LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là khóa luận tốt nghiệp do tôi nỗ lực nghiên cứu
trong quá trình thực tập vừa qua. Các số liệu trong khóa luận là số liệu do tôi
trực tiếp điều tra và thu thập. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài của
mình nếu có vấn đề gì xảy ra.
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2010
SV thực hiện
Tạ Thị Duyên
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp,
tôi nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của tôi đến tất cả các cá nhân và tập
thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập và thực tập tốt nghiệp.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy
giáo Th.S. Lê Khắc Bộ, người đã trực tiếp và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực tập tốt nghiệp và hoàn thành bài khóa luận này.
Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy, cô giáo trong khoa Kinh
tế và Phát triển Nông thôn cùng toàn thể các thầy cô giáo đã trực tiếp tham
gia giảng dạy, tận tình giúp đỡ tôi trong bốn năm học vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, tập thể cán bộ công nhân
viên trong Công ty CP Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội Chi nhánh Hà Tây đã
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc thu thập số liệu và những thông tin cần thiết
cho việc nghiên cứu đề tài.
Qua đây, tôi cũng gửi đến gia đình, bạn bè, những người thân đã động
viên tôi về tinh thần và vật chất trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện đề tài lời cảm ơn chân thành nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Tạ Thị Duyên
ii
TÓM TẮT
Cùng với sự phát triển chung đời sống xã hội, các nhu cầu của con
người ngày càng được đáp ứng ở mức độ cao hơn, tốt hơn. Xây dựng vì thế
ngày càng được chú trọng phát triển bởi nó đáp ứng nhu cầu “ở” của con
người. Sự biến động mạnh mẽ của thị trường nguyên vật liệu làm giá thành
xây dựng khó dự toán, sự xuống cấp của nhiều công trình xây dựng làm người
dân nghi ngờ chất lượng sản phẩm ngành xây dựng... Điều đó đặt ra về vấn đề
quản lý nguyên vật liệu xây dựng thế nào để giá thành xây dựng giảm mà vẫn
đảm bảo chất lượng công trình là mối quan tâm của các đơn vị xây dựng. Để
hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý nguyên vật liệu xây dựng tại công ty cổ phần
xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội chi nhánh Hà Tây”.
Để thực hiện được mục tiêu trên, phương pháp nghiên cứu chúng tôi
chọn phương pháp mô tả phản ánh thực trạng; phương pháp so sánh số liệu
thời gian, phân tích số tương quan, hỏi ý kiến các chuyên gia, những người có
nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này để đánh giá tình hình quản lý và sử dụng
nguyên vật liệu của Chi Nhánh, qua đó xác định các yếu tố ảnh hưởng đồng
thời đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nguyên vật liệu xây
dựng cho Công ty.
Qua thực tế tìm hiểu quá trình quản lý nguyên vật liệu xây dựng tại Chi
nhánh cho thấy công việc này được quản lý thống nhất thông qua nhiều phòng
ban. Xây dựng định mức nguyên vật liệu do phòng kỹ thuật thi công đảm
nhiệm dựa trên những quy định của bộ xây dựng. Sau khi định nguyên vật
liệu phòng kỹ thuật vật tư lập kế hoạch thu mua nguyên vật liệu, do nhiều lý
do khách quan và chủ quan, khâu này Chi nhánh thực hiện chưa thực sự chính
xác. Nguyên vật liệu được thu mua về và quản lý chặt chẽ tại kho kể cả về số
lượng và chất lượng trong mỗi lần xuất nhập kho, tuy nhiên hệ thống kho
chứa của Chi nhánh đáp ứng chưa đầy đủ nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu. Khi
iii
có nhu cầu sử dụng, bộ phận sử dụng sẽ xin cấp nguyên vật liệu, quá trình sử
dụng nguyên vật liệu được theo dõi chặt chẽ để tránh thất thoát, hư hỏng. Tuy
nhiên, Chi nhánh chưa chú trọng đến việc thu hồi phế liệu nên quá trình quản
lý, sử dụng của Chi nhánh chưa tiết kiệm triệt để.
Qua đó rút ra nhận xét, quá trình quản lý và sử dụng nguyên vật liệu
xây dựng của chi nhánh tuy còn một số khâu chưa thực sự hiệu quả như khâu
lập kế hoạch, khâu bảo quản nguyên vật liệu trong kho... Tuy nhiên, quá trình
quản lý này cũng đáp ứng khá đầy đủ nguyên vật liệu cho thi công. Điều này
được thể hiện: Về số lượng, nguyên vật liệu được cung cấp đầy đủ cho nhu
cầu thi công, tuy có những trường hợp số lượng nguyên vật liệu không đáp
ứng kịp thời ngay nhưng đã có những biện pháp khắc phục kịp thời. Tình
đồng bộ trong quản lý cung cấp nguyên vật liệu cũng được thực hiện tốt, do
đó ít gây ảnh hưởng xấu đến tiến độ thi công. Chất lượng nguyên vật liệu cho
thi công về cơ bản được đảm bảo, một số ít trường hợp do thiếu nguyên vật
liệu tại kho nên thay thế bằng các nguyên vật liệu tương đương, gây ảnh
hưởng không đáng kể đến chất lượng công trình.
