính tuy đã nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm với các quy
định của pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, có thể lựa chọn không thực
hiện hành vi ấy nhưng vẫn quyết định thực hiện. Ví dụ: A đủ 18 tuổi có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, điều khiển xe máy vượt đèn đỏ. Hành vi trên của
A được xác định là có lỗi cố ý bởi vì A đã ý thức được rằng hành vi vượt
đèn đỏ của mình bị Luật giao thông đường bộ ngăn cấm và xâm phạm vào
trật tự quản lí hành chính nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ, A
hoàn toàn có khả năng thực hiện hành vi đúng nhưng vẫn quyết định vi
phạm.

2


- Lỗi vô ý là lỗi của một chủ thể thực hiện hành vi vi phạm khi đang
trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được điều đó
Việc xác định vi phạm hành chính được thực hiện với lỗi cố ý hay lỗi
vô ý của chủ thể có ý nghĩa lớn trong việc quyết định mức xử phạt vi phạm
hành chính đặc biệt là trong trường hợp xử lý vi phạm đối với người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khoản a, Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính
về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành

chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.” Như vậy, việc xác định
lỗi cố ý hay vô ý sẽ có ảnh hưởng quyết định tới việc có xử phạt hành vi vi
phạm hành chính của đối tượng này hay không. Bên cạnh đó, việc xác định
lỗi cố ý hay vô ý còn có ảnh hưởng tới việc người vi phạm có được giảm nhẹ
mức bồi thường thiệt hại không trong một số trường hợp. Ví dụ Thông tư số
101/2006/TT-BTC hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính và bồi thường
thiệt hại trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí quy định:
“Người gây thiệt hại là cá nhân được giảm trách nhiệm bồi thường
khi có đủ hai điều kiện sau đây:
- Do vô ý mà gây ra thiệt hại.
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu
dài của người gây thiệt hại.”
Bên cạnh dấu hiệu lỗi thì còn có dấu hiệu về động cơ và mục đích của
hành vi vi pham. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi trái pháp luật. Mục đích là cái đích đặt ra từ trước mà trong suy nghĩ
chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật mong muốn đạt được. Trong một số
trường hợp, để xác định một hành vi có phải là vi phạm hành chính hay
không cần phải xác định cụ thể được mục đích của người vi phạm bời trong
3


các trường hợp này pháp luật còn xác định dấu hiệu về mục đích là dấu hiệu
bắt buộc. Chính vì thế, khi xử phạt cá nhận, tổ chức về loại vi phạm hành
chính này cần phải xác định rõ ràng hành vi của họ có thỏa mãn đầy đủ dấu
hiệu mục đích hay không, ngoài việc xem xét các dấu hiệu khác.Ví dụ như
hành vi trốn trên các phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh được coi là hành vi
vi phạm qui định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh theo qui định của khoản
3 điều 22 nghị định của chính phủ số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 khi
nhằm mục đích vào Việt Nam hoặc ra nước ngoài, hành vi này sẽ không
được xác định là vi phạm hành chính nếu không nhằm mục đích trên.

Tóm lại, để xác định một hành vi có phải là vi phạm hành chính
không thì việc xác định chính xác các yếu tố trong mặt chủ quan của vi
phạm hành chính là một việc hết sức quan trọng. Không những thế, những
yếu tố này còn có ảnh hường lớn đối với việc đưa ra mức xử lý vi phạm
hành chính. Trong nhiều trường hợp, việc xác định các yếu tố này khá khó
khăn, bởi thế, để đưa ra được những quyết định đúng đắn, các cơ quan chức
năng phải có sự điều tra kĩ lưỡng để tránh tình trạng phạt oan hoặc bỏ qua
người có hành vi vi phạm.

4



×