MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1
LUẬT PHÁP VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm quyền con người
1.2. Luật pháp về quyền con người
1.3. Các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con người
1.4. Áp dụng quyền con người trong thực hành công tác xã hội
Câu hỏi ôn tập
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ TRẺ EM
2.1. Khái niện về trẻ em
2.2. Công ước quốc tế về quyền trẻ em:
2.3. Công ước quốc tế 182 của ILO:
2.4. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em việt nam:
2.5. Pháp luật dành cho trẻ em trong lĩnh vực lao động, dân sự và
tố tụng dân sự
2.6. Vai trò của cán bộ xã hội trong thực hiện quyền trẻ em:
Câu hỏi ôn tập
Chương 3
LUẬT PHÁP VỀ PHỤ NỮ
3.1. Pháp luật quốc tế về phụ nữ
3.2. Pháp luật Việt Nam về phụ nữ:
3.3. Luật bình đẳng giới
3.4. Vai trò của công tác xã hội với bình đẳng giới:
Câu hỏi ôn tập
Chương 4
PHÁP LỆNH NGƯỜI CAO TUỔI
4.1. Khái niệm vị thế người cao tuổi:
4.2. Những quy định ưu đãi người cao tuổi:
4.3. Vai trò của công tác xã hội với quyền của người cao tuổi:
Câu hỏi ôn tập
Chương 5
LUẬT PHÁP VỀ NGƯỜI TÀN TẬT
5.1. Một số hiểu biết chung về người tàn tật:
5.2. Luật pháp về người tàn tật:
5.3. Vai trò của công tác xã hội với quyền của người tàn tật:
Câu hỏi ôn tập
1
3
4
4
9
13
16
18
19
19
19
20
21
22
23
26
27
27
29
31
36
37
38
38
38
43
45
46
46
46
54
56
Chương 6
LUẬT PHÁP VỀ PHÒNG CHỐNG MẠI DÂM
6.1. Một số hiểu biết về mại dâm
6.2. Luật pháp về phòng chống tệ nạn mại dâm
6.3. Vai trò của công tác xã hội với quyền phục hồi cho những
người hành nghề mại dâm
Câu hỏi ôn tập
Chương 7
LUẬT PHÁP VỀ PHÒNG CHỐNG MA TÚY
7.1. Những hiểu biết chung về ma túy và nghiện ma túy
7.2. Luật pháp về phòng chống tệ nạn ma túy
7.3. Công tác xã hội với quyền được phục hồi của người sử dụng
ma túy
Câu hỏi ôn tập
2
57
57
57
62
63
64
64
65
77
79
LỜI NÓI ĐẦU
Quyền con người là khát vọng và thành quả đấu tranh của nhân loại, qua
các giai đoạn phát triển, trở thành giá trị chung. Chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước Việt Nam là phấn đấu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con
người cho mọi người dân. Công cụ hiệu quả nhất cho việc bảo vệ quyền con người
chính là hệ thống pháp luật. Chỉ thông qua việc thể chế hóa thành luật, quyền con
người mới được bảo đảm và bảo vệ tốt nhất.
Đổi mới việc dạy và học Pháp luật; nhất là môn Luật pháp về các vấn đề xã
hội trong chương trình dạy nghề nói chung và nghề công tác xã hội nói riêng, góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên, nâng cao ý
thức pháp luật, xây dựng tình cảm, niềm tin, ý thức công dân của học sinh, sinh
viên. Trên cơ sở đó giúp cho học sinh, sinh viên trong các trường dạy nghề tạo lập
thói quen ứng xử phù hợp và theo chuẩn mực pháp luật.
Giáo trình Luật pháp về các vấn đề xã hội (Dùng cho sinh viên học nghề
Công tác xã hội) gồm 7 chương với thời lượng 75 tiết là tương đối phù hợp với đối
tượng sinh viên trong các trường nghề. Các tác giả tham khảo và kế thừa những
ưu điểm nổi bật của các cuốn giáo trình đã xuất bản và cố gắng cập nhật những
nội dung mới trong các văn bản pháp luật vừa ban hành.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái xin trân trọng giới thiệu giáo trình Luật pháp
về các vấn đề xã hội với bạn đọc, hy vọng giáo trình này giúp cho học sinh, sinh
viên học nghề Công tác xã hội nắm bắt được một cách có hệ thống những kiến
thức cơ bản về quyền con người nói chung và quyền của nhóm đối tượng đặc thù
nói riêng.