Việc quản lý nguyên vật liệu xây dựng tại Chi nhánh phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Các yếu tố bên ngoài như chính sách của Nhà nước, thị trường,
thời tiết khí hậu, khoa học công nghệ... Các yếu tố bên trong như nguồn nhân
lực, vốn... các yếu tố này có thể gây tác động tiêu cực và tác động tích cực
cho quản lý nguyên vật liệu của Chi nhánh.
Qua tìm hiểu thực trạng, phân tích và đánh giá tình hình quản lý
nguyên vật liệu tại Chi nhánh, chúng tôi đưa ra một sô giải pháp nhằm nâng
cao hiểu quả quản lý nguyên vật liệu xây dựng cho chi nhánh như không
ngừng nâng cao nguồn nhân lực cả về trình độ, lòng yêu nghề, gắn bó với
công ty...; hoàn thiện về tổ chức, giảm những thủ tục rờm rà không cần thiết;
không ngừng mở rộng vốn để chủ động trong thu mua và dự trữ nguyên vật
liệu, nâng cao hệ thống kho chứa, thu gom phế liệu...
iv
MỤC LUC
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BH: Bán hàng
BQ: Bình quân
CC: Cơ cấu
CCDV: Cung cấp dịch vụ
DT: Doanh thu
ĐG: Đơn giá
ĐVT: Đơn vị tính
GT: Giá trị
NVL: Nguyên vật liệu
HĐKD: Hoạt động kinh doanh
LN: Lợi nhuận
SL: Số lượng
TNND: Thu nhập doanh nghiệp
VNĐ: Việt Nam đồng
viii
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau hơn 20 năm đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, ngành xây
dựng đã có bước phát triển nhanh chóng. Với mục tiêu đô thị hóa đất nước,
các tòa nhà cao tầng, các khu công nghiệp liên tiếp mọc lên, các doanh nghiệp
xây dựng ngày càng phát triển, tạo môi trường cạnh tranh mạnh mẽ. Thị
trường xây dựng cạnh tranh tiến độ thi công, thời gian hoàn thành công trình,
giá thành công trình, chất lượng công trình, công nghệ ứng dụng trong thi
công, v.v... Các vấn đề này chịu tác động lớn bởi nguồn tài nguyên và trình độ
quản lý.
Những năm gần đây, cho thấy giá cả của một các loại nguyên vật liệu
xây dựng thực tế đều tăng. Cấu thành của chi phí nguyên vật liệu trong tổng
giá trị dự toán chiếm khoảng 60 - 80%. Do vậy, các công trình đến cuối năm
bắt buộc phải điều chỉnh dự toán xây dựng. Điều này đặt ra cho mỗi doanh
nghiệp xây dựng đều phải có giải pháp quản lý nguyên vật liệu không chỉ đảm
bảo cung cấp kịp thời, đáp ứng tiến độ thi công mà cần phải có kế hoạch dự
trữ sử dụng hiệu quả tài sản vốn lưu động.
Cũng trong môi trường khốc liệt về thị trường nguyên vật liệu xây
dựng, công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội đã từng bước khẳng
định không chỉ trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, sản xuất công nghiệp –
thương mại – dịch vụ, giáo dục công nghệ thông tin mà còn phát triển mạnh
thị trường bất động sản. Với khả năng và thực lực của mình, hiện nay, các dự
án bất động sản của công ty tập trung chủ yếu vào phát triển khu đô thị cao
cấp, trung tâm thương mại – văn phòng cao cấp, khu nghỉ dưỡng cao cấp, sân
golf và các dự án lớn khác luôn phải chủ động quản lý nguyên vật liệu xây
dựng. Vì vậy, quản lý nguyên vật liệu xây dựng cần phải thực hiện có hiệu
quả cao ở từng chi nhánh của công ty. Xuất phát từ điều này chúng tôi lựa
1
chọn đề tài: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguyên vật
liệu xây dựng tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội chi
nhánh Hà Tây”. Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa khoa học, mang cả tính lý
luận và tính thực tiễn cho công ty; đồng thời đây cũng là tài liệu bổ ích cho sự
tham khảo sau này về vấn đề quản lý nguyên vật liệu xây dựng.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở khảo sát thực trạng và đánh giá công tác quản lý nguyên vật
liệu xây dựng tại chi nhánh Hà Tây, từ đó đề suất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nguyên vật liệu xây dựng cho công ty cổ phần xuất nhập
khẩu tổng hợp Hà Nội.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn các vấn đề về
nguyên vật liệu và quản lý nguyên vật liệu;
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý nguyên vật liệu xây dựng tại chi
nhánh Hà Tây của công ty;
- Đánh giá kết quả và hiệu quả quản lý nguyên vật liệu xây dựng tại chi
nhánh Hà Tây của công ty trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh
vực quản lý nguyên vật liệu xây dựng;
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nguyên vật liệu xây dựng cho Công ty.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Các loại NVL xây dựng chính được chi nhánh Hà Tây quản lý;
- Công tác quản lý quản lý NVL xây dựng tại chi nhánh Hà Tây của
công ty;
2
- Tình hình sử dụng NVL xây dựng tại chi nhánh Hà Tây của Công ty.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung:
Đề tài tập trung vào việc xây dựng định mức sử dụng, tiêu hao nguyên
vật liệu; lập kế hoạch thu mua sử dụng, dự trữ nguyên vật liệu; tổ chức theo
dõi trong quản lý nguyên vật liệu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công
tác quản lý nguyên vật liệu; hiệu quả quản lý nguyên vật liệu.
