Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi trồng thuỷ sản trên đất trũng ở xã nga thiện – nga sơn – thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.27 KB, 93 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một đề tài nghiên
cứu nào.
Tôi cam đoan rằng: Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà nội, ngày 26 tháng 05 năm 2010
Người cam đoan
Mai Văn Minh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này tôi đã
nhận được sự quan tâm và giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể. Nhân dịp này
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến:
Tập thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa Kinh tế và Phát triển nông
thôn trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, truyền đạt cho
tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của UBND xã
Nga Thiện và bà con nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn xã, nhất là những hộ
tham gia các mô hình của của xã đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi trong suốt
quá trình thực tập tại địa phương.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất của mình
tới cô giáo ThS. Nguyễn Thị Tuyết Lan đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp của mình.
Và cuối cùng tôi muốn nói lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè luôn là
nguồn động viên to lớn đối với tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá
trình thực tập tốt nghiệp.
Tuy nhiên, do trình độ và thời gian có hạn nên luận văn không thể tránh
khỏi thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô và


bạn bè để luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 05 năm 2010
Sinh viên
Mai Văn Minh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NTTS
KHTSCĐ
GTSX
CPSX
CPTG
CPVC
TNHH

SL
CC
NN
CN
CNH - HĐH
TLBQ
DTBQ
TĐPT
MH
DT
BVTV
IC
VA
GO

SXKD

Nuôi trồng thuỷ sản
Khấu hao tài sản cố định
Giá trị sản xuất
Tổng chi phí sản xuất
Chi phí trung gian
Chi phí vật chất
Thu nhập hỗn hợp
Lao động
Số lượng
Cơ cấu
Nông nghiệp
Công nghiệp
Công nghiệp hoá hiện đại hoá
Trọng lượng bình quân
Diện tích bình quân
Tốc độ phát triển
Mô hình
Diện tích
Bảo vệ thực vật
Chi phí trung gian
Giá trị gia tăng
Giá trị sản xuất
Sản xuất kinh doanh


PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài

Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm nông nghiệp không chỉ nuôi sống con
người mà còn thoả mãn những nhu cầu về sinh hoạt ngày càng tăng của xã
hội. Hiện nay trong tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước
nông nghiệp luôn là lĩnh vực được Đảng và nhà nước quan tâm đầu tư.
Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm hàng
ngày cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp
các mặt hàng có giá trị kinh tế cao cho xuất khẩu. Phát triển thuỷ sản đã trở
thành nhu cầu bức thiết của đất nước nói chung và của địa phương nói riêng,
nhằm tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác, cải thiện cuộc sống và
làm giàu cho nhân dân.
Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hoá hiện nay cơ cấu kinh tế được
chuyển đổi theo hướng kinh tế hàng hoá, gắn thị trường trong nước với thị
trường xuất khẩu. Chuyển dần từ trạng thái nông nghiệp lạc hậu sang nền
kinh tế có tỷ trọng cao, dịch vụ được mở rộng, cơ sở hạ tầng được cải thiện
thúc đẩy sự phát triển của nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến và xây dựng nông thôn mới. Vì vậy trong những năm qua các địa
phương đã chú trọng thâm canh, tăng vụ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
nông nghiệp và có những chính sách khuyến khích thúc đẩy hộ nông dân tận
dụng tối đa tiềm năng đất đai, lao động … để sản xuất tạo ra sự phát triển
vượt bậc cho ngành nông nghiệp. Trong đó phát triển theo các mô hình đang
được chú trọng.
Cho đến nay nghề nuôi trồng thuỷ sản vẫn diễn ra nhanh và phổ biến ở
nhiều địa phương có đất trũng cấy lúa không hiệu quả hay hiệu quả thấp trong
cả nước. Đặc biệt sau khi có chính sách dồn điền đổi thửa và chính sách


chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Nuôi trồng thuỷ sản diễn ra với quy
mô và mức độ thâm canh cao và hiệu quả kinh tế khác nhau ở các mô hình
nuôi trồng thuỷ sản

Nga thiện là một xã đồng chiêm trũng của huyện Nga Sơn. Từ năm
1997 đến nay vùng đất trũng cấy 2 vụ lúa năng xuất thấp và bấp bênh được
chuyển sang xây dựng mô hình nuôi trồng thủy sản như: Chuyên cá, lúa - cá,
lúa- cá- vịt với quy mô mức độ khác nhau trong xã. Bước đầu những hộ mạnh
dạn chuyển dịch cơ cấu từ đất trũng sản xuất 2 vụ lúa với năng suất thấp, bấp
bênh và tận dụng diện tích sông ngoài sang nuôi trồng thuỷ sản cho hiệu quả
kinh tế cao hơn so với sản xuất 2 vụ lúa. Ngoài ra các mô hình đã góp phần
tận dụng và phát huy nguồn lực hạn chế của địa phương như: Đất đai, lao
động, vốn sẵn có tại địa phương vào sản xuất đạt hiệu quả.
Việc đánh giá, so sánh hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi trồng
thuỷ sản trên đất trũng nhằm tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng và các giải pháp
kinh tế, kỹ thuật nâng cao hiệu quả kinh tế, giúp người sản xuất lựa chọn các
mô hình phù hợp cho mình, giúp các cấp lãnh đạo địa phương có cơ sở chỉ
đạo sản xuất đối với vùng ruộng trũng chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản tập
trung là vấn đề hết sức cần thiết của xã. Vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi trồng thuỷ sản trên đất trũng ở xã
Nga Thiện – Nga Sơn – Thanh Hoá”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Xác định, phân tích hiệu quả kinh tế các mô hình nuôi trồng thủy sản
trên đất trũng, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của các mô
hình của xã trong những năm tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Phản ánh những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu về hiệu quả kinh tế.
- Tìm hiểu hiện trạng nuôi trồng thủy sản trên đất trũng của xã Nga Thiện.


