Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trách nhiệm hữu hạn thái dương khu công nghiệp phố nối a huyện văn lâm tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.04 KB, 88 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, sự cạnh tranh trên thị trường của các thành phần kinh tế ngày
càng gay gắt, khốc liệt. Mỗi doanh nghiệp đều đứng trước những thách thức
to lớn, đó là làm sao cho mỗi doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong
điều kiện cạnh tranh quyết liệt - một tất yếu của nền kinh tế thị trường.
Trong môi trường kinh doanh mới, các doanh nghiệp hoàn toàn độc lập
tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã cho phép các doanh nghiệp
phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình, tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách
thức trong quá trình sản xuất kinh doanh đó của mỗi doanh nghiệp, khi “chân
trụ” của doanh nghiệp trên thị trường bị đe doạ thì nâng cao năng lực cạnh
tranh là lời giải hay nhất cho bài toán cạnh tranh để các doanh nghiệp đứng
vững trên thị trường.
“Thương trường là chiến trường” do đó nâng cao năng lực cạnh tranh
phải luôn được đặt lên là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp để không
bị đào thải trong sự cạnh tranh gay gắt của trị trường. các doanh nghiệp cần
phải nắm vững được các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh
và vị thế của mình trên thị trường để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, từ
đó phát triển ổn định và bền vững.
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chính của nền Nông nghiệp
Việt Nam, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho ngành chăn nuôi
ngày càng phát triển, do đó các doanh nghiệp luôn cạnh tranh nhau để đưa ra
được các sản phẩm thức ăn chăn nuôi đa dạng đáp ứng nhu cầu của người
chăn nuôi cũng như để thích hợp cho các loại gia súc, gia cầm.
Công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam đang còn non trẻ,
trước những năm 1960 chưa có công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Trong những năm 1960, cùng với sự du nhập các giống gia súc ngoại nhập,
thức ăn chăn nuôi mới bắt đầu được sử dụng nhưng sự phát triển của công
1



nghiệp sản xuất thức ăn còn chậm. Tuy nhiên ngành đã có sự tăng trưởng
mạnh mẽ từ năm 1994, do quá trình đổi mới đầu tư của các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài vào ngành đã làm cho sản lượng thức ăn chăn nuôi
tăng trung bình hàng năm hơn 23% trong giai đoạn 1988 – 1998 và tỷ lệ thức
ăn chăn nuôi tiêu thụ tăng từ 1% - 27%, chất lượng thức ăn chăn nuôi cũng
được nâng cao. Hiện nay ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi ngày càng có
nhiều nhà sản xuất mới gia nhập thị trường điều đó dẫn đến gia tăng sự cạnh
tranh trên thị trường.
Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Thái Dương được thành lập ngày
21/7/2001 mặc dù công ty đã chiếm lĩnh được một phần thị trường trong
nước và đã khẳng định được chất lượng của sản phẩm cũng như chỗ đứng
trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi nhưng để tìm được một chỗ đứng
ổn định trên thị trường, trước sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ thì doanh
nghiệp phải có chiến lược phù hợp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Xuất phát từ tình hình trên của công ty chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của công
ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Thái Dương Khu Công Nghiệp Phố Nối A
huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty Trách Nhiệm
Hữu Hạn Thái Dương. Để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Thái
Dương

2


- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh
của công ty TNHH Thái Dương trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề kinh tế, tổ chức và kỹ thuật có liên quan
đến đề tài.
- Năng lực cạnh tranh của công ty và các chiến lược nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của công ty.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu.
1.3.2.1 Phạm vi về nội dung
Đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Thái Dương.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của công ty trong thời gian tới.
1.3.2.2 Phạm vi không gian
Đề tài tiến hành nghiên cứu tại công ty TNHH Thái Dương khu công
nghiệp Phố Nối A huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên.
1.3.2.3 Phạm vi thời gian
Từ khi thành lập công ty đến nay và các số liệu trong báo cáo được lấy
qua 3 năm 2007,2008,2009.

3


PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận

2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Cạnh tranh
Tại sao một số nước có sức cạnh tranh cao và một số khác lại thất bại
trong cạnh tranh? một số doanh nghiệp thành công còn số khác lại không?...
Đây là những câu hỏi về kinh tế thường đặt ra nhiều nhất trong thời đại ngày
nay. Cạnh tranh đã trở thành một trong những vấn đề được quan tâm nhất của
các chính phủ và nền công nghiệp ở mọi quốc gia.
Cạnh tranh cần được định nghĩa như thế nào?do cạnh tranh là một hiện
tượng kinh tế xã hội phúc tạp, do cách tiếp cận khác nhau nên có các quan
niệm khác nhau về cạnh tranh.
Theo K.Mark khi đề cập tới cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế
TBCN có nói “cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Tuy nhiên cũng trong nền
kinh tế TBCN, cuốn sách Từ điển Kinh Doanh (xuất bản năm 1992, ở Anh)
lại đưa ra khái niệm cạnh tranh đó là “cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch
giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất của cùng một
loại về phía mình”. Do vậy cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay
gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trên cùng một thị trường
hàng hóa cụ thể nào đó nhằm chiếm lĩnh khách hàng và thị trường, thông qua
đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu được lợi nhuận cao.
Khả năng cạnh tranh khó được định nghĩa đó là do thuật ngữ này được
sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và
cả các khu vực liên quốc gia. Nhưng những mục tiêu cơ bản lại được đặt ra
khác nhau phụ thuộc vào góc độ xem xét là của doanh nghiệp hay của quốc
gia. Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm
4