Phạm vi về không gian:
Đề tài khảo sát công tác quản lý nguyên vật liệu ở chi nhánh Hà Tây
của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội, tài liệu được thu thập
chủ yếu ở phòng kế toán, phòng kế hoạch vật tư, các kho chứa NVL, các đội
thi công công trình v.v….
Phạm vi về thời gian:
+ Đề tài được thực hiện từ ngày 23/12/2009 đến ngày 26/5/2010.
+ Nguồn tài liệu được thu thập từ năm 2007 đến nay nhằm phản ánh sự
biến động của nguyên vật liệu theo xu hướng và theo tính thời vụ có sự kế
hợp tính bất thường.
3
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI TIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Một số khái niệm
Nguyên vật liệu
Khi nói đến nguyên vật liệu một cụm từ khác cũng rất hay được nhắc
đến là “vật liệu”, thực tế có rất nhiều quan điểm về hai khái niệm này. Có
người cho rằng hai khái niệm này là hoàn toàn tương đương, có người lại cho
rằng vật liệu là một phần của nguyên liệu. Tuy nhiên, có thể hiểu đơn giản hai
khái niệm này:
+ Vật liệu là chất hoặc hợp chất được được con người dùng để làm ra
những sản phẩm khác. Vật liệu là đầu vào trong một quá trình sản xuất hoặc
chế tạo. Trong công nghiệp, vật liệu là những sản phẩm chưa hoàn thiện và
thường được dùng để làm ra các sản phẩm cao cấp hơn.
+ Nguyên vật liệu là đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật
hóa, là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình lao sản xuất kinh doanh. Nó
là thành phần chủ yếu cấu tạo lên thành phẩm, là đầu vào của quá trình sản
xuất và thường gắn liền với các doanh nghiệp sản xuất. NVL là tư liệu lao
động thuộc nhóm hàng tồn kho, được mua sắm từ nguồn vốn lưu động để
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Có thể nói vật liệu và nguyên vật liệu hay còn gọi là vật tư đều là đối
tượng lao động.
Trong ngành xây dựng, với những đặc thù riêng, vật tư xây dựng là các
nguyên vật liệu đầu vào (không bao gồm máy móc, thiết bị công nghệ và vật
tư sản xuất) để xây dựng các công trình hình thành tài sản của các doanh
nghiệp theo Giấy phép đầu tư, Dự án đầu tư hoặc báo cáo đầu tư quy định tại
Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 và Nghị định 52/1999/NĐ-CP
ngày 08/7/1999 của Chính phủ.
4
Nguyên vật liệu phục vụ cho công trình xây dựng rất phong phú, đa
dạng (thiết bị xây dựng cơ bản, NVL luân chuyển…) với hàng trăm chủng
loại khác nhau từ đơn giản đến phức tạp. Mặc khác, chi phí NVL thường
xuyên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm từ
60% - 70%. Vì vậy, quản lý NVL tương đối phức tạp, khối lượng công việc
lớn và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Định mức nguyên vật liệu
Định mức sử dụng nguyên vật liệu: là định mức thực tế sử dụng nguyên
vật liệu để sản xuất, bao gồm cả phần tỷ lệ phế liệu, phế phẩm nằm trong định
mức tiêu hao thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Đối với nguyên liệu cấu thành sản phẩm hoặc chuyển hoá thành sản
phẩm: định mức nguyên liệu là lượng nguyên liệu cấu thành một đơn vị sản
phẩm hoặc chuyển hoá thành một đơn vị sản phẩm; tỷ lệ hao hụt là lượng
nguyên liệu hao hụt (bao gồm cả phần tạo thành phế liệu, phế phẩm) tính theo
tỷ lệ % so với nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm hoặc chuyển hoá thành sản
phẩm.
Đối với nguyên liệu, vật tư tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất
nhưng không cấu thành sản phẩm hoặc chuyển hoá thành sản phẩm: định mức
nguyên liệu, vật tư là lượng nguyên liệu, vật tư tiêu hao trong quá trình sản
xuất ra một đơn vị sản phẩm; tỷ lệ hao hụt là lượng nguyên liệu, vật tư hao
hụt tính theo tỷ lệ % so với lượng nguyên liệu, vật tư tiêu hao trong quá trình
sản xuất.
Trong ngành xây dựng, định mức vật tư là định mức kinh tế kinh thuật
thể hiện về mức hao phí từng loại vật liệu để cấu thành nên một đơn vị khối
lượng công tác xây lắp (1 m3 tường xây gạch, 1 m2 lát gạch…) hoặc một loại
cấu kiện hay kết cấu xây dựng (một bộ vì kèo, một kết cấu vì chống lò…) phù
hợp với yêu cầu kỹ thuật, thiết kế và thi công.