- Đánh giá hiệu quả của các mô hình nuôi trồng thuỷ sản trên đất trũng của xã.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả kinh tế của
các mô hình nuôi trồng thuỷ sản trên đất trũng của xã.

1.3 Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi trồng thuỷ sản trên đất trũng.
Chủ thể nghiên cứu của đề tài là các hộ nông dân canh tác trên đất trũng,
trong đó chú trọng các hộ nuôi trồng thuỷ sản ở trong xã.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Phạm vi không gian:
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Nga Thiện - Nga Sơn - Thanh hóa.
1.4.2 Phạm vi thời gian:
+ Đối với số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu trong thời gian từ 2007 – 2009.
+ Đối với số liệu sơ cấp: Thu thập số liệu trong năm 2009.


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Lý luận hiệu quả kinh tế
2.1.1.1 Các quan điểm và bản chất của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế xã hội, nó phản ánh mặt chất
lượng của hoạt động sản xuất kinh tế và đặc trưng của mọi nền sản xuất xã
hội. Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa phần giá trị
thu được của sản phẩm đầu ra với phần giá trị các yếu tố nguồn lực đầu vào.
Mối tương quan đó được xét cả về so sánh tương đối và so sánh tuyệt đối
cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Hiệu quả kinh tế được xem xét dưới nhiều góc độ và quan điểm khác
nhau, hiện nay đang tồn tại hai quan điểm
- Quan điểm kinh tế truyền thống: Quan điểm này cho rằng hiệu quả
kinh tế là phần còn lại của hiệu quả sản xuất kinh doanh sau khi trừ đi chi phí
bỏ ra, được đo bằng các chỉ tiêu lợi nhuận hay chỉ tiêu lãi. Các Nhà kinh tế
cho rằng hiệu quả kinh tế được xem như tỷ lệ giữa kết quả sản xuất thu được
với chi phí bỏ ra, hay là chi phí trên một đơn vị sản phẩm hay giá trị sản

phẩm. Những chỉ tiêu cho biết mức sinh lời của đồng vốn, được tính toán sau
chu kỳ sản xuất hay một quá trình sản xuất. Quan điểm này xác định hiệu quả
sản xuất trong trạng thái tĩnh, sau khi đã đầu tư. Trong khi đó hiệu quả là chỉ
tiêu không chỉ cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư mà còn giúp cho người sản
xuất kinh doanh biết có nên đầu tư và đầu tư đến mức độ nào là có lợi nhất.
Hạn chế trong quan điểm truyền thống là không tính đến yếu tố thời
gian khi xác định thu và chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy việc
tính hiệu quả kinh tế thường chưa đầy đủ và chưa chính xác. Bởi vì các hoạt
động đầu tư và phát triển lại có tác động không đơn thuần về mặt kinh tế mà
còn cả về mặt xã hội và môi trường, có những khoản thu và chi mà ta không


thể lượng hóa được, vì vậy nó không thể hiện được mỗi khi sử dụng cách tính
này.
- Quan điểm của các nhà kinh tế tân cổ điển như Herman Gvander
Tack. Luyn Squre [5] cho rằng hiệu quả kinh tế được xem trong trạng thái
động của mối quan hệ giữa yếu tố đầu vào và đầu ra. Nhân tố thời gian rất
quan trọng trong tính toán hiệu quả kinh tế, dùng chỉ tiêu hiệu quả kinh tế để
xem xét trong các quyết định cả trước và sau khi đầu tư sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế không chỉ bao gồm hiệu quả tài chính đơn thuần mà còn bao
gồm cả hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
Tóm lại: Hiệu quả kinh tế có thể là phần còn lại của kết quả sản xuaats
kinh doanh sau khi trừ đi chi phí bỏ ra hay có thể là tỷ lệ giữa kết quả sản xuất
với chi phí bỏ ra và nó bao gồm cả hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
Khi xem xét mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, một số tác giả đã đưa
ra ba khái niệm cơ bản về hiệu quả đó là: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ
(hiệu quả giá), hiệu quả kinh tế.
- Hiệu quả kỹ thuật: Là số lượng sản phẩm đầu ra có thể đạt được trên
một đơn vị chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong điều
kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào nông nghiệp. Hiệu quả kỹ

thuật được áp dụng phổ biển trong kinh tế vĩ mô để xem xét tình hình sử dụng
nguồn lực cụ thể. Hiệu quả này thường được phản ánh trong quan hệ các hàm
sản xuất. Hiệu quả Kỹ thuật liên quan đến phương diện hiện vật của sản xuất,
nó chỉ ra rằng hai đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại bao nhiêu đơn
vị sản phẩm, hiệu quả kỹ thuật của việc sử dụng các nguồn lực được thể hiện
thông qua mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, giữa các đầu vào với nhau và
giữa các sản phẩm khi đưa ra quyết định sản xuất. Hiệu quả kỹ thuật phụ
thuộc nhiều vào bản chất kỹ thuật và công nghệ áp dụng vào sản xuất, kỹ
năng người sản xuất cũng như môi trường kinh tế xã hội khác mà trong đó kỹ
thuật được áp dụng.