kiếm lợi nhuận trên cở sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một

quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân.
Theo Ủy ban cạnh tranh công nghiệp của tổng thống Mỹ thì “cạnh
tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường
tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được
các đòi hỏi của các thị trường, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập
thực tế của nhân dân nước đó”. Còn báo cáo về cạnh tranh toàn cầu lại định
nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là “khả năng của nước đó đạt được
những thành quả nhanh và bền vững về mức sống nghĩa là đạt được các tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế cao được xây dựng bằng thay đổi của tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) trên đầu người theo thời gian”.
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát
triển của nền kinh tế thị trường. không có hoạt động cạnh tranh thì không có
kinh tế thị trường. trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là điều kiện cho sự
sống còn của doanh nghiệp. kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường, vì thế từng doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình
một chiến lược cạnh tranh phù hợp để vươn lên tới vị thế cao nhất.
M.Porter đã đưa ra 5 yếu tố lần lượt quyết định mức độ cạnh tranh
trong một thị trường cụ thể là:
- Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành
- Quyền lực thương lượng của phía những nhà cung ứng
- Quyền lực thương lượng của phía những người tiêu thụ
- Sự đe dọa của những người hoặc sẽ ra nhập thị trường
- Sự đe dọa của những sản phẩm hoặc dịch vụ thay thế

5


Sơ đồ 1: 5 Yếu tố quyết định cạnh tranh trong ngành

Sự đe dọa của những người mới

hoặc sẽ nhập cuộc

Quyền lực thương lượng
của phía những người
cung ứng

Cạnh tranh giữa
các đối thủ hiện tại

Quyền lực thương
lượng của phía những
người tiêu thụ

Sự đe dọa của những sản phẩm
hoặc dịch vụ thay thế

Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường chỉ mang tính tương đối. chính
vì vậy trong thực tế bên cạnh những phương thức chiến lược để nâng cao vị
trí tuyệt đối của mình, một số doanh nghiệp còn tìm cách làm giảm vị trí
tuyệt đối của các đối thủ hoặc kìm chế số lượng đối thủ nhập cuộc. như vậy,
cạnh tranh có cạnh tranh tích cực và tiêu cực đối với hoạt động kinh tế.
Vậy cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp nó được thể hiện trong
các biện pháp kinh doanh. Có thể hiểu cạnh tranh của các doanh nghiệp là
việc sử dụng hệ thống các chính sách, các công cụ của các doanh nghiệp để
đối phó và phản ứng với các doanh nghiệp nhằm mục đích tồn tại và phát
triển trên thị trường và để thu lợi nhuận dự kiến hoặc lợi nhuận tối đa cho bản
thân doanh nghiệp và các mặt hàng của doanh nghiệp để đạt mục tiêu cuối
cùng là tối đa hoá lợi nhuận. trong quá trình cạnh tranh doanh nghiệp sẽ dần
khẳng định được vị trí của mình trên thị trường.

Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người
khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động
6


tích cực như: chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn,…quy luật của
cạnh tranh là thải loại những thành viên yếu kém trên thị trường, duy trì và
phát triển những thành viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho quá trình
phát triển toàn xã hội.
Khi xem xét vấn đề cạnh tranh ta phải chú ý đến 4 vấn đề:
Thứ nhất, nói đến sự ganh đua nhằm giành lấy phần thắng của nhiều
chủ thể cùng tham dự
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào
đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, dự án…;một
loạt điều kiện có lợi; một thị trường, một khách hàng…) mục đích cuối cùng
là kiếm được lợi nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng
buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị
trường, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh…
thứ tư, trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể tham gia cạnh tranh bằng đặc
tính và chất lượng sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm, cạnh tranh
bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt, cạnh
tranh thông qua hình thức thanh toán…
Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng,
giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng, giữa người sản xuất với người sản
xuất. Trong cuộc cạnh tranh này người ta dùng nhiều biện pháp cạnh tranh
giá cả hàng hoá để đánh bại đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả như dùng
thông tin, quảng cáo sản phẩm, quảng cáo dây chuyền sản xuất…để kích
thích người tiêu dùng.
Cạnh tranh mang tới sự chuyển biến tích cực đến chất lượng hoạt động

kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như nội dung của nhiều chính sách
nhà nước, hỗ trợ bước đầu cho việc hình thành một môi trường cạnh tranh
lành mạnh ở Việt Nam. nhiều doanh nghiệp đã tập trung đầu tư chiều sâu, đổi
mới sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh. nhiều văn bản pháp luật đã
7


được ban hành tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành của cơ chế cạnh tranh
đặc biệt luật doanh nghiệp mới được ban hành đã mở rộng cửa gia nhập thị
trường cho các nhà đầu tư.
2.1.1.2 Năng lực cạnh tranh
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn năng lực cạnh tranh với ưu thế của
sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan niệm lại gắn năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó chiếm giữ, có quan niệm lại
cho rằng sức cạnh tranh đồng nghĩa với hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
Một nhà sản xuất được gọi là nhà sản xuất cạnh tranh nếu có khả năng
cung ứng một sản phẩm có chất lượng cao với mức giá thấp hơn so với các
đối thủ cạnh tranh. Một công ty được xem là có sức cạnh tranh khi nó duy trì
được vị thế của mình trên thị trường cùng với các nhà sản xuất khác với các
sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm tương tự với mức giá
thấp hơn hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với đặc tính về chất lượng
hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở các
nhóm yếu tố chủ yếu qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Uy tín, thương hiệu, chất lượng và
giá cả sản phẩm