5
Định mức vật tư được lập trên cơ sở các quy chuẩn xây dựng quy phạm
thiết kế, thi công, nghiệm thu và kết quả áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ xây dựng, công nghệ vật liệu xây dựng. Định mức tiêu hao khâu
thi công bao gồm hao hụt vận chuyển thi công và hao hụt vật liệu lúc thi
công. Hao hụt vật liệu được tính bằng tỷ lệ % so với khối lượng gốc.
Quản lý
Quản lý là một loại hình hoạt động xã hội quan trọng của con người
trong cộng đồng nhằm tổ chức thực hiện thiện được mục tiêu mà con người
hoặc xã hội đặt ra. Hoạt động này thường được thể hiện qua tác động qua lại
giữa người lãnh đạo, quản lý và cá nhận tập thể dưới quyền, chịu sự lãnh đạo
quản lý. Quản lý vừa mang tính chất khoa học vừa mang tính chất nghệ thuật,
phải gắn liền với một tổ chức, một mục tiêu nào đó.
Quản lý là một khoa học vì trong quá trình quản lý thường phải giải
quyết đồng bộ bốn khâu:
+ Ra quyết định;
+ Xác định mục tiêu, đề ra các chương trình kế hoạch;
+ Xây dựng tổ chức cơ chế huy động;
+ Sử dụng các nguồn lực như con người, tài chính (tài lực), vật tư (đất
đai, phương tiện, trang thiết bị…), thông tin (công nghệ thông tin trong nền
văn minh trí tuệ…).
Để thực hiện quyết định, chỉ đạo đôn đốc, giám sát thực hiện của các
cấp, các tổ chức khi thi hành quyết định, kiểm tra, đánh giá, tổng kết các kết
quả hoạt động so với mục tiêu đề ra trong quyết định. Khoa học quản lý đi sâu
nghiên cứu nhằm giúp người cán bộ quản lý lãnh đạo, quản lý giải quyết tốt
các bước trong từng khâu thuộc quá trình quản lý này.
Quản lý là một nghệ thuật vì quá trình quản lý liên quan chặt chẽ tới
con người, tới cá nhân, tới cộng đồng… Tâm lý học quản lý sẽ đi sâu nghiên
cứu nhằm giúp người lãnh đạo quản lý có nghệ thuật, tập hợp mọi người có
6
liên quan, bao gồm cấp trên, cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp những người có tổ
chức và ngoài tổ chức (kể cả trong nước và nước ngoài); tạo được sự phân
công, hợp tác thích hợp, tối ưu giữa cá nhân và tập thể, các lực lượng xã hội
nhằm thực hiện các kết quả, các quyết định (mục tiêu, chương trình, kế
hoạch) đã vạch ra. Nghệ thuật quản lý đòi hỏi sâu sắc về con người, về đối
nhân xử thế. Điều đó đòi hỏi người quản lý phải có vốn sống cần thiết của con
người. Cái khó trong nghệ thuật quản lý là ở chỗ phải điều hòa các mối quan
hệ giữa lợi ích chung trong mục đích tổng thể mà người quản lý đang hướng
tới, với lợi ích cá nhân của nhà lãnh đạo, quản lý.
Quản lý dưới góc độ kinh tế trong xây dựng là sự tác động liên tục, có
hướng tích cực trong nền kinh tế xây dựng bằng một hệ thống các biện pháp
kinh tế xã hội, tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác.
Từ đó, có thể hiểu công tác quản lý nguyên vật liệu xây dựng chính là
quá trình tác động liên tục, có hướng tích cực đến toàn bộ quá trình cung ứng,
sử dụng nguyên vật liệu xây dựng nhằm nâng cao hiệu quả.
2.1.2 Phân loại nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu liên quan trực tiếp tới kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, là đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là
một yếu tố trực tiếp cấu thành thực thể của sản phẩm, do vậy chất lượng của
nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được đảm bảo đầy đủ về số lượng, chất lượng,
chủng loại… có tác động rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, đảm bảo
chất lượng NVL cho sản xuất còn là một biện pháp để nâng cao chất lượng
sản phẩm.
Cung ứng nguyên vật liệu kịp thời với giá cả hợp lý sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Xét cả
về mặt hiện vật lẫn mặt giá trị, NVL là một trong những yếu tố không thể
thiếu trong bất kỳ quá trình sản xuất kinh doanh nào, là một bộ phận quan
7
trọng của tài sản lưu động. Chính vì vậy, quản lý nguyên vật liệu chính là
quản lý vốn sản xuất kinh doanh và tài sản của doanh nghiệp.
Để quản lý từng loại NVL phục vụ công tác quản trị doanh nghiệp cần
thiết phải phân loại NVL. Trong đó căn cứ được áp dụng nhiều nhất là nội
dung kinh tế và yêu cầu kế toán quản trị, theo đó NVL được chia thành:
Nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật
liệu và thiết bị xây dựng cơ bản.
+ Nguyên vật liệu chính là những loại nguyên vật liệu và vật liệu khi
tham gia vào quá trình sản xuất thì cấu thành thực thể vật chất, thực thể chính
của sản phẩm. Vì vậy, khái niệm về NVL chính gắn liền với từng doanh
nghiệp sản xuất cụ thể khác nhau. NVL chính trong công ty xây dựng thường
bao gồm: xi măng, sắt, thép, gạch... NVL chính cũng bao gồm cả bán sản
phẩm mua ngoài là những chi tiết, bộ phận sản phẩm do đơn vị khác sản xuất
ra mà doanh nghiệp mua về để lắp ráp, gia công chế biến thành sản phẩm của
doanh nghiệp.