Hiệu quả phân bổ: Là chỉ tiêu hiệu quả trong đó các yếu tố giá sản
phẩm và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên
một đơn vị chi phí thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả
phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của đầu vào và giá
của đầu ra. Việc xác định hiệu quả phân bổ này giống như xác định các điều
kiện về lý thuyết biên để tối đa hóa lợi nhuận, có nghĩa là giá trị biên của sản
phẩm bằng giá trị biên của nguồn lực sử dụng vào sản xuất.
Hiệu quả kinh tế: Là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kỹ thuật và hiệu quả giá. Điều này có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và
giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông
nghiệp. Nếu đạt một trong hai yếu tố hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả phân bổ
mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ cho việc đạt hiệu quả kinh tế. Chỉ khi
nào việc sử dụng nguồn lực đạt cả hai chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
phân bổ khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế.
2.1.1.2 Nội dung hiệu quả kinh tế
Mục đích của sản xuất hàng hóa là thoả mãn tốt nhất các nhu cầu vật
chất và tinh thần cho xã hội. Mục đích đó được thực hiện khi nền sản xuất xã
hội tạo ra những kết quả hữu ích ngày càng cao cho xã hội. Sản xuất đạt mục

tiêu về hiệu quả kinh tế khi có một khối lượng nguồn lực nhất định tạo ra khối
lượng sản phẩm hữu ích lớn nhất.
Nội dung để xác định hiệu quả kinh tế bao gồm các nội dung sau:
- Xác định các yếu tố đầu vào: Hiệu quả là một đại lượng để đánh giá xem xét
kết quả hữu ích được tạo ra như thế nào, với chi phí là bao nhiêu, trong các
điều kiện cụ thể nào, có thể chấp nhận được không. Như vậy hiệu quả kinh tế
liên quan trực tiếp đến các yếu tố đầu vào và việc sử dụng nó với các yếu tố
đầu ra của quá trình sản xuất.


- Xác định các yếu tố đầu ra: Đây là việc xác định các mục tiêu đạt được, các
kết quả đạt được có thể là giá trị sản xuất, khối lượng sản phẩm, giá trị sản
phẩm, giá trị gia tăng, lợi nhuận.
Bản chất của hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả của lao động xã hội và
được xác định bằng tương quan so sánh giữa kết quả hữu ích thu được với
lượng hao phí xã hội.
2.1.1.3 Công thức tính hiệu quả kinh tế
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế hiện nay được áp dụng trong
nghiên cứu kinh tế ở nước ta:
a) Công thức 1:
Hiệu quả = kết quả thu được - chi phí bỏ ra, H=Q-C
Trong đó H là hiệu quả, Q là kết quả thu được, C là chi phí bỏ ra. Công
thức này cho biết quy mô hiệu quả của đối tượng nghiên cứu, loại chỉ tiêu này
được thể hiện bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau tuỳ thuộc vào phạm vi tính chi
phí là chi phí trung gian hay chi phí vật chất hoặc tổng chi phí. Xác định hiệu
quả kinh tế từ các chỉ tiêu chủ yếu của hệ thống tài khoản quốc gia và được
xác định bằng công các công thức sau:
+ Tổng giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và
dịch vụ được tạo ra trong thời kỳ nhất định thường là một năm.
+ Chi phí sản xuất bỏ ra có thể được hiểu theo các khía cạnh như sau:

- Tổng chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí thường xuyên
bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để mua và thuê các yếu tố đầu vào và chi phí dịch
vụ trong thời kỳ sản xuất ra tổng sản phẩm đó.
- Tổng chi phí vật chất (CPVC): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất tính
bằng tiền, gồm chi phí trung gian cộng với khoản chi phí khấu hao tài sản cố
định, khoản tiền thuế và chi phí tài chính khác trong quá trình sản xuất tạo ra
sản phẩm đó.


- Tổng chi phí sản xuất (CPSX): Là tổng hao phí tính bằng tiền của các nguồn
tài nguyên và các chi phí dịch vụ vật chất khác tham gia vào quá trình sản
xuất ra tổng sản phẩm đó. Hay tổng chi phí sản xuất được bao gồm tổng chi
phí vật chất và chi phí tính bằng tiền của lao động gia đình.
+ Hiệu quả tính theo công thức 1 biểu hiện qua các chỉ tiêu cụ thể sau:
- Giá trị gia tăng: GTGT = GTSX – CPTG
- Thu nhập hỗn hợp: TNHH = GTSX – CPVC
b) Công thức 2: Hiệu quả = Kết quả thu được/ chi phí bỏ ra, hay H = Q/C
Việc tính toán theo công thức này cho phép xác định kết quả sản xuất
và chi phí sản xuất có phạm vi rộng hơn.
Phần tử số là kết quả và hiệu quả chung như: Tổng giá trị sản xuất hoặc
giá trị gia tăng, thu nhập hỗn hợp, lợi nhuận.
Phần mẫu số có thể là chi phí các yếu tố đầu vào như: Tổng chi phí
bằng tiền (CPTG, CPVC, CPSX) hay tổng vốn đầu tư sản xuất, tổng diện tích
canh tác, tổng số lao động đầu tư trong sản xuất ra sản phẩm đó.
c) Công thức 3: So sánh mức chênh lệch của kết quả sản xuất với mức chênh
lệch của chi phí bỏ ra. So sánh số tuyệt đối và số tương đối, công thức này
được tính cụ thể như sau:
H = ∆Q - ∆C hay H = ∆Q /∆C
+ Cách xác định kết quả sản xuất thu được và chi phí sản xuất bỏ ra cũng
được hiểu tương tự như đối với công thức hai ở trên. Xác định chênh lệch ∆Q

và ∆C của Q và C theo thời gian hay theo tình huống của đối tượng cụ thể mà
ta nghiên cứu. Do đó nó cũng có nhiều chỉ tiêu xác định cụ thể, tuỳ từng đối
tượng và mục đính nghiên cứu mà lựa chọn chỉ tiêu cho phù hợp.
+ Chỉ tiêu đánh giá ở trường hợp H = ∆Q - ∆C phản ánh mức hiệu quả đạt
được khi đầu tư thêm một lượng chi phí yếu tố đầu vào nào đó cho sản xuất.
Trường hợp H = ∆Q /∆C phản ánh mức độ hiệu quả đạt được khi đầu tư thêm
một đơn vị yếu tố đầu vào nào đó cho sản xuất. Công thức này xác định hiệu