Chất lượng,khả năng

cung ứng các đầu vào

Năng lực cạnh
tranh của doanh
nghiệp

Công nghệ và dịch vụ trợ giúp

8

Nhu cầu của khách
hàng đối với sản phẩm


Năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng
lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp,
năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh sản phẩm thể hiện qua: giá cả, chất lượng, mẫu
mã, kiểu dáng,…phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của dân chúng. Một hàng hóa
được coi là có sức cạnh tranh cao khi chúng có chất lượng vượt trội so với
các hàng hóa cùng loại, cùng một mặt bằng giá hoặc có chất lượng vượt trội
độc đáo riêng có tức là sản phẩm phải có chất lượng riêng luôn đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng, luôn được ưa chuộng, chiếm được thị trường trên thị
trường cạnh tranh. Đối với giá cả của sản phẩm chủ yếu do chi phí sản xuất
quyết định do đó nếu chất lượng như nhau thì để giảm chi phí doanh nghiệp
cần quản lý tốt, sử dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất,…lúc đó mới tạo ra
khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. mặt khác hình thức, nhãn mác của sản
phẩm cũng làm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết đó là khi tham gia vào
các hoạt động kinh doanh trên thị trường thì muốn doanh nghiệp mình tồn tại

và đứng vững. Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những
chiến lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô
và vĩ mô. Họ cạnh tranh để giành những lợi thế về phía mình, cạnh tranh để
giành giật khách hàng, làm cho khách hàng tự tin rằng sản phẩm của doanh
nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu người tiêu dùng nhất.
Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, kịp thời, nhanh
chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo với mức giá phù
hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát triển.
Để có được năng lực cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển
công tác maketing bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản
xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?. Nghiên cứu thị trường
để doanh nghiệp xác định được nhu cầu thị trường và chỉ sản xuất ra những
gì mà thị trường cần chứ không sản xuất những gì mà doanh nghiệp có. Cạnh
9


tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao
hơn, tiện dụng với người tiêu dùng hơn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải áp
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất kinh doanh,
tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, cử
các cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắng lợi sẽ
tạo cho doanh nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường tăng thêm uy tín
cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh
doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà phát triển mạnh cho nền kinh tế.
Năng lực cạnh tranh Quốc gia là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế
quốc đân và sự có mặt ( hay thiếu vắng) các yếu tố quy định khả năng tăng
trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đó được thực hiện. Ví dụ
điển hình là Nhật bản, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản
trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh mất mựa, thiếu thốn. Vậy mà
đến năm 1968 Nhật bản đó trở thành một nước có nền kinh tế đứng thứ hai

trên thế giới ( sau Mỹ) và được xếp hàng các cường quốc kinh tế lớn nhất, kỷ
lục về sự tăng trưởng kinh tế này là một trong những đỉnh cao để xác định
năng lực cạnh tranh lớn của nền kinh tế Nhật bản. năng lực cạnh tranh được
chia làm 8 nhóm chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các nhóm yếu tố xác
định năng lực cạnh tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:
Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế thế giới bao gồm các yếu tố thuế
quan, hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.
Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trũ và hoạt động của chính
phủ bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, thuế
và mức độ trốn thuế, chính sách tài khoá.
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng
thực hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài
chính đầy đủ và tiết kiệm.

10


Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm năng lực phát triển công
nghệ trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài,
phát triển công nghệ thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.
Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết
cấu hạ tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và
các yếu tố quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trỡnh độ tay
nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả
của các chương trình xã hội , quan hệ lao động trong một ngành.
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể
chế về pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.
Dựa vào các nhóm chỉ số này có thể đánh giá, xem xét để rút ra kết luận về

việc định liệu các chính sách, biện pháp đó được sử dụng ở một Quốc gia có
thực sự nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế không. Chẳng hạn những
năm qua chính phủ Việt Nam đó đưa ra chủ trương khuyến khích phát triển
các loại hình doanh nghiệp hợp tác liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm
học hỏi kinh nghiệm chuyển giao công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Thế
nhưng hiệu quả kinh tế đem lại không lấy gì làm chắc chắn.
Như vậy năng lực cạnh tranh là tổng hợp các yếu tố để xác định vị thế
so sánh tương đối hay tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng phát triển bền vững, ổn
định của doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh
trên cùng một thị trường cạnh tranh xác định trong một khoảng thời gian hoặc
một thời điểm nhất định, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng để thu
được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp.
2.1.1.3 Lợi thế cạnh tranh
Nếu một đơn vị sản xuất kinh doanh có thể tạo ra được nhiều giá trị
hơn cho khách hàng mua sản phẩm dịch vụ của mình thì doanh nghiệp đó đã
có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác.
11


Lợi thế cạnh tranh có thể được biểu hiện và đo được bằng các chỉ tiêu
vừa định lượng vừa định tính
- Các chỉ tiêu định tính
1. Chất lượng sản phẩm, vệ sinh công nghiệp và thực phẩm cao hay thấp là
các chỉ tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn sử dụng
2. Quy mô, khối lượng và sự ổn định của sản phẩm
3. Kiểu dáng mẫu mã của sản phẩm, phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu
dùng trên các thị trường đến mức độ nào
4. Môi trường thương mại, thể hiện mức đôh vàkhả nưng giao dịch cũng như
uy tín trên thị trường
5. Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách thương mại (thuế, tỷ giá,…)