+ Nguyên vật liệu phụ là những loại nguyên vật liệu khi tham gia và
quá trình sản xuất không cấu thành thực thể chính của sản phẩm mà chỉ hỗ trợ
và kết hợp với NVL chính để hoàn thiện và nâng cao tính năng, chất lượng
của sản phẩm, làm hay đổi màu sắc bề ngoài của sản phẩm, hoặc nó tạo ra
điều kiện cho quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm được thực hiện bình thường
hoặc phục vụ cho nhu cầu công nghệ, kỹ thuật, bảo quản đóng gói, phục vụ
cho quá trình lao động. Ở những xí nghiệp xây dựng NVL thường là vôi, sơn,
ốc vít, đinh…
+ Nhiên liệu là những NVL có tác dụng cung cấp nhiệt lượng trong quá
trình sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh
diễn ra bình thường. Về thực chất nhiên liệu cũng là một loại NVL phụ nhưng
do có tính chất lý hóa đặc biệt và vai trò quan trọng trong sản xuất nên được
8
xếp thành một loại riêng để có chế độ bảo quản sử dụng hợp lý. Nhiên liệu có
thể tồn tại ở thể rắn, lỏng, khí như than, xăng, dầu, hơi đốt….
+ Phụ tùng thay thế, sửa chữa là những chi tiết, phụ tùng dùng để sửa
chữa hoặc thay thế cho máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải như vòng bi,
vòng đệm…
+ Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản là các loại vật liệu, thiết bị mua
nhằm mục đích đầu tư cho xây dựng cơ bản. Đối với thiết bị xây dựng cơ bản
bao gồm cả thiết bị cần lắp, không cần lắp, công cụ, khí cụ và vật kết cấu
dùng để lắp đặp vào công trình xây dựng cơ bản.
Ngoài ra, nguyên vật liệu còn được phân loại theo căn cứ nguồn cung
ứng gồm 3 loại:
+ Nguyên vật liệu do đơn vị tự sản xuất là nguyên vật liệu doanh
nghiệp tự tạo ra để phục vụ cho nhu cầu sản xuất;
+ Nguyên vật liệu mua ngoài là loại nguyên vật liệu doanh nghiệp
không tự sản xuất mà do mua ngoài từ thị trường trong nước hoặc nhập khẩu;
+ Nguyên vật liệu khác là loại nguyên vật liệu hình thành do được cấp
phát, biếu tặng, góp vốn liên doanh…
Hay phân loại theo căn cứ mục đích sử dụng, NVL được chia thành:
+ Nguyên vật liệu trực tiếp là nguyên vật liệu dùng cho sản xuất, chế
tạo sản phẩm;
+ Nguyên vật liệu dùng cho các nhu cầu khác như quản lý phân xưởng,
quản lý doanh nghiệp, bộ phận bán hàng.
2.1.3 Chức năng của quản lý nguyên vật liệu
Chức năng quản lý được thể hiện như là một tập hợp nhiệm vụ hoạt
động và tính chất của nó trong quản lý. Quá trình quản lý là một chu kỳ khép
kín và lặp đi lặp lại. Quá trình này được đặt trong một môi trường nhất định.
Trong quá trình quản lý có thể chia thành nhiều chức năng khác nhau nhưng
9
có thể chia ra các chức năng quản lý chủ yếu là chức năng hoạch định, chức
năng tổ chức, chức năng bố trí nhân sự, chức năng lãnh đạo điều hành.
- Chức năng hoạch định: là tiến trình nghiên cứu quá khứ để ra quyết
định trong hiện tại về những việc phải làm trong tương lai như: Xây dựng các
chiến lược, các kế hoạch…
- Chức năng tổ chức: là tiến trình thiết lập cơ cấu tổ chức phù hợp với
các mục tiêu, nguồn lực và các yêu tố ngoại vi của doanh nghiệp.
- Chức năng bố trí nhân sự: là tiến trình tìm người phù hợp để giao phó
một chức vụ hay một cương vị nào đó.
- Chức năng lãnh đạo điều hành: là tiến trình điều khiển và tác động lên
người khác để thúc đẩy họ hoặc để họ tự nguyện làm tốt công việc được giao
nhằm hoàn thành các mục tiêu đã định.
Trong sản xuất – kinh doanh xây dựng, nguyên vật liệu xây dựng có vai
trò quan trọng bởi:
- Chi phí nguyên vật liệu xây dựng chiếm 60% - 70% giá thành xây lắp.
- Khối lượng NVL trong xây dựng cũng lớn hơn nhiều so với các
ngành khác.
- Việc kéo dài thời gian xây dựng chủ yếu là do cung ứng NVL không
kịp thời, không đồng bộ và không đảm bảo về số lượng, chất lượng.
Do đó, trong quản lý nguyên vật liệu xây dựng, chức năng và nhiệm vụ
của công tác quản lý là đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu đầy đủ về số lượng,
đồng bộ về chủng loại và chất lượng, kịp thời về thời gian và đảm bảo chi phí
hợp lý nhất.