quả kinh tế của đầu tư theo chiều sâu hoặc hiệu quả kinh tế của việc áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
2.1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế
Với cách tính hiệu quả kinh tế thì có hai nhóm yếu tố làm ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh tế là: Nhóm yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến tử số kết
quả (Q) và nhóm yếu tố ảnh hưởng đến chi phí hay mẫu số (C).
Nhóm yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến tử số (Q): Nhóm này thể hiện
giá trị sản phẩm của quá trình sản xuất, nó phụ thuộc vào hai yếu tố là giá bán
và sản lượng hàng hóa sản xuất ra.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến giá bán như: Thị phần của sản phẩm, chất lượng
sản phẩm, thời điểm bán sản phẩm, kênh tiêu thụ phẩm, quy cách, tính chất
của sản phẩm, chiến lược của nhà sản xuất, thị hiếu người tiêu dùng, chính
sách phát triển sản xuất của đất nước cũng như giá của các sản phẩm thay thế,

+ Các yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm: Hình thức và rủi ro trong
vận chuyển, điều kiện tự nhiên, thị trường tiêu thụ và hình thức bảo quản, …
Nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mẫu số hay chi phí: Trong quá trình sản
xuất tập trung tất cả các chi phí nguồn lực đầu vào và các yếu tố ảnh hưởng
đến các nguồn lực đó, Các chi phí cơ bản phục vụ sản xuất thường có:
Nguyên liệu, sức lao động, nhà xưởng, máy móc. Tuy nhiên chi phí cho mỗi
nguồn lực lại chịu rất nhiều các yếu tố khác nhau cụ thể là:

+ Các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí nguyên liệu vật liệu như: Giá mua con
giống, chất lượng con giống, điều kiện tự nhiên của vùng thu mua, thời gian
thu mua, đối tượng cung cấp, hình thức vận chuyển, …
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến khấu hao tài sản cố định như: Đặc điểm vùng
sinh thái, tính hiện đại của máy móc công nghệ, giá thành lắp ráp, thời gian sử
dụng, nhà cung cấp, …


+ Chi phí sức lao động phục vụ sản xuất chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như:
Sức lao động, trình độ lao động, thị trường lao dộng, chiến lược đào tạo sử
dụng lao động của nhà sản xuất, …
+ Chi phí sản xuất chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: Chính sách thuế của
nhà nước, mặt hàng của doanh nghiệp sản xuất, thị trường bán sản phẩm của
doanh nghiệp,…
Tóm lại có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên
mức độ ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, chính sách và cơ
chế quản lý của nhà nước, trình độ năng lực của nhà sản xuất và người lao
động, mức độ phát triển của khoa học công nghệ, tập quán tiêu dùng và canh
tác, ….
Từ nhận định đó có thể đưa ra một số nhận xét về hiệu quả kinh tế là:
+ Việc đánh giá một cách chính xác và việc nâng cao hiệu quả kinh tế là vấn
đề khó và phức tạp, để làm được việc đó cần phải đánh giá chính xác các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế, các yếu tố cấu thành và tác động đến đầu
vào và đầu ra của quá trình sản xuất.
+ Hiệu quả kinh tế luôn biến động, chỉ thể hiện tương đối chính xác mối quan
hệ giữa giá trị các yếu tố đầu vào và đầu ra trong một giai đoạn nào đó nhất
định.
+ Đạt hiệu quả kinh tế là mục đích chung của nhà sản xuất và quản lý trong
quá trình sản xuất.
2.1.2 Mô hình canh tác

+ Khái niệm về mô hình: Mô hình là hình mẫu để mô phỏng hoặc thể hiện đối
tượng nghiên cứu, được diễn đạt hết sức ngắn ngọn, phản ánh những đặc
trưng cơ bản nhất và giữ nguyên được bản chất của đối tượng nghiên cứu.


+ Khái niệm về mô hình canh tác: Mô hình canh tác là hình mẫu trong canh
tác, thể hiện sự kết hợp của các nguồn lực trong điều kiện canh tác cụ thể,
nhằm đạt được mục tiêu về sản phẩm và lợi ích kinh tế.
2.1.3 Một số lý luận về nuôi trồng thuỷ sản trên đất trũng
2.1.3.1 Một số khái niệm
* Nuôi trồng thủy sản: Theo định nghĩa của FAO [11], NTTS là bao gồm các
hoạt động canh tác trên các đối tượng sinh vật thuỷ sinh như cá, nhuyễn thể,
giáp xác, thực vật thuỷ sinh,… Quá trình nuôi được bắt đầu từ khâu thả giống,
chăm sóc, nuôi lớn cho tới khi thu hoạch xong. Có thể tiến hành nuôi từng cá
thể hay cả quần thể với rất nhiều hình thức nuôi như bán thâm canh, thâm
canh, quảng canh, nuôi tổng hợp,…
* Mô hình nuôi trồng thuỷ sản: Được hiểu là hình mẫu, hình ảnh quy ước hay
sự mô phỏng cấu tạo và hoạt động của quá trình nuôi trồng thuỷ sản.
2.1.3.2 Hình thức nuôi trồng thủy sản
* Quảng canh: Là hình thức đầu tư ở mức độ thấp, nguồn dinh dưỡng chỉ
trông vào tự nhiên.
* Bán thâm canh: Là hình thức canh tác ở mức đầu tư trung bình. Dinh dưỡng
chủ yếu phụ thuộc vào nguồn dinh dưỡng tự nhiên là chính, tuy có bổ sung
thêm thức ăn và phân bón nhưng không nhiều và không đều.
* Thâm canh: Là hình thức chăn nuôi với mức đầu tư tương đối cao vào một
đơn vị diện tích, nguồn dinh dưỡng chủ yếu dựa vào thức ăn được cung cấp,
sự phát triển, gia tăng sản lượng nuôi trồng có sự đóng góp của tự nhiên
nhưng không dáng kể.
* Nuôi tổng hợp (nuôi ghép): Là hình thức nuôi nhiều đối tượng trong cùng
một đơn vị diện tích nuôi hay thuỷ vực để lợi dụng tự nhiên một cách hợp lý.