6. Giá thành và giá cả sản phẩm
+ giá thành của sản phẩm biểu hiện những chi phí của csc yếu tố đầu vào
+ giá cả thường biểu hiện trong hoạt động lưu thông và trao đổi
- Chỉ tiêu định lượng
1. Cơ cấu sản phẩm của công ty thể hiện sức cạnh tranhh
2. Sản lượng hàng hoá tiêu thụ trong ngày, tháng, quý, năm. lượng hàng hoá
tiêu thụ hàng ngày nhiều hay ít
3. Số lượng khách hàng tiềm năng, số lượng khách hàng thật.
Lợi thế cạnh tranh xét theo tính chất thương mại còn là nghệ thuật
buôn bán được thể hiện thông qua nội dung mang tính giải pháp về chiến
lược và sách lược của một ngành hàng, một sản phẩm trong quá trình sản
xuất và trao đổi thương mại, chiến lược cạnh tranh suy cho cùng là chinh
phục thê giới khách hàng bằng uy tín, giá cả và chất lượng.
Lợi thế cạnh tranh được duy trì sẽ giúp doanh nghiệp thắng thế trên thị
trường và vượt lên trên các đối thủ.
2.1.1.4 Sản phẩm
Thông thường khi nói về sản phẩm người ta thường nghĩ ngay tới một
hình thức vật chất cụ thể đã và đang tồn tại, được tổng hợp từ các đặc tính vật
12


lý, hoá học, sinh học…nhưng theo quan điểm của Marketing thì sản phẩm là
thứ có khả năng thoả mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng, cống hiến lợi
ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với khả năng thu hút sự
chú ý mua sắm và tiêu dùng, một sản phẩm được cấu tạo và hình thành từ hai
yếu tố: vật chất và phi vật chất.
sản phẩm về lâu dài quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp
Theo quan niệm truyền thống: sản phẩm là tổng hợp các đặc tính vật lý
học, hoá sinh học…có thể quan sát được dùng để thoả mãn những nhu cầu cụ

thể của sản xuất hoặc đời sống.
Theo quan niệm marketing: sản phẩm là thứ có khả năng thoả mãn nhu
cầu mong muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có thể
đưa ra chào bán trên thị trường với khả năng thu hút chú ý mua sắm và tiêu
dùng
Ngày nay người tiêu dùng hiện đại khi mua một sản phẩm không chỉ
chú ý đến các khía cạnh vật chất, mà còn quan tâm đến nhiều khía cạnh phi
vật chất, khía cạnh hữu hình và cả các yếu tố vô hình của sản phẩm đó là:
- Giá trị của sản phẩm: khi khách hàng quyết định mua sắm một loại
sản phẩm cụ thể họ thường kỳ vọng vào những lợi ích do tiêu dùng sản phẩm,
do vậy khi quyết định mua họ buộc phải lựa chọn. điều này liên quan đến giá
trị tiêu dùng của sản phẩm: giá trị tiêu dùng của sản phẩm là sự đánh giá của
khách hàng về khả năng của sản phẩm trong việc thoả mãn nhu cầu của họ.
sản phẩm được nhiều người đánh giá, giá trị cao thì khả năng cạnh tranh của
sản phẩm cũng như bản thân doanh nghiệp se được nâng cao.
- Sản phẩm mới: sản phẩm mới là sản phẩm hoàn toàn chưa có trên thị
trường hoặc sản phẩm đã có nhưng chưa được hoàn thiện hơn nhằm thoả mãn
nhu cầu của người tiêu dùng và thúc đẩy bán hàng, tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp.

13


2.1.1.5 Thị trường
Thị trường là tổng thể các khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu
hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả
mãn nhu cầu và mong muốn đó, thị trường chuyển giao quyền sở hữu sản
phẩm và tiền tệ nhằm thoả mãn yêu cầu của hai bên cung và cầu về một loại
saảnphẩm nhất định từ đó xác định rõ sản lượng và giá cả trao đổi của sản
phẩm.

Trong thị trường điều quan trọng đối với cả cung và cầu là phải hiểu
được nhu cầu và nắm bắt được thông tin thị trường để từ đó cung cấp kịp thời
nhu cầu của thị trường.
Một điều quan trọng trong thị trường đó là cơ chế thị trường đây là
tổng thể các nhân tố (cung, cầu, giá cả thị trường) các quan hệ cơ bản vận
động dưới sự chi phối của quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh
nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Các đặc trưng của cơ chế thị trường bao gồm:
- Các vấn đề có liên quan đến sự phân bố sử dụng các nguồn tài
nguyên sản xuất khan hiếm về cơ bản được quyết định bởi các quy luật kinh
tế thị trường mà cốt lõi là quy luật cung cầu
- Tất cả các mối quan hệ thị trường đều được tiền tệ hoá
- Động lực chính phát triển kinh tế được biểu hiện tập trung ở mức lợi
nhuận thu được.
- Tự chọn phương án sản xuất kinh doanh và tiêu dùng sản phẩm từ hai
phía cung và cầu.
- Cạnh tranh là môi trường, động lực, phương tiện thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển.
- Nhà kinh doanh là nhân vật trung tâm và khách hàng chi phối người
bán trên thị trường
- Có chênh lệch giàu nghèo trong xã hội