Như vậy, quản lý NVL là một trong những vấn đề quan trọng và cần
được quan tâm trong quản lý doanh nghiệp nói chung và quản lý vật tư nói
riêng của doanh nghiệp. Để quản lý NVL tốt và có hiệu quả doanh nghiệp
phải biết lập kế hoạch trong thu mua, dự toán được mức sử dụng NVL trong
sản xuất đơn vị sản phẩm, phải có kế hoạch thực hiện và sử dụng NVL hiệu
10
quả cả về số lượng và chất lượng đồng thời phải kiểm soát được tình hình
cung ứng vật tư ra mỗi công trường cũng như quá trình thực hiện và sử dụng
NVL của cả công ty.
2.1.4 Nội dung quản lý nguyên vật liệu
Việc quản lý và sử dụng NVL là cần thiết và khách quan của mọi nền
sản xuất xã hội. Tuy nhiên, do trình độ khác nhau nên phạm vị, mức độ và
phương pháp quản lý NVL cũng nhau. Việc quản lý NVL phụ thuộc rất nhiều
yếu tố và sự kết hợp của rất nhiều phòng ban, bộ phận trong doanh nghiệp. Để
quản lý NVL hiệu quả phải xem xét trên tất cả các khâu từ lập kết hoạch,
cung ứng, sử dụng đến bảo quản dự trữ NVL.
Xây dựng định
mức tiêu hao NVL
Lập kế hoạch thu mua,
sử dụng, dự trữ NVL
Tổ chức thực hiện thu mua,
nhập xuất, dự trữ NVL
Đánh giá tình hình quản
lý, sử dụng NVL
Tổ chức ghi chép, theo
dõi NVL
Sơ đồ 2.1: Quá trình quản lý nguyên vật liệu
2.1.4.1 Xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu
Định mức tiêu hao NVL trong sản xuất công nghiệp hiện đại là một yêu
cầu khách quan để quản lý sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Xây
dựng định mức tiêu hao NVL góp phần quan trọng để sử dụng hợp lý NVL.
Mặt khác nó còn là một căn cứ để đảm bảo lập và thực hiện kế hoạch về NVL
cho doanh nghiệp.
Có bốn phương pháp xây dựng định mức tiêu hao NVL:
11
- Phương pháp thống kê: dựa vào số liệu thống kê về mức tiêu dùng
NVL cho một đơn vị sản phẩm của những năm trước để xác định định mức
tiêu hao cho năm sau.
- Phương pháp thử nghiệm – thí nghiệm: là việc xác định mức tiêu hao
NVL cho một đơn vị sản phẩm trong điều kiện của phòng thí nghiệm.
Phương pháp này sử dụng cho những sản phẩm mới đưa vào sản xuất lần đầu,
chưa có số liệu thống kê. Trong quá trình sản xuất người ta sẽ sửa đổi, điều
chỉnh với thực tế.
- Phương pháp phân tích – tính toán: là việc xác định mức tiêu hao
NVL cho một đơn vị sản phẩm dựa vào lượng NVL cần để sản xuất 1 đơn vị
sản phẩm, lượng hao hụt NVL cho phép và lượng tiêu hao cho sản phẩm
hỏng.
Định mức lượng
=
Lượng
+
Lượng hao hụt
+
Lượng NVL tiêu
NVL tiêu hao
NVL cần
NVL cho phép
hao do hư hỏng
- Phương pháp thử nghiệm – sản xuất: lLà việc xác định mức tiêu hao
NVL trong điều kiện thiết kế các biện pháp loại trừ tổn thất và các điều kiện
tổn thất cho sử dụng vật tư. Phương pháp này sử dụng cho những sản phẩm
mới đưa vào sản xuất lần đầu chưa có số liệu thống kê. Trong quá trình sản
xuất, người ta sẽ sửa đổi điều chỉnh phù hợp với thực tế.
2.1.4.2 Lập kế hoạch thu mua, sử dụng, dự trữ nguyên vật liệu
Sau khi xây dựng định mức tiêu hao NVL hợp lý, doanh nghiệp căn cứ
vào định mức đó để lập kế hoạch thu mua, sử dụng và dự trữ nguyên vật liệu,
kế hoạch được lập cả về sô lượng và về giá trị.
Kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu
Kế hoạch sử dụng NVL là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản
xuất thuật – tài chính của doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, kế hoạch
mua sắm nguyên vật liệu đảm bảo yếu tố vật chất để thực hiện các kế hoạch
khác, còn kế hoạch khác là căn cứ để xây dựng kế hoạch mua sắm nguyên vật
12
liệu. Kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu ảnh hưởng tới hoạt động dự trữ, tiêu
thụ, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để lập được kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu trước hết phải xác định
được lượng nguyên vật liệu cần dùng. Lượng nguyên vật liệu cần thiết là
lượng nguyên vật liệu được sử dụng một cách hợp lý và tiết kiệm trong kỳ kế
hoạch. Lượng nguyên vật liệu cần dùng phải đảm bảo hoàn thành kế hoạch
sản xuất kinh doanh, tiến độ công việc cả về giá trị và hiện vật, đồng thời phải
tính đến nhu cầu nguyên vật liệu cho tự trang tự chế, cho sửa chữa máy móc
thiết bị... của nó ở từng bộ phận sử dụng, sau đó tổng hợp lại cho toàn doanh
nghiệp. Khi tính toán phải dựa trên cơ sở định mức tiêu dùng NVL, nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh và sửa chữa trong kỳ kế hoạch. Tùy thuộc vào từng loại
NVL, từng loại sản phẩm, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp mà vận
dụng phương pháp tính toán thích hợp.