2.1.3.3 Đặc điểm đất trũng và canh tác trên đất trũng
Đặc điểm cơ bản của đất trũng [11] là chưa và thường bị ngập úng,
không phù hợp với phần lớn những loại cây trồng thông thường như lúa, ngô,


khoai,…nếu gieo cấy thì cho năng suất rất thấp. Thường được sử dụng vào
mục đích nuôi trồng thủy sản, hoặc một số cây trồng ưa nước như sen, rau
muống, rau cần,…
Nuôi trồng thủy sản trên đất trũng:
+ Đối tượng NTTS là động vật thủy sinh, nó là nguồn tài nguyên hết sức nhạy
cảm, có khả năng tái tạo cao nhưng lại dễ dàng bị hủy hoại, có nhiều loài có
giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao.
+ NTTS là quá trình kết hợp giữa tự nhiên xen kẽ và nhân tạo nên thời gian
sản xuất và thời gian lao động không trùng nhau. Do vậy nên NTTS mang
tính thời vụ cao.
+ Do địa hình thấp, đối tượng NTTS lại hầu như thích di cư, nếu bị ngập nước
bờ ao, thì người sản xuất có nguy cơ mất trắng toàn bộ sản phẩm, do đó việc
đầu tư công sức tiền vốn cho xây dựng bờ ao là rất lớn, đôi khi còn vượt quá
khả năng tài chính của chủ sản xuất.
2.1.4 Yếu tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản
bao gồm: Các yếu tố tự nhiên, các yếu tố kinh tế và các yếu tố về xã hội.
* Nhóm 1: Các yếu tố về môi trường tự nhiên.
- Khí hậu: Bao gồm các chỉ số về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, là những
yếu tố rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển nuôi thuỷ sản,
ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể các đối tượng thuỷ sản nuôi.
- Thuỷ văn: Nguồn nước là một trong những điều kiện thiết yếu đầu
tiên cho nuôi thuỷ sản. Nguồn nước đủ và không có biến động lớn: không quá
cao hay quá thấp, là điều kiện lý tưởng cho nuôi thuỷ sản.
- Thổ nhưỡng, môi trường: điều kiện về thổ nhưỡng và môi trường

nước là những điều kiện cơ bản cho phát triển nuôi thuỷ sản. Bao gồm các chỉ
số chính về thành phần cơ học, thành phần hoá học các thuỷ vực, thuỷ sinh vật.


- Nguồn lực các giống loài thuỷ sản: Ngày nay do sự phát triển của tiến
bộ khoa học kỹ thuật trong sinh sản nhân tạo, di giống và thuần hoá giống
thuỷ sản nuôi nên nguồn thuỷ sản tự nhiên đã giảm đi phần nào vai trò quan
trọng của nó. Tuy nhiên, đến nay nó vẫn có ý nghĩa trong việc duy trì sản xuất
các đối tượng nuôi chưa sản xuất được giống nhân tạo, các loài nuôi đặc sản
có giá trị kinh tế cao của địa phương, trong việc cấy ghép gen để tăng khả
năng phù hợp với điều kiện sống của mỗi địa phương.
* Nhóm 2: Các yếu tố kinh tế kỹ thuật.
- Vốn đầu tư: Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
kinh doanh của mọi ngành kinh tế nói chung, của nuôi thuỷ sản nói riêng.
Trong vấn đề về vốn đầu tư thì việc bố trí cơ cấu sử dụng vốn đầu tư hợp lý là
hết sức cần thiết.
- Thị trường: Là yếu tố quyết đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh
doanh, cho cả yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra của sản xuất. Chọn đối
tượng nuôi và thời điểm bán được giá là việc làm cần thiết của người nuôi
thuỷ sản.
- Công nghệ và kỹ thuật tiên tiến: Bao gồm các khâu từ chuẩn bị sản
xuất, sản xuất đến bảo quản và chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, nó ảnh hưởng trực
tiếp đến số lượng, chất lượng và giá thành cũng như giá bán sản phẩm nuôi.
- Tổ chức sản xuất và quản lý: Là yếu tố rất quan trọng, mặc dù chỉ có
ảnh hưởng gián tiếp đến kết quả, hiệu quả nuôi thuỷ sản nhưng nó ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển chung của nuôi thuỷ sản trên một vùng cụ thể.
* Nhóm 3: Các yếu tố về kinh tế -xã hội
- Chính sách: Là yếu tố cực kỳ quan trọng, mặc dù nó cũng chỉ có ảnh
hưởng đến kết quả, hiệu quả nhưng các chính sách sẽ tạo ra môi trường kinh

tế, kinh tế-xã hội thuận lợi, tạo đà cho phát triển nuôi thuỷ sản.