14


- Có những khiếm khuyết cần có sự điều tiết của nhà nước (phá hoại
môi trường, khủng hoảng thừa, tệ nạn xã hội…)
- Có xu hướng phát triển kinh tế mang tính hội nhập khu vực và quốc tế.
2.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp

2.1.2.1 Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc yếu tố bên trong doanh
nghiệp. Các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh
doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty. Bởi vậy mà nó được coi là các
yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh của Công ty.
 Khả năng về tài chính.
Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bất cứ hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét
tính toán đến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm
lực lớn về tài chính sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư, trong
mua sắm đổi mới công nghệ và máy móc cũng như có điều kiện để đào tạo và
đói ngộ nhõn sự. Những thuận lợi đó sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được
trình độ chuyên môn tay nghề cho cán bộ, nhân viên, nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ thấp chi phí để nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp nào yếu kém về tài chính sẽ không có điều kiện để mua sắm,
trang trải nợ và như vậy sẽ không tạo được uy tín về khả năng thanh toán và
khả năng đáp ứng những sản phẩm có chất lượng cao đối với khách hàng.
Làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không tiến triển được và có
nguy cơ bị thụt lùi hoặc phá sản. Như vậy khả năng tài chính là yếu tố quan
trọng đầu tiên để doanh nghiệp hình thành và phát triển.
 Nguồn lực và vật chất kỹ thuật
Nguồn lực vật chất kỹ thuật sẽ phản ánh thực lực của doanh nghiệp đối
với thủ cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai thác trong
quá trình hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bởi vì:
15


Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết
bị máy móc, công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định

sẽ được bảo toàn về chất lượng khi đến tay người tiêu dùng. Có hệ thống máy
móc hiện đại sẽ thúc đẩy nhanh qua trình tiêu thụ hàng hoá, tăng nhanh vũng
quay về vốn, giảm bớt được khâu kiểm tra về chất lượng hàng hoá có được
bảo đảm hay không. Nếu xét về công nghệ máy móc có ảnh hưởng đến giá
thành của sản phẩm và như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá bán của doanh nghiệp
thương mại. Ngày nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp đang trở thành cuộc cạnh tranh về
trớ tuệ, về trỡnh độ công nghệ. Công nghệ tiên tiến không những đảm bảo
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ mà cũn cú thể xác
lập tiêu chuẩn mới cho từng ngành sản xuất kỹ thuật. Mặt khác khi mà việc
bảo vệ môi trường như hiện nay đang trở thành một vấn đề của toàn cầu thì
doanh nghiệp nào có trình độ công nghệ cao thiết bị máy móc nhất định sẽ
dành được ưu thế trong cạnh tranh.
 Nguồn nhân lực.
Con người là yếu tố quyết điịnh mọi thành bại của hoạt động kinh doanh.
Bởi vậy, doanh nghiệp phải chú ý việc sử dụng con người phát triển nhân sự,
xây dụng môi trường văn hoá và có nề nếp, tổ chức của doanh nghiệp. Đồng
thời doanh nghiệp phải quan tâm đến các chỉ tiêu rất cơ bản như số lượng lao
động, trình độ nghề nghiệp, năng suất lao động, thu nhập bình quân. năng lực
của cán bộ quản lý.
Con người là yếu tố chủ chốt, là tài sản quan trọng và có giá trị cao nhất
của doanh nghiệp. Bởi chỉ có con người mới có đầu óc và sáng kiến để sáng
tạo ra sản phẩm, chỉ có con người mới biết và khơi dậy được nhu cầu con
người, chỉ có con người mới tạo được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp
mà tất những yếu tố này hình thành nên khả năng cạnh tranh. Vậy muốn nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình doanh nghiệp phải chú ý quan tâm đến tất
16


cả mọi người trong doanh nghiệp, từ những người lao động bậc thấp đến nhà

quản trị cấp cao nhất, bởi mỗi người đều có một vị trí quan trọng trong các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những người lãnh đạo chính là
những người cầm lái con tàu doanh nghiệp, họ là những người đứng mũi chịu
sào trong mỗi bước đi của doanh nghiệp, là những người có quyền lực cao
nhất và trách nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ chính là những
người xác định hướng đi và mục tiêu cho doanh nghiệp, cũng thực hiện quyết
định của họ là những nhân viên dưới quyền.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào chỉ mới có nhà lãnh đạo giỏi vẫn chưa
đủ, vẫn chỉ mới có người ra quyết định mà chưa có người thực hiện những
quyết định đó. Bên cạnh đó phải có một đội ngũ nhân viên giỏi cả về trình độ
và tay nghề, có óc sáng tạo và trách nhiệm và có ý thức trong công việc. Có
như vậy họ mới có thể đưa ra những sản phẩm có chất lượng tốt mang tính
cạnh tranh cao. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước kia ban lãnh
đạo có thể họ không có trình độ chuyên môn cao chỉ cần họ có thâm niêm lâu
năm trong nghề là họ yêú thế đứng ở vị trí lãnh đạo, và đội ngũ nhân viên cần
giỏi về chuyên môn, tay nghề, vẫn có thể tồn tại lâu dài trong doanh nghiệp.
Ngày nay với quy luật đào của nền kinh tế thị trường nếu như nếu ban lãnh
đạo không có độ chuyên môn cao, không có năng lực lãnh đạo trước sau họ
cũng sẽ bị đào thải, sẽ phải rời khỏi vị trí mà họ đang nắm giữ.
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp nào có đội ngũ lãnh đạo giỏi,
tài tình và sáng suốt thì ở đó công nhân viên rất yên tâm để cống hiến hết
mình, họ luôn có cảm giác là doanh nghiệp mình sẽ luôn đứng vững và phát
triển, trách nhiệm và quyền lợi của họ được bảo đảm được nâng đỡ và phát
huy. ở đâu có nhân viên nhiệt tình có trách nhiệm có sự sáng tạo thì có sự
phát triển vững chắc, bởi những quyết định mà ban lãnh đạo đưa ra đó có
người thực hiện. Như vậy để có năng lực cạnh tranh thì những người trong
doanh nghiệp đó phải có ý thức và trách nhiệm và nghĩa vụ về công việc của