Trong quá trình biên soạn giáo trình, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song khó
tránh khỏi những thiếu sót cả về hình thức lẫn nội dung. Chúng tôi mong nhận
được những ý kiến đóng góp xây dựng để Giáo trình ngày càng hoàn thiện. Các ý
kiến đóng góp xin gửi về Trường Cao đẳng nghề Yên Bái - xã Văn Phú - TP Yên
Bái - tỉnh Yên Bái .
Xin chân thành cảm ơn!
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
3
Chương 1
LUẬT PHÁP VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm quyền con người:
1.1.1 Nguồn gốc tư tưởng về quyền con người:
Về nguồn gốc tư tưởng về quyền con người có hai trường phái cơ bản đưa ra hai
quan điểm trái ngược nhau:
Quan điểm 1: Theo học thuyết về quyền tự nhiên cho rằng quyền con người là
những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản
bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người do đó không phụ
thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất kỳ cá nhân,
giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào; và không một chủ thể
nào, kể cả các nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm
sinh, vốn có của các cá nhân.
Quan điểm 2: Theo học thuyết về các quyền pháp lý trong đó cho rằng các
quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các Nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật
hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy theo học thuyết về quyền pháp lý,
phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định cả thời hạn hiệu lực của các quyền con
người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa…của các xã hội. Ở đây trong khi các quyền tự nhiên có
tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, thì các quyền pháp lý mang
tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và chính trị.
Cho đến ngày nay cuộc tranh luận về tính đúng đắn của hai học thuyết này vẫn
còn tiếp tục. Nhân loại vẫn đang bị chia rẽ bởi vấn đề này. Việc phân định tính chất
đúng, sai, hợp lý và không hợp lý của hai học thuyết này là không đơn giản do
chúng liên quan đến một phạm vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính trị, xã hội,
đạo đức, pháp lý…Mặc dù vậy dường như quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn
bất cứ lý thuyết nào đều không phù hợp, bởi lẽ trong khi về hình thức, hầu hết các
văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con người là các quyền
pháp lý, thì trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và một
số văn kiện pháp luật ở một số quốc gia quyền con người được khẳng định một
cách rõ ràng là các quyền tự nhiên và không thể chuyển nhượng được của các cá
nhân.
1.1.1.1. Dưới đây là một số sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng
về quyền con người của nhân loại từ trước tới nay.
* Thời kỳ cổ đại
- 1789 TCN: Bộ luật Hammurabi của sứ BaLyLon
- 570 TCN: Luật của Cyrus Đại Đế Ba tư
- 479 - 421 TCN: “ Luận ngữ” của Khổng tử
4
* Thời kỳ trung đại
- 1215: Đại hiến chương Magna Carta( Anh)
- 1689: Luật về Quyền (Anh); “ Hai khảo luận về chính quyền “ của John Locke
* Thời kỳ cận đại
- 1776: “ Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ) long trọng tuyên bố: "Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc". (10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp) (Mỹ).
- 1789:“ Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp) “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng
và quyền lợi. Sự khác biệt xã hội chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung”
và “Mục đích của mọi tổ chức chính trị là việc bảo toàn các nguồn lợi thiên nhiên
và bảo toàn các quyền con người không thể bị tước bỏ. Các quyền đó là tự do, tài
sản, sự an toàn, và quyền được chống lại mọi sự áp bức”.
* Thời kỳ hiện đại
- 1917: Cách mạng tháng mười Nga
- 1919: Hội quốc liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập.
- 1945: Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương Liên Hợp quốc.
- 1948: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người.
- 1965: Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử về
chủng tộc;
- 1966: Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự và Công ước về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hoá.