- Nhu cầu thị trường: Là yếu tố hết sức quan trọng, việc điều tra nắm
bắt được nhu cầu thị trường là việc làm rất cần thiết khi muốn phát triển một
ngành sản xuất hàng hoá lớn nào đó.
- Trình độ của nguồn nhân lực: Có ảnh hưởng đến việc tiếp thu các
thông tin kinh tế, thị trường và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến trong quá trình phát triển nuôi thuỷ sản.
- Mức sống tích luỹ: Có ảnh hưởng đến nhu cầu về sản phẩm nuôi thuỷ
sản và mức độ đầu tư cho nuôi thuỷ sản là yếu tố cần được nghiên cứu khi
xây dựng các kế hoạch phát triển.
2.1.1.5 Ý nghĩa của việc nghiên cứu hiệu quả kinh tế trong nuôi trồng thủy
sản trên đất trũng
+ Việc nghiên cứu hiệu quả kinh tế sẽ góp phần giảm chi phí và phát triển sản
xuất ổn định và phát triển NTTS bền vững, tận dụng tối đa diện tích hiện có,
làm tăng giá trị cho tài nguyên đất, nước.
+ Nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất trũng thông qua chuyển đổi phương
thức sản xuất phù hợp.
+ Về mặt xã hội: Tạo việc làm, tăng thu nhập và làm giảm tỷ lệ nghèo tăng tỷ
lệ hộ giàu cho nông dân, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã
hội.
+ Về mặt môi trường: Giảm ô nhiễm môi trường, làm tăng đa dạng sinh học.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Vai trò của nuôi trồng thuỷ sản
2.2.1.1 Đối với nền kinh tế quốc dân
Hiện nay phát triển NTTS không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc
cung cấp thực phẩm hàng ngày của nhân dân và tạo nguồn hàng xuất khẩu,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tăng hiệu quả
sử dụng tiềm năng hiệu quả sẵn có. Ngoài ra nó còn góp phần quan trọng

trong việc xây dựng trật tự xã hội, an ninh nông thôn vùng ven biển, mở rộng


quan hệ quốc tế, tạo việc làm xoá đói giảm nghèo, làm giàu cho nhân dân
cũng như đất nước. Vì vậy NTTS được coi là lĩnh vực kinh tế quan trọng
trong nông nghiệp, nông thôn nước ta, góp phần đẩy nhanh quá trình CNHHĐH đất nước.
- Mở rộng quan hệ thương mại quốc tế:
Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về mở rộng
quan hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế giới. Năm
1996, ngành thuỷ sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Đến năm 2001, quan hệ này đã được mở rộng ra 60
nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 là 75 nước và vùng lãnh thổ.
Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ
sản đã tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ,
Nhật và các nước trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường
xuyên của ngành. Năm 2003, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị
trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá
trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 60 nước và vùng lãnh thổ.
Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của
ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những con đường mới và mang lại nhiều
bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng
hơn vào khu vực và thế giới.
- An ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo:
Thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho con
người. Năm 2001, mức tiêu thụ trung bình mặt hàng thuỷ sản của mỗi người
dân Việt Nam là 19,4 kg, cao hơn mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thịt lợn
(17,1 kg/người) và thịt gia cầm (3,9 kg/người). Cũng giống như một số nước
châu Á khác, thu nhập tăng đã khiến người dân có xu hướng chuyển sang tiêu
dùng nhiều hơn mặt hàng thuỷ sản. Có thể nói ngành thuỷ sản có đóng góp
không nhỏ trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.



Ngành thuỷ sản với sự phát triển nhanh của mình đã tạo ra việc làm và
thu hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn
sản xuất, làm giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước.
Số lao động của ngành thuỷ sản tăng liên tục từ 3,12 triệu người (năm 1996)
lên khoảng 3,8 triệu người năm 2001 (kể cả lao động thời vụ), như vậy, mỗi
năm tăng thêm hơn 100 nghìn người. Tỷ lệ tăng bình quân số lao động thường
xuyên của ngành thuỷ sản là 2,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của cả
nước (2%/năm).
Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng thuỷ
sản chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực
lượng lao động, tạo nên nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp
xoá đói giảm nghèo. Các hoạt động phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm,
tiêu thụ sản phẩm… chủ yếu do lao động nữ thực hiện, đã tạo ra thu nhập
đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc biệt là ở các vùng nông
thôn, miền núi. Riêng trong các hoạt động bán lẻ thuỷ sản, nữ giới chiếm tỉ lệ
lên đến 90%.
2.2.1.2 Đối với hộ NTTS
* Cải thiện dinh dưỡng
Sản phẩm từ thủy sản là nguồn cung cấp prôtêin động vật gồm vitamin,
muối khoáng quan trọng chiếm khoảng 19% tổng số nhu cầu prôtênin động
vật trên thế giới. Với tốc độ tăng dân số như hiện nay, nếu mức độ tiêu thụ hải
sản trung bình 18 kg/người/năm thì sản lượng thế giới tăng 125 triệu tấn
(FAO). Đối với Việt Nam NTTS với quy mô nhỏ là nguồn cải thiện chính cho
các hộ nông dân.
* Tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người dân
Đây là vai trò quan trọng nhất của nghề NTTS, đặc điểm nước ta với
hơn 70% dân số sống bằng nông nghiệp, thêm vào đó tình trạng tăng dân số
còn cao, đất đai ngày càng bị thu hẹp, số người thất nghiệp trong nông thôn