17



mình. Muốn vậy khi tuyển dụng đào tạo và đãi ngộ nhân sự là vấn đề quan
trọng, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
2.1.2.2. Các nhân tố khách quan
Là hệ thống toàn bộ các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, có liên quan và
ảnh hưởng đến quá trình tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp.
Các yếu tố khách quan bao gồm:
 Nhà cung cấp
Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm
bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành ổn định theo
kế hoạch đó định trước. Trên thực tế nhà cung cấp thường được phân thành
ba loại chủ yếu: loại cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu, loại cung cấp nhân
công, loại cung cấp tiền và các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm. Như vậy mỗi
doanh nghiệp cùng một lúc có quan hệ với nhiều nguồn cung cấp thuộc cả ba
loại trên. Vấn đề đặt ra là yêu cầu của việc cung cấp phải đầy đủ về số lượng,
kịp thời về thời gian, đảm bảo về chất lượng và ổn định về giá cả. Mỗi sự sai
lệch trong quan hệ với nhà cung cấp đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, điều đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm tính độc quyền và sức ép từ phía các nhà cung cấp, các doanh
nghiệp phải biết tìm đến các nguồn lực tin cậy, ổn định và giá cả hợp lý với
phương châm là đa dạng hoá các nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc
“không bỏ tiền vào một ống”. Mặt khác trong quan hệ này doanh nghiệp nên
tìm cho mình một nhà cung cấp chính có đầy đủ sự tin cậy, nhưng phải luôn
tránh sự lệ thuộc, cần phải xây dựng kế hoạch cung ứng cho mình. Như vậy
doanh nghiệp cần phải thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp để
họ cung cấp đầy đủ về số lượng
 Khách hàng
Khách hàng là những người đang mua và sẽ mua hàng của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp khách hàng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất


18


đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tính chất quyết của khách
hàng thể hiện ở các mặt sau:
Khách hàng quyết định hàng hoá của doanh nghiệp được bán theo giá
nào? Trên thực tế doanh nghiệp chỉ có thể bán với giá mà người tiêu dùng
chấp nhận Khách hàng quyết định doanh nghiệp bán sản phẩm như thế nào?
Phương thức bán hàng và phương thức phục vụ khách hàng do khách hàng
lựa chọn, vì trong nền kinh tế thị trường người mua có quyền lưạ chọn theo ý
thích của mình và đồng quyết định phương thức phục của người bán. Điều
này cho thấy tính chất quyết định của khách hàng làm cho thị trường chuyển
từ thị trường người bán sang thị trường người mua, khách hàng trở thành
thượng đế. Do vậy doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố khách
hàng, khách hàng có thể ganh đua với doanh nghiệp bằng cách yêu cầu chất
lượng sản phẩm cao hơn, hoặc ép giảm giá xuống, mặt khác khách hàng cũn
làm cho cỏc đối thủ cạnh tranh chống chọi lại nhau và dẫn đến làm tổn hao
đến làm tổn hao đến lợi nhuận của doanh nghiệp . Nhóm khách hàng thường
gây áp lực với doanh nghiệp là những nhóm khách hàng tập trung và mua với
khối lượng lớn. Nhóm khách hàng mua đúng tiêu chuẩn phổ biến và không
có gì khác biệt vì họ cú thể tỡm được nhà cung cấp khác một cách dễ dàng
hoặc nhóm khách có đầy dủ thông tin về sản phẩm , giá cả thị trường, giá
thành của nhà cung cấp. Điều này đem lại cho khách một lợi thế mạnh hơn
trong cuộc mặc cả so với trường hợp họ chỉ có ít thông tin.
Bên cạnh đó sự yêu cầu của khách hàng cũng sẽ gây áp lực làm tụt
giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở chỗ nếu
doanh nghiệp không theo đuổi kịp những thay đổi trong nhu cầu của khách
hàng thì họ sẽ có xu hướng chuyển dịch sang những doanh nghiệp khác mà
doanh nghiệp đó có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của họ. Hiện tượng này dẫn
đến lượng khách hàng sẽ giảm đi và ngày một thưa dần nếu doanh nghiệp