- 1968: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Têhêran (Iran)
- 1979: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ;
- 1984: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo,
vô nhân đạo hay hạ nhục khác;
- 1989: Công ước về quyền trẻ em;
- 1990: Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả người lao động di trú
và các thành viên trong gia đình họ;
- 2006: Công ước quốc tế về bảo vệ tất mọi người khỏi bị đưa đi mất tích;
- 2006: Công ước về quyền của những người khuyết tật;
Và rất nhiều tuyên bố, nghị định thư và các điều ước quốc tế khác.
1.1.1.2. Khái lược lịch sử tư tưởng về quyền con người trong lịch sử, văn hóa Việt
Nam.
* Thời phong kiến:
- Từ lâu, dân gian vẫn lưu truyền những câu ca dao, tục ngữ: “thương người như
5
thể thương thân”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”…
- Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt để yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
- Trần Hưng Đạo trước khi lâm chung còn căn dặn vua rằng: “khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.
* Thời Pháp thuộc:
- Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản bằng tiếng
Pháp tại Pari Bác viết: “chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào,
người ta bị vi phạm mọi quyền làm người một cách độc ác và trơ tráo đến thế”.
* Thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945:
- Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã đưa dân tộc Việt Nam từ vị thế
những người nô lệ trở thành những người chủ thật sự của đất nước. Mỗi người dân
từ đây được hưởng các quyền con người, quyền công dân; dân tộc từ đây được tự
quyết con đường phát triển của mình.
- Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba
Đình ngày 2/9/1945 không những đã kế thừa tinh hoa trong tư tưởng về quyền con
người trên thế giới mà còn phát triển những tư tưởng ấy lên một tầm cao mới. Bằng
việc nhắc lại những luận điểm bất hủ trong bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và
Tuyên ngôn Dân quyền và nhân quyền của Pháp, người khẳng định về quyền dân
tộc tự quyết: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là một đóng góp vĩ
đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ với dân tộc Việt Nam mà còn với nhân
dân thế giới, đặc biệt là các nước thuộc địa. Điều này cho thấy, Người không chỉ là
một nhà hoạt động cách mạng mà còn là một nhà tư tưởng xuất sắc về quyền con
người.
- Ngay khi đất nước được tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu
tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên càng sớm càng tốt để nhân dân được thực hiện quyền
dân chủ, quyền công dân. Về việc ban hành Hiến pháp, người cho rằng: “nước ta
đã bị chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế
nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ. Chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ”.
1.1.1.3 Quyền con người được ghi nhận trong các Bản Hiến pháp của Việt Nam:
- Bản Hiến pháp năm 1946 mặc dù được soạn thảo trong bối cảnh đất nước còn
nhiều khó khăn nhưng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề quyền con người,
trong 70 điều, có 18 điều quy định tập trung về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân.
Nhận xét về Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Bản Hiến pháp
chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó
tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã có độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế
giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó đã tuyên bố với
6
thế giới: phụ nữ Viêt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng
chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn
kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của
các giai cấp”.
- Bản Hiến pháp năm 1959 trong 112 điều có 21 điều quy định về quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lúc bấy giờ, miền Bắc đã giành được độc lập, cơ sở
kinh tế của chế độ mới đang bắt đầu hình thành, cuộc kháng chiến ở miền Nam
đang bắt đầu. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội cho phép Hiến pháp năm 1959 quy định
về quyền và nghĩa vụ của công dân một cách đầy đủ hơn, bổ sung thêm các quyền
về kinh tế, văn hóa so với Hiến pháp năm 1946.
- Bản Hiến pháp năm 1980 được nhà nước ta ban hành để thể hiện quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh công, nông dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trong 147 điều có 29 điều quy định về quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã
hội, các quyền công dân được quy định một cách đầy đủ hơn, mang hơi hướng của
chế độ tập trung, bao cấp. Những quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định
trong Hiến pháp năm 1980 là cơ sở để nhà nước ta xây dựng một loạt các văn bản
pháp luật chi tiết hóa, cụ thể hóa quyền con người trong đời sống xã hội.