Căn cứ để xác định nhu cầu nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp
xây dụng là:
+ Các bản hợp đồng xây dựng, kèm theo hồ sơ thiết kế công trình và
bản dự trữ nguyên vật liệu (nếu có);
+ Chương trình sản xuất xây dựng theo đơn vị thời gian;
+ Các định mức để tính toán, định mức thi công về sử dụng nguyên vật
liệu, định mức hao hụt nguyên vật liệu;
+ Yêu cầu độ chính xác để tính toán;
+ Các số liệu thống kê kinh nghiệm.
Dựa trên những căn cứ đó, để xác định nhu cầu NVL về số lượng,
doanh nghiệp xây dựng có hai phương pháp chủ yếu: Phương pháp dựa vào
tài liệu thiết kế và chương trình sản xuất xây dựng và phương pháp dựa vào
thống kê kinh nghiệm.
Theo phương pháp dựa vào tài liệu thiết kế và chương trình sản xuất
xây dựng: nhu cầu NVL được xác định xuất phát từ các tài liệu thiết kế của
13
công trình. Sau đó dựa vào chương trình sản xuất hàng năm bao gồm những
công trình nào để tiến hành lập nhu cầu về NVL cho năm. Nhu cầu NVL bao
gồm NVL nằm vào thực tế công trình, NVL hao hụt cho các khâu.
Theo phương pháp dựa vào thống kê kinh nghiệm được áp dụng đối
với những NVL phụ, NVL rẻ tiền, mau hỏng vì loại NVL này khó xác định
chính xác về định mức.
Nhu cầu NVL về chất lượng thường được xác định bằng cách căn cứ
vào hồ sơ thiết kế kĩ thuật của công trình xây dựng theo hợp đồng, theo
chương trình sản xuất hàng năm và theo số liệu thống kê kinh nghiệm. Trong
vấn đề xác định chủng loại NVL cần đảm bảo tính đồng bộ theo góc độ toàn
công trình và sau đó là theo góc độ đồng bộ cho từng giai đoạn thời gian. Nếu
yêu cầu cuối cùng này không được đảm bảo thì tính đồng bộ vẫn chưa được
đảm bảo tốt.
Xác định lượng nguyên vật liệu dự trữ
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục,
hiệu quả đòi hỏi phải có một lượng NVL dự trữ hợp lý. Lượng NVL dự trữ
(còn gọi là định mức dự trữ NVL) là lượng NVL tồn kho cần thiết được quy
định trong kỳ kế hoạch để đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên
tục và bình thường.
Công tác đảm bảo nguyên vật liệu trong xây dựng bao gồm:
+ Lập hồ sơ cập nhật cho các bộ phận dự trữ theo số lượng và giá trị
NVL;
+ Theo dõi sự biến đổi của các bộ phận dự trữ;
+ Tiến hành kiểm kê tài sản để thực hiện các quy định về quản lý cũng
như về thương mại và thuế;
+ Tham gia lập và thực hiện các đơn đặt hàng và cung ứng NVL;
+ Theo dõi phân phối nguyên vật liệu cho sản xuất;
+ Kiểm tra sự thừa thiếu của dự trữ;
14
+ Đảm bảo an toàn cho sản xuất liên tục, nhưng không để chi phí quá
lớn do dự trữ gây ra.
Căn cứ vào tính chất, công dụng, NVL dự trữ được chia thành ba loại:
+ Lượng NVL dự trữ thường xuyên: là lượng NVL cần thiết tối thiểu
để đảm bảo sản xuất được liên tục giữa hai lần cấp phát, lượng dự trữ này
bằng tích số giữa lượng tiêu dùng NVL bình quân cho một ngày và khoảng
cách giữa hai lần cung cấp tính theo ngày.
DTtx = Cngbq x N
Với Cngbq : lượng tiêu dùng vật tư bình quân cho một ngày
N : số ngày giữa hai lần cung ứng liên tục cho sản xuất tiến hành
bình thường giữa hai lần mua sắm NVL.
+ Lượng nguyên vật liệu dự trữ cho thời gian chuẩn bị cấp phát: lượng
dữ trữ này bằng tích số giữa lượng tiêu dùng nguyên vật liệu bình quân theo
ngày và số ngày cần thiết để sắp xếp nguyên vật liệu đồng bộ, kiểm tra chất
lượng, nhập kho, cấp phát, vận chuyển nguyên vật liệu đến chân công trình
theo kinh nghiệm.
DTtx = Cngbq x Ncp
Với Ncp lấy theo kinh nghiệp hoặc theo định mức.
+ Lượng NVL dự trữ bảo hiểm: là lượng NVL đề phòng cung cấp vật
tư bị gián đoạn, hay tính điều hòa của cung cấp bị phá hủy. Lượng dự trữ
bằng tích số giữa lượng NVL tiêu dùng bình quân tính cho một ngày và số
ngày cung cấp bị chậm trễ theo kinh nghiệm cần thiết để đảm bảo cho sản
xuất tiến hành bình thường.