không kịp thời đáp ứng nhu cầu của họ. Và như vậy sức cạnh tranh sẽ giảm

19


sút. Điều đó chứng tỏ yếu khách hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại,
vận hành và phát triển của doanh nghiệp.
 Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn
Doanh nghiệp luôn phải đối phó với hàng loạt các đối thủ cạnh tranh. Vấn
đề quan trọng ở đây là không được coi thường bất kỳ đối thủ nào, nhưng
cũng không nên coi đối thủ là kẻ địch. Cách xử lý khôn ngoan nhất không
phải là hướng mũi nhọn vào đối thủ của mình mà ngược lại vừa phải xác
định, điều khiển và hoà giải, lại vừa phải hướng suy nghĩ và sự quan tâm của
mình vào khách hàng có nghĩa là mình đã thành công một phần trong cạnh
tranh. Mặt khác cũng nên quan tâm tới việc dự đoán trong tương lai và định
hướng tới khách hàng. Trên thực tế cho thấy cạnh tranh có thể diễn ra trên
nhiều mặt khác nhau nhưng có thể nói cạnh tranh với nhau chủ yếu là khách
hàng. Vì thế, trong cạnh tranh người được lợi nhất là khách hàng, nhờ có
cạnh tranh mà khách hàng được tôn vinh là thượng đế. Để có và giữ được
khách hàng, doanh nghiệp cần phải tìm cách sản xuất ra những sản phẩm có
chất lượng tốt hơn, đẹp hơn và rẻ hơn, không những thế cần phải chiều lòng
khách hàng lôi kéo khách hàng bằng cách hoạt động quảng cáo khuyến mói
và tiếp thị.
Có thể nói rằng khi doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác mới bắt
đầu bước chân vào thị trường thì họ là những đồng nghiệp, những đối tác để
gây dựng thị trường, để hình thành nên một khu vực cung cấp hàng hóa và
dịch vụ cho khách hàng. Nhưng khi có người khách hàng đầu tiên bước vào
khu vực thị trường này, thì họ sẽ trở thành đối thủ của nhau, họ tìm mọi cách
để lôi kéo khách hàng về phía mình
Trong những thời điểm và những giai đoạn khác nhau thường có những

đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra
khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các doanh
nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao
chất lượng sản phẩm, bổ sung những đặc điểm mới của sản phẩm, không
20


ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt
nổi trội hơn trên thị trường, doanh nghiệp nên đề phũng và lường trước các
đối tác làm ăn, các bạn hàng, bởi vì họ có thể trở thành những đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn.
Nếu ở trong một thị trường kinh doanh nhất định, doanh nghiệp vượt trội
lên các đối thủ về chất lượng sản phẩm, về giá cả và chất lượng phục vụ thỡ
doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh và sẽ có điều kiện để tiến xa hơn so
với các đối thủ
 Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế.
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong các lực lượng tạo nên sức ép
cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp cùng nghành. Sự ra đời của sản
phẩm mới là một tất yếu nhằm đáp ứng biến động của nhu cầu của thị trường
theo hướng ngày càng đa dang, phong phú. Chính nó làm giảm khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế. Các sản phẩm thay thế nó sẽ có ưu
thế hơn và sẽ dần thu hẹp thị trường của sản phẩm thay thế. Để khắc phục
tình trạng thị trường bị thu hẹp các doanh nghiệp phải luôn hướng tới những
sản mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mới hay nói cách khác
doanh nghiệp phải luôn hướng tới khách hàng để tìm độ thoả dụng mới.
2.1.3 Vai trò, ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, cạnh tranh là một quy luật
khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là một nội dung trong cơ chế vận
hành của thị trường. sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá dịch vụ bán

ra càng nhiều, số lượng người cung cấp càng nhiều thì khả năng cạnh tranh
ngày càng gay gắt, nhưng cũng chính nhờ sự cạnh tranh mà nền kinh tế thị
trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trong con đường phát
triển. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh trở thành một quy luật quan
trọng thúc đẩy sự phát triển. mọi doanh nghiệp đều phải tự mình vận động để
21


đứng vững trong cơ chế thị trường. cơ chế thị trường mở đường cho doanh
nghiệp nào biết nắm thời cơ, biết phát huy tối đa thế mạnh của mình và hạn
chế tối thiểu những bất lợi để giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Cạnh tranh là một điều kiện và là một yếu tố kích thích kinh doanh.
Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, sản xuất hàng
hóa ngày càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra nhiều, số lượng người cung
ứng ngày càng nhiều thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là
loại bỏ những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và
ngược lại nó thúc đẩy những Công ty làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao.
Do vậy, muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm
mọi cách nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu
cầu khách hàng. Các doanh nghiệp cần phải tìm mọi biện pháp để đáp ứng
nhu cầu thị hiếu của người tiêu dựng như sản xuất ra nhiều loại hàng hóa có
chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù hợp với mức
thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như vậy hàng hóa của doanh
nghiệp bán ra mới ngày một nhiều, tạo được lòng tin đối với khách hàng.
Muốn tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp cần phải phát huy hết ưu
thế của mình, tạo ra những điểm khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh từ đó
doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại, phát triển và thu được lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh luôn là
mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách hàng là
người tự do lựa chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết định

cho doanh nghiệp có tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến doanh nghiệp
như trước đây nữa và họ cũng không phải mất thời gian chờ đợi để mua hàng
hoá dịch vụ, mà đối ngược lại trong nền kinh tế thị trường khách hàng được
coi là thượng đế, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm đến
khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải
có những chương trình giới thiệu truyền bỏ và quảng cáo sản phẩm của mình
để người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh giá và quyết định có
22


nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay không?. Ngày nay việc chào
mời để khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình đó là vấn đề khó khăn nhưng
việc giữ lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vậy mà doanh
nghiệp nên có những dịch vụ cả trước khi bán, trong khi bán và dịch vụ sau
khi bán hàng hoá cho khách hàng để những khách hàng đó là những khách
hàng truyền thống của doanh nghiệp, chính họ là những nhân tố quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Thách thức hàng đầu khi hội nhập kinh tế quốc tế là tính cạnh tranh
ngày càng khốc liệt trên cả thị trường trong nước và xuất khẩu do các hàng
rào thuế quan bảo hộ, các chính sách ưu đãi đang dần bị loại bỏ. Vì vậy,
doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế phải không ngừng lớn lên để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng cường năng lực cạnh tranh.
2.1.4 Nội dung đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
 Vốn của doanh nghiệp chính là năng lực tài chính của doanh nghiệp.
tài chính của doanh nghiệp phải luôn xác định đúng nhu cầu vốn cần thiết về
mặt số lượng, thời gian, cân nhắc lựa chọn các nguồn vốn huy động sao cho
thích hợp và có hiều quả. tình hình vốn tài chính của doanh nghiệp thể hiện
qua một số chỉ tiêu như:
+ Khả năng thanh toán hiện thời =