- Bản Hiến pháp 1992 Đại hội Đảng VI diễn ra vào năm 1986 đánh dấu sự
thay đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những sự thay đổi là sự
hướng mạnh vào tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Hiến
pháp năm 1992 ra đời, kế thừa tinh thần của các bản Hiến pháp trước, đồng thời
quy định các quyền con người, quyền công dân một cách thực tế, phù hợp với hoàn
cảnh mới. Theo Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì chương
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 34 điều. Hiện nay, đất nước ta đã có
một hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện; hầu như các lĩnh vực cơ bản của đời
sống xã hội đều được điều chỉnh bởi luật. Các đạo luật đã cụ thể hóa, chi tiết hóa
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp để công dân có thể dễ
dàng thực hiện trong cuộc sống. Trên cơ sở đó, quyền con người ở Việt Nam ngày
càng được tôn trọng và bảo đảm.
- Bản Hiến pháp 2013 Quyền con người có nhiều đổi mới so với những hiến
pháp trước đó. Hiến pháp 2013 khẳng định quyền con người về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật. Việc thực hiện quyền con người không được xâm phạm đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 14,15,16 Hiến
pháp 2013).
+ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp
2013 từ Điều 14 đến Điều 49. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở để
xác định địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ cụ thể
của công dân, thể hiện trình độ, mức sống và nền văn minh của một Nhà nước.
1.1.2 Định nghĩa quyền con người:
7
Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực
như đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định nghĩa về
quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo những góc độ khác
nhau.
- Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học
thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ
mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người.
- Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc
thường xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được
phép và tự do cơ bản của con người1.
- Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con người.
Trong tác phẩm Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác giả
định nghĩa: Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu
là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là
giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm,
bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc
quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác
định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại,
áp dụng cho tất cả mọi người.
* Phân biệt khái niệm quyền con người với quyền công dân:
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có mối liên hệ mật thiết
với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác biệt nhất định.
- Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công
dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ
thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.
- Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ
giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công
dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và
8
chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công
dân mà pháp luật nước đó quy định. Ví dụ: Quyền chính trị: công dân từ 18 tuổi
trở lên có quyền bầu cử và từ đủ 21 tuổi được ứng cử vào các cơ quan quyền lực
của Nhà nước (Điều 27 Hiến pháp 2013). Quyền tham gia vào quản lý nhà nước và
xã hội: công dân được tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các
vấn đề của cơ sở, địa phương, cả nước. Các cơ quan Nhà nước phải công khai,
minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Công dân
đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 28, 29
Hiến pháp 2013).
1.1.3. Cách hiểu và thực hiện khác nhau về quyền con người:
- Mặc dù quyền con người đã được ghi nhận trong luật pháp quốc tế cũng như
tuyên ngôn của các quốc gia như tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776; Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 nhưng với bản chất của các
nước tư bản là bóc lột, đàn áp người lao động nên trong quá trình thực hiện quyền
con người các nước này đã có một số quy định nhằm hạn chế quyền con người.
- Ở Việt Nam xuất phát từ bản chất của Nhà nước là nhà nước của dân, do dân
và vì dân nên quyền con người ở Việt Nam được đảng và Nhà nước ta hết sức quan
tâm, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quan trọng, được chỉ đạo thực hiện
một cách đầy đủ và đúng đắn.
1.2. Luật pháp về quyền con người:
1.2.1 Luật pháp quốc tế về quyền con người
1.2.1.1 Bộ luật quốc tế về quyền con người:
- Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và 2 nghị định
thư bổ sung;
- Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966.
* Tuyên ngôn thế giới về quyền con người:
- Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 là tuyên ngôn về các quyền cơ
bản của con người được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12
năm 1948. Trong lời nói đầu, tuyên ngôn đã thực sự đề cao tầm quan trọng của
nhân quyền đối với sự sống còn của loài người: “việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh
và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại
gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới”. Tuyên
ngôn bao gồm 30 điều, lần đầu tiên liệt kê một cách toàn diện những quyền của con
người trong tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Hai điều đầu tiên của Tuyên ngôn khẳng định rằng: tất cả mọi người, không
phân biệt, sinh ra đều tự do, bình đẳng về phẩm giá và các quyền và nhấn mạnh các
nguyên tắc cơ bản của sự bình đẳng, không phân biệt trong việc hưởng các quyền
và tự do cơ bản.