không ngừng gia tăng. Do đó NTTS phát triển sẽ tạo điều kiện giải quyết một
số bộ phận không nhỏ lao động nhàn rỗi trong nông thôn, đặc biệt là các khu
ven biển nơi mà NTTS với quy mô lớn sẽ tạo nên một khu vực kinh tế biển
thu hút một lực lượng lao động lớn cho đánh bắt và dịch vụ.
Bên cạnh đó, do có giá trị xuất khẩu cao, NTTS còn mang lại thu nhập
cao hơn nhiều so với sản xuất ngành trồng trọt. Đối với Việt Nam, ở vùng ven
biển thì thu nhập của người dân ven biển phần lớn là từ đánh bắt và NTTS.
2.2.2 Đặc điểm nuôi trồng thủy sản trên đất trũng
Đối tượng nuôi trồng thuỷ sản là động vật thuỷ sinh, nó là đối tượng hết
sức nhạy cảm, có khả năng tái tạo cao nhưng lại dễ dàng bị huỷ diệt, có nhiều
loài có giá trị kinh tế cao.
Quá trình nuôi trồng thuỷ sản là sự lợi dụng lợi thế của vùng đất trũng
không có lợi thế hay hiệu quả trong việc trồng lúa chuyển sang nuôi trồng
thuỷ sản.
Điều kiện sống của thuỷ sản dựa vào tự nhiên nên yêu cầu người lao
động phải am hiểu điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, thuỷ văn để có biện
pháp phòng tránh rủi ro và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Nuôi trồng thuỷ sản đòi hỏi các dịch vụ hỗ trợ lớn đặc biệt là giống,
thức ăn, tín dụng, khuyến ngư và thị trường tiêu thụ.
2.2.3 Hiệu quả của các mô hình NTTS ở một số tỉnh của Việt Nam
a) Mô hình nuôi thâm canh cá rô đồng ở Phú Hòa- Lương Tài- Bắc Ninh
Với cỡ cá giống 700-800 con/kg, sau thời gian 3 tháng nuôi cá của các
hộ đạt trọng lượng từ 17-20g/con vào khoảng 50-70 con/kg. Với tốc độ phát
triển như vậy sau 6 tháng nuôi cá của các hộ đạt trọng lượng 70-90g/con (1214 con/kg), mật độ nuôi 15 con/m2 (150.000 con/ha), tỷ lệ sống 70%-80%,
năng suất thu được vào khoảng 8,5-10 tấn/ha theo giá thị trường 25-30
nghìn/kg, tổng thu được 230 triệu-290 triệu/ha/6 tháng nuôi trừ các khoản chi



phí như giống và thức ăn, công chăm sóc… nông dân thu lãi khoảng 80-120
triệu đồng/ha/6 tháng.
Với 0,3 ha (3.000m2), thả 45.000 con giống (15 con/m2) cỡ giống 700800 con/kg, nhờ áp dụng đúng theo quy trình kỹ thuật do cán bộ khuyến ngư
hướng dẫn như chế biến thức ăn, duy trì mầu nước, bón phân, vôi, định kỳ
cho ăn thuốc phòng bệnh… đặc biệt là tuân thủ nghiêm công thức 4 định (số
lượng thức ăn, chất lượng thức ăn, thời gian cho ăn, địa điểm cho ăn). Nhờ
tuân thủ theo đúng quy trình kỹ thuật do cán bộ khuyến ngư xây dựng mà chỉ
sau 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng trên 80g/con (tỷ lệ sống 80%) tổng sản
lượng thu được trên 2,8 tấn với giá bán trung bình 30.000 đ/kg, sẽ thu được
hơn 86 triệu đồng, trừ tiền giống và thức ăn, công chăm sóc… còn lãi khoảng
35 triệu/0,3 ha/6 tháng.
b) Hiệu quả từ mô hình nuôi cá trên ruộng lúa ở V ĩnh Long
Với diện tích 25.000m2, trong đó diện tích mặt nước ao nuôi cá khoảng
1.500 – 2.000m2, còn lại là đất trồng lúa, thả nuôi 2 loài cá rô phi (45kg) và
chép (12kg). Kết thúc vụ nuôi thu hoạch được 2.500kg cá thịt, giá bán bình
quân 18.000đ/kg, sau khi trừ chi phí còn lời 32 triệu đồng.
C ) Hiệu quả của mô hình lúa –cá ở xã Tiên Phương – Chương Mỹ - Hà Tây
- Từ năm 2003, Tiên Phương đã tiến hành chuyển đổi diện tích trũng,
cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản theo mô hình lúa – cá, trong đó
thả cá là chính. Tính đến nay, diện tích chuyển đổi đạt 111ha, Năm 2009, tiên
Phương là xã được quy hoạch là vùng thuỷ sản trọng điểm của huyện Chương
Mỹ nhằm cung cấp nguồn thuỷ sản cho thị trường Thủ đô. Theo kết quả đánh
giá mới đây của UBND xã Tiên Phương, thu nhập từ nuôi trồng thuỷ sản đạt
65 triệu đồng/ha.


2.3 Tóm tắt các nghiên cứu trước đây
2.3.1 Các nghiên cứu về mô hình NTTS trên đất trũng
Nghiên cứu của viện kinh tế nông nghiệp 2003 về Mô hình chuyển đổi
đất vùng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản ở xã Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh

đều đạt giá trị sản lượng trên 50 triệu/ha/năm.
Nghiên cứu của Vương Khả Khang 2006 về hiệu quả kinh tế Mô hình
nuôi trồng thuỷ sản trên đất trũng ở huyện Lương Tài - tỉnh Bắc Ninh.
Bảng 2.1 Kết quả và hiệu quả mô hình lúa - cá
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Sản lượng thóc thu hoạch
tấn
Sản lượng cá thu hoạch
tấn
Giá trị sản xuất (GO)
1000đ
Tổng chi phí (TC)
1000đ
Tổng chi phí cố định Phải trả(TCp)
1000đ
Chi phí trung gian(IC)
1000đ
Giá trị gia tăng (VA)
1000đ
Thu nhập hỗn hợp(MI)
1000đ
Các chỉ tiêu hiệu quả
- GO/TC
lần
- MI/TC
lần
- VA/TC
lần
Bảng 2.2 Hiệu quả của mô hình chuyên cá


Bình quân 1ha
2,56
2,62
36640
14361
1500
12861
23779
22279

Chỉ tiêu
Sản lượng cá thu hoạch
Giá trị sản xuất (GO)
Tổng chi phí (TC)
Tổng chi phí cố định Phải trả(TCp)
Chi phí trung gian(IC)
Giá trị gia tăng (VA)
Thu nhập hỗn hợp(MI)
- GO/TC
- MI/TC
- VA/TC
- GO/TCp
- MI/TCp