TS lưu động
Nợ ngắn hạn

Doanh thu thuần
+ Số vòng quay tài sản =

Tổng tài sản

Tổng số nợ
+ tỷ số nợ so với tổng tài sản =

Tổng số tài sản

* 100%

Tổng số nợ
+ Tỷ số nợ so với vốn chủ sở hữu =

23

Vốn chủ sở hữu

* 100%


 Hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu
Nghiên cứu thị trường là quá trình nghiên cứu, phân tích giới tiêu dùng, chia
khách hàng thành các nhóm khác nhau.
Lựa chọn thị trường mục tiêu là lựa chọn thị trường bao gồm nhóm khách
hàng có cùng nhu cầu mong muốn hoặc yêu cầu mà doanh nghiệp có khả năng

đáp ứng, đồng thời có thể tạo ra ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh.
 Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là phương thức nhằm đảm
bảo sự thành công của doanh nghiệp, để nâng cao năng lực cạnh tranh cần áp
dụng nhiều chiến lược khách nhau như: chiến lược sản phẩm, chiến lược
phân phối, chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh.
 Năng lực quản lý và điều hành
Quản lý và điều hành là một công việc hàng ngày của người lãnh đạo
doanh nghiệp đối với tập thể lao động trong doanh nghiệp, là công việc xây
dựng những bộ phận được điều động, điều phối để chỉ đạo công việc về mặt
kinh tế và kỹ thuật một cách thuận lợi nhất.
Nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới
 Sản phẩm mới là vấn đề sống còn trong sự phát triển và cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường. không có một doanh nghiệp nào có thể tồn tại
mà không có sản phẩm mới. Tuy nhiên phát triển sản phẩm mới là vấn đề
mạo hiểm, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng đó cũng là con đường duy nhất để
doanh nghịêp thành công và đứng vững trên thị trường.
 Trình độ công nghệ thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
bằng giá cả. với trang thiết bị máy móc và công nghệ mới, tiên tiến doanh
nghiệp sẽ tận dụng được các nguồn lực và đưa ra thị trường được các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh về giá. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo
ra chất lượng sản phẩm thấp và không ổn định làm doanh nghiệp lhó lhăn
trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
24


 Nguồn nhân lực của doanh nghiệp: lao động là một lợi thế cạnh tranh
khi doanh nghiệp có nguồn lao động chất lượng và chi phí rẻ.
Tất cả những nội dung trên tạo ra năng lực cạnh tranh cho một doanh
nghiệp và đảm bảo cho năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường thì

doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao được các nội dung trên.
2.1.5 Khái quát chung về thức ăn chăn nuôi
- Định nghĩa thức ăn chăn nuôi: là loại thức ăn có hàm lượng ding dưỡng để
nuôi sống vật nuôi do con người tạo ra.
- Đặc điểm thức ăn chăn nuôi:
Thức ăn chăn nuôi là loại thức ăn dinh dưỡng nhưng người chăn nuôi
quan tâm đến các chỉ tiêu quan trọng như: năng lượng, đạm, canxi, phốt pho,
các vitamin và khoáng vi lượng. ataron đó năng lượng bao gồm: nhiệt năng
và cơ năng.
+ Nhiệt năng sinh ra giúp cơ thể chống lại giá lạnh của môi trường.
+ Cơ năng giúp cơ thể hoạt động ( từ nhịp đập của tim, sự co bóp dạ dày, các
hoạt động của chi…) Nếu thức ăn cung cấp thiếu năng lượng co vật sẽ chống
chịu bệnh tật và yếu tố môi trường( nóng lạnh…) kém và sẽ ốm yếu. Nếu
thức ăn cung cấp thừa năng lượng con vật sẽ ít đi lại do nó đã nạp đủ năng
luợng sẽ không ăn thúc ăn khác nữa do đó thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết
dẫn đén con vật sẽ trở nên nhiều mỡ, nhỏ con( năng lượng thừa sẽ chuyển
thành mỡ dự trữ) điều bất lợi là có thể biến đạm thành mỡ và sản phẩm kém
giá trị.
+ Đạm ( protit ): là một chất dinh dưỡng quan trọng vì nó tham gia chính tạo
ra cơ thể. Nó tạo ra thịt và máu đến kháng thể cao thì con vật mới có khả
năng kháng bệnh tốt. Đạm được tạo bởi một đơn vị đạm hay một chuỗi được
tạo bởi ít hay nhiều acidamine( có 21 loại) và kết cấu lại theo tỷ lệ nhất định
đặc trưng cho từng loại mô và di chuyển giống loài.
+ Canxi(C), phốt pho (P): cơ thể có 4% là khoáng nhưng chủ yếu là C và P
( xương có 99% C, P). Các khoáng khác chiếm tỷ lệ nhỏ gọi là khoáng vi
25


×