+ Lượng NVL dự trữ theo mùa: trong thực tế có những loại NVL chỉ
mua được theo mùa, hoặc có những loại NVL vận chuyển, bảo quản phụ
thuộc nhiều vào mùa nên cần có mức dự trữ theo mùa, ví dụ như dự trữ cát
vào mùa mưa và mùa khô.
15
+ Lượng nguyên vật liệu dự trữ do hồ sơ thanh toán mua nguyên vật
liệu đến sớm hơn nguyên vật liệu (nếu có): dữ trữ này được áp dụng cho
những loại NVL rẻ tiền, mau hỏng và được tính theo kinh nghiệm hoặc theo
định mức.
Xác định lượng nguyên vật liệu cần mua
Để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng vốn lưu động, đòi
hỏi các doanh nghiệp phải tính toán chính xác lượng nguyên vật liệu cần mua
sắm trong năm.
Lượng NVL
=
Lượng NVL
+
Lượng NVL
-
Lượng NVL tồn
cần mua
cần dùng
tồn đầu kỳ
cuối kỳ
Lượng NVL tồn đầu kỳ là lượng NVL dự trữ cho kỳ sau kế hoạch được
xác định dựa vào tiến độ cung ứng và số lượng cung ứng lần cuối trong kỳ kế
hoạch và mức tiêu dung bình quân ngày.
Xây dựng kế hoạch tiến độ mua sắm nguyên vật liệu
Sau khi đã xác định được lượng NVL cần dùng, cần dự trữ và cần mua
thì phải xây dựng kế hoạch tiến độ mua. Thực chất kế hoạch này là xác định
số lượng, chất lượng, quy cách và thời điểm của mỗi lần mua. Khi xây dựng
kế hoạch tiến độ mua sắm trên các nguyên tắc sau:
+ Không bị ứ đọng vốn ở khâu dự trữ;
+ Luôn đảm bảo lượng dự trữ hợp lý về số lượng, chất lượng, quy cách;
+ Góp phần nâng cao các chỉ tiêu sử dụng hiệu quả vốn;
+ Khi tính toán cần phải tính riêng cho từng loại.
Xuất phát từ những nguyên tắc trên, khi xây dựng kế hoạch tiến độ mua
sắm phải dựa vào các nội dung sau:
+ Kế hoạch tiến độ sản xuất nội bộ;
+ Hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu;
+ Các hợp đồng mua bán NVL và giao nộp sản phẩm cho khác hàng;
+ Mức độ thuận tiện và khó khăn của thị trường mua, bán NVL;
+ Các chỉ tiêu của kế hoạch mua nguyên vật liệu trong năm;
16
+ Phương tiện vận chuyển và phương thức thanh toán;
+ Hệ thống kho tàng hiện có của đơn vị.
Tiến hành mua nguyên vật liệu
Sau khi có kế hoạch tiến độ mua sắm NVL, công tác mua và vận
chuyển về kho của doanh nghiệp do phòng vật tư (thương mại hoặc kinh
doanh) đảm nhận. Giám đốc hoặc các phân xưởng có thể ký các hợp đồng với
phòng vật tư về việc mua và vận chuyển nguyên vật liệu. Hợp đồng phải được
xác định rõ số lượng, chất lượng, chủng loại, quy cách mua, giá và thời gian
giao nhận. Hai bên phải chịu bồi thường về vật chất nếu vi phạm hợp đồng.
Phòng vật tư chịu trách nhiệm cung cấp kịp thời, đầy đủ, đảm bảo chất lượng
cho các đơn vị sản xuất. Nếu vì lý do gì đó không cung cấp kịp, phòng vật tư
phải báo cáo với giám đốc từ 3 đến 5 ngày để có biện pháp xử lý. Phòng vật
tư làm tốt hoặc không tốt sẽ được thưởng hoặc phạt theo quy chế của doanh
nghiệp.
2.1.4.3 Tổ chức tiếp nhận nguyên vật liệu
Tiếp nhận NVL là một khâu quan trọng và là khâu mở đầu của công
việc quản lý. Nó là bước chuyển giao trách nhiệm trực tiếp bảo quản và đưa
vật liệu vào sản xuất giữa đơn vị cung ứng và đơn vị tiêu dùng. Đồng thời nó
là ranh giới giữa bên bán và bên mua, là cơ sở hạch toán chính xác chi phí lưu
thông và giá cả nguyên vật liệu của mỗi bên mua, bên bán. Việc thực hiện tốt
khâu này sẽ tạo điều kiện cho người quản lý nắm chắc số lượng, chất lượng
và chủng loại, theo dõi kịp thời tình trạng của NVL trong kho từ đó làm giảm
những thiệt hại đáng kể do hỏng hóc đổ vỡ, hoặc biến chất của NVL. Do tính
cấp thiết như vậy, tổ chức tiếp nhận NVL phải thực hiện tốt hai nhiệm vụ:
Một là, tiếp nhận một cách chính xác về chất lượng, số lượng, chủng
loại NVL theo đúng nội dung, điều khoản đã ký kết trong hợp đồng kinh tế,
trong hóa đơn, phiếu giao hàng, phiếu vận chuyển...
17