9
19 điều tiếp theo (từ điều 3 đến điều 21) quy định các quyền dân sự và chính
trị mà là con người phải được hưởng gồm:
- Quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (điều 3).
- Quyền không bị làm nô lệ hoặc nô dịch (điều 4).
- Quyền không bị tra tấn, bị đối xử hay trừng phạt tàn tệ vô nhân đạo (điều 5).
- Quyền được thừa nhận tư cách như một con người trước pháp luật (điều 6).
- Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ (điều 7).
- Quyền được bảo vệ khỏi những hành vi vi phạm quyền con người bằng
những toà án với những phương tiện pháp lý có hiệu lực (điều 8).
- Quyền không bị bắt bớ, giam cầm hay đầy ải vô cớ (điều 9).
- Quyền được xét xử công minh và công khai trước một toà án độc lập, không
thiên vị (điều 10).
- Quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội được chứng minh, và
không bị coi là phạm tội về một hành động mà trong thời gian xảy ra chưa cấu
thành một tội hình sự (điều 11).
- Quyền được luật pháp bảo vệ không bị can thiệp vào đời tư, gia đình, chỗ ở
hoặc thư tín, không bị xâm hại danh dự hay uy tín cá nhân (điều 12).
- Quyền tự do đi lại và cư trú, bao gồm quyền rời khỏi hoặc trở lại quốc
gia của mình (điều 13).
- Quyền tỵ nạn (điều 14).
- Quyền có quốc tịch (điều 15).
- Quyền tự do kết hôn và xây dựng gia đình (điều 16).
- Quyền sở hữu tài sản riêng (điều 17).
- Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo (điều 18).
- Quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt (điều 19).
- Quyền tự do hội họp và lập hội (điều 20).
- Quyền tham gia quản lí đất nước và tham gia bình đẳng vào các công việc
chung của đất nước (điều 21).
7 điều tiếp theo (từ điều 22 đến 28) của Tuyên ngôn đề cập đến các quyền kinh
tế, xã hội và văn hoá gồm:
- Quyền được bảo đảm an ninh xã hội (điều 22).
- Quyền làm việc và được trả lương ngang nhau cho những công việc như
nhau, được trả lương xứng đáng và hợp lý để đảm bảo cho một cuộc sống có giá trị
như một con người, được thành lập hoặc gia nhập công đoàn (điều 23).
- Quyền nghỉ ngơi, giải trí (điều 24).
- Quyền có một mức sống thích đáng và được bảo hiểm. Phụ nữ và trẻ em
được giúp đỡ đặc biệt (điều 25).
10
- Quyền được học tập (điều 26).
- Quyền được tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, thưởng thức văn
hóa-nghệ thuật, quyền được bảo hộ các lợi ích vật chất và tinh thần phát sinh từ các
sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình (điều 27).
- Quyền được sống trong một trật tự xã hội và quốc tế, mà trong đó các quyền
và tự do cơ bản nêu ra trong Tuyên ngôn được thực hiện một cách đầy đủ (điều 28).
Các nhóm quyền con người cơ bản là dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hoá được xác định cụ thể trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm
1966 được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16-12-1966. Đây là những
thoả thuận về quyền con người đầu tiên của Liên hợp quốc có tính chất ràng buộc
chặt chẽ mang tính pháp lý dưới hình thức công ước - những trụ cột đầu tiên của
pháp luật quốc tế về quyền con người. Việt Nam phê chuẩn công ước ngày 24
tháng 9 năm 1982.
1.2.2 Quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người
- Thứ nhất: Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại
Quyền con người có tính phổ biến, được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi
thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì
như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, độ tuổi, thành phần xuất thân...
Trong Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12 tháng 7 năm 1992, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu
dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới,
và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua
đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại.” “Chăm lo con người,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”.