Bình quân 1ha
7797,0
84933,5
46509,8
9050,0

37459,8
47453,7
38403,7
1,82
0,82
1,02
9,38
4,24

Đơn vị tính
tấn
1000đ
1000đ
1000đ
1000đ
1000đ
1000đ
lần
lần
lần
lần
lần

2,55
1,54
1,65


- VA/TCp
lần

5,24
2.3.2 Chính sách của đảng nhà nước đối với NTTS nói chung và NTTS
trên đất trũng nói riêng
+ Chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước:
- Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của chính phủ về một số chủ
trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp.
- Quyết định số 103/2000/QĐ- TTg ngày 25/8/2000 của thủ tướng chính phủ
về một số chính sách khuyến khích phát triển giống thuỷ sản.
- Nghị định số 86/2001/NĐ- CP ngày 16/11/2001 về điều kiện kinh doanh các
ngành thuỷ sản.
- Quyết định số 132/2001/QĐ- TTg ngày 20/12/2001 về cơ chế tài chính thực
hiện chương trình phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi
trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn.
- Các chính sách về trợ giá, trợ cước, hỗ trợ giống thuỷ sản cho vùng sâu,
vùng xa.
+ Chủ trương chính sách của ngành thuỷ sản
- Quyết đinh số 03/2002/QĐ-BTS ngày 23/01/2002 về việc ban hành quy chế
quản lý thuốc thú y thuỷ sản.
- Quyết định số 04/2002/QĐ-BTS ngày 24/01/2002 về việc ban hành quy chế
quản lý môi trường vùng nuôi tôm tập trung.
+ Chủ trương chính sách của huyện Nga Sơn, của xã
- Nghị quyết số 02/2004/NQ-HU ngày 15/8/2004 về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH và chương trình xây dựng
cánh đồng 50 triệu/ha/năm.
- Đề án số 03/ĐA-HU về chuyển đổi một số diện tích vùng đồng chiêm sang
mô hình sản xuất Lúa- cá- chăn nuôi kết hợp.


PHẦN III

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Nga thiện là một xã nằm ở phía Tây bắc của huyện Nga Sơn cách trung
tâm huyện 4km.
Phía Tây giáp với xã Hà Vinh - huyện Hà Trung – Thanh Hoá
Phía Đông giáp xã Nga Giáp – Nga Sơn – Thanh hóa
Phía Nam giáp xã Nga Trường – Nga Sơn – Thanh hóa
Phía bắc giáp tỉnh Ninh Bình bởi dãy núi Tan Điệp
Với vị trí địa lý giáp với nhiều xã như vậy Nga Thiện có nhiều thị
trường để tiêu thụ sản phẩm cũng như mua các yếu tố đầu vào đây sẽ là điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
3.1.1.2 Khí hậu, thời tiết
Xã Nga Thiện nằm ở tiểu vùng khí hậu đồng bằng phía bắc Thanh Hoá,
nên có đặc trưng sau:
+ Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình cả năm là 25 – 27 oC, nhiệt độ thấp nhất
từ 5-7oC, nhiệt độ cao nhất là 41-42oC.
+ Mùa mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600-1900 mm, lượng
mưa lớn chiếm 80% lượng mưa cả năm. Đặc biệt có những trận mưa rào lớn
có kèm theo gió bão từ 3-7 ngày, gây ra ngập úng cục bộ ở nhiều vùng đồng
chiêm trũng.
+ Mùa khô: Lượng mưa ít, có những thời kỳ khô hanh kéo dài từ 10-15 ngày
làm cho nhiều diện tích ở đồng bái bị khô hạn.


+ Gió: hàng năm có 2 mùa gió chính là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông
Nam, mùa hè thường có đợt gió Tây khô nóng mà người dân hay gọi là gió
Lào.

Nhìn chung Nga Thiện có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp đa dạng và phong phú, vụ đông khí hậu khô lạnh phát triển các
cây mùa đông như rau cải bắp, xu hoà, hành, tỏi…Mùa hè thì trồng các cây
như Lạc, Cà, Đậu và các loại cây ăn qảu khác. Yếu tố hạn chế là mưa tập
trung với lượng lớn làm cho diện tích đồng chiêm bị ngập có nguy cơ mất
trắng nếu không tiêu úng kịp thời, Nhưng đây lại là điều kiện thuân lợi để
Nga Thiện phát triển nuôi trồng thủy sản.
3.1.1.3 Địa hình, đất đai
Đất đai xã Nga Thiện hình thành qua quá trình bồi đắp phù sa từ lâu
đời, xưa kia đây là của biển có dòng sông Hoạt chảy qua, quá trình xâm thực
tự nhiên nên cấu tạo địa hình không đồng đều đã hình thành nên 3 vùng rõ rệt:
+ Vùng đất màu vàn cao: Diện tích 100,85 ha. Trên diện tích đất này
hàng năm luân canh cây trồng hai vụ: 1 vụ lúa, 1 vụ màu trong đó vụ 5 chủ
yếu trồng các loại rau màu như ngô, khoai, đậu lạc và các loại rau màu khác,
đặc biệt là cây hành và cây Cà cho giá trị thu nhập đạt 50 triệu/ha/năm. Diện
tích đất màu không chỉ cung cấp rau màu mà nó còn cung cấp cỏ và rau xanh
phục vụ cho nuôi cá ( nuôi cá trắm cỏ), điều này sẽ góp phần phát triển NTTS
của xã.
+ Vùng đồng chiêm trũng: Diện tích 441,34 ha, trên diện tích này hàng
năm chuyên canh hai vụ lúa cho năng xuất bình quân 180-195 kg/sào. Nhưng
năng xuất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, trên diện tích này
theo chủ trương của huyện và của địa phương UBND xã đã và đang chuyển
sang xây dựng các mô hình NTTS kết hợp, đặc biệt là mô hình lúa - cá.
+ Vùng hàng cương: Đây là vùng nằm lọt giữa hai dãy núi Tam Điệp
tạo thành vùng thung lũng rộng với gần 100 ha đất, có dòng sông Hoạt đưa


×