- Thứ hai: Trong điều kiện xã hội có phân chia giai cấp, khái niệm quyền con
người mang tính giai cấp sâu sắc
Theo Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992, Ban Bí thư trung ương Đảng đã
nhấn mạnh: “Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con
người mang tính giai cấp sâu sắc”. Về vấn đề này, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg
ngày 02/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “… Cuộc đấu tranh trên
vấn đề quyền con người là cuộc đấu tranh mang tính giai cấp sâu sắc, sẽ diễn ra
liên tục, lâu dài và quyết liệt.”
- Thứ ba: Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản
Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa quyền dân tộc và quyền của mỗi cá nhân
là cơ sở để dẫn tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong Nghị quyết của Hội
nghị Trung ương lần thứ VIII (từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941) về tổ chức Việt
Minh, Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp
phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu
11
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Tư tưởng về quyền dân tộc cơ bản được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
một cách long trọng trong tuyên ngôn độc lập ngày mùng 2 tháng 9: “tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do.
- Thứ tư: Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù, phụ
thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
mỗi quốc gia
Quyền con người là một giá trị phổ biến của nhân loại, bao hàm những quyền
và nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở mọi nơi, cho mọi đối tượng. Mặc khác,
quyền con người cũng mang tính đặc thù với mỗi quốc gia theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa và lịch sử.
- Thứ năm: Quyền con người thể hiện trong quyền công dân và được pháp luật
bảo hộ
Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong
pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa hô hào, không có ý nghĩa thực tế.
- Thứ sáu: Quyền không tách rời nghĩa vụ
Về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, Đảng ta nhận định: “Quyền dân chủ,
tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ
phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích Tổ quốc, của nhân dân”.
- Thứ bảy: Tất cả các quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm một
cách bình đẳng:
Tất cả các quyền của con người đều có ý nghĩa quan trọng như nhau và không
có quyền nào được coi là vượt trội hơn quyền nào. Việc thực hiện hay không thực
hiện một quyền sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến các quyền khác.
Việc coi trọng sự bình đẳng giữa các quyền con người được thể hiện rõ nét
trong Hiến pháp năm 2013. Trong Hiến pháp, các quyền con người được ghi nhận
một cách toàn diện và có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
- Thứ tám: Mở rộng đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con
người:
Đảng ta chủ trương thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người
trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong Chỉ thị số 12-CT/TW, Đảng khẳng
định: “Quyền con người là vấn đề đang được đặt ra trong các mối quan hệ quốc tế.
Cần làm tốt công tác đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền của nước ta, sẵn sàng
12
tỏ thiện chí hợp tác trong quan hệ quốc tế vì quyền con người, đồng thời đấu tranh
với những âm mưu lợi dụng vấn đề này để chống phá ta”.
1.3. Các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con người:
1.3.1 Cơ chế quốc tế bảo đảm quyền con người
1.3.1.1.Bộ máy liên hiệp quốc: bao gồm
* Đại hội đồng liên hiệp quốc
- Ủy ban III Đại hội đồng liên hiệp quốc chuyên trách về các vấn đề nhân
quyền, nhân đạo xã hội.
- Các cơ quan khác trực thuộc:
+ Ủy ban đặc biệt về phi thực dân hóa;
+ Ủy ban đặc biệt chống apartheid;
+ Ủy ban đặc biệt điều tra vi phạm nhân quyền của israel tại các vùng chiếm
đóng;
* Hội đồng kinh tế và xã hội
* Văn phòng cao ủy liên hiệp quốc về nhân quyền
* Hệ thống được thành lập trên cơ sở các công ước bao gồm:
- Ủy ban công ước về các quyền dân sự, chính trị;
- Ủy ban về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội;
- Ủy ban loại trừ sự phân biệt đối xử về chủng tộc;
- Ủy ban xóa bỏ tệ phân biệt đối xử với phụ nữ;
- Ủy ban quyền trẻ em;
- Ủy ban chống tra tấn…
1.3.1.2. Hệ thống các tổ chức nhân quyền khu vực:
* Hội đồng châu âu, công ước nhân quyền châu âu, Tòa án châu âu
* Tổ chức thống nhất châu phi ( có ủy ban chuyên trách các vấn đề nhân
quyền, nhân đạo) đã có hiến chương nhân quyền khu vực châu phi.
* Tổ chức các nước châu mỹ: có công ước nhân quyền châu mỹ và tòa án nhân
quyền các nước khu vực châu mỹ.
* Hiệp hội các quốc gia đông nam á ( ASEAN) đã ban hành quy chế hoạt động
của ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền trên cơ sở điều 14 Hiến chương
ASEAN năm 2007.
1.3.1.3. Cách thức thực hiện:
* Bảo vệ quyền bằng công cụ do nhà nước thiết lập:
Việc thiết lập công cụ để bảo vệ quyền con người, quyền công dân là tạo ra
các thiết chế nhà nước bảo vệ quyền. Đây là yếu tố không thể thiếu của hệ thống
bảo đảm quyền. Về nguyên tắc, bộ máy nhà nước hiện đại được thiết kế không
cồng kềnh song phương thức, công cụ bảo đảm quyền công dân thì cần đa dạng và
13
phong phú. Ở phạm vi quốc gia, thực chất của việc bảo vệ quyền công dân là nghĩa
vụ của mọi cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Công dân bảo vệ tự do của
mình thông qua cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ngoài ra, việc Nhà nước
thừa nhận công cụ quốc tế (ví dụ, cho phép công dân bảo vệ quyền thông qua Liên
hợp quốc và các thiết chế của nó, các thiết chế bảo vệ khu vực) cũng là thiết lập
công cụ pháp lý để bảo vệ quyền tự do của các cá nhân trong xã hội.
* Cá nhân tự bảo vệ quyền:
Quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo đảm tốt nhất trong
điều kiện của nhà nước pháp quyền dân chủ, một chế độ Hiến pháp phù hợp với
những nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, do những điều kiện
khách quan và chủ quan mà đối với mỗi quốc gia, điều này cần không ít thời gian
để đạt được. Quyền tự do của cá nhân có thể bị vi phạm thường xuyên khi hệ thống
các cơ quan nhà nước có chức năng bảo vệ quyền hoạt động không có hiệu quả. Vì
thế, Nhà nước cần thừa nhận hình thức tự vệ cá nhân của công dân: mỗi người có
quyền tự bảo vệ mình trước những hành vi trái pháp luật của những người khác
bằng biện pháp hợp pháp. Tự vệ là bảo đảm quan trọng đặc biệt đối với bảo vệ các
quyền tự do cá nhân cơ bản của công dân như quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, sức khỏe… vì nó cho một kết quả trực tiếp, rõ ràng, nhanh chóng. Cá nhân
có thể tự bảo vệ quyền trước hành vi xâm hại quyền của người khác hoặc tự bảo vệ
trước nhà nước.
* Bảo vệ quyền thông qua cơ chế bồi thường thiệt hại:
Khi quyền tự do của cá nhân bị xâm hại, về nguyên tắc, chủ thể xâm hại quyền
phải bồi thường cả về vật chất, sức khỏe và tinh thần cho công dân. Điều này càng
có ý nghĩa quan trọng khi chủ thể xâm hại quyền công dân là Nhà nước.
1.3.2 Cơ chế đảm bảo quyền con người quốc gia
- Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người xuất phát từ thực tế
và nhằm thực hiện những nghĩa vụ của các nhà nước được nêu trong tất cả các văn
kiện quốc tế về quyền con người. Nòng cốt của cơ chế là các cơ quan quốc gia về
bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền.
- Các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền có hình thức tổ chức
rất đa dạng. Dưới đây khái quát một số dạng chính mà đã được thành lập ở nhiều
nước trên thế giới:
Ủy ban quyền con người quốc gia
- Thiết chế này thường bao gồm nhiều thành viên đại diện cho các nhóm xã
hội, nghề nghiệp khác nhau. Tên gọi của thiết chế này có thể khác nhau giữa các
nước, ví dụ như Ủy ban/Trung tâm quyền con người quốc gia, Ủy ban quyền con
người và bình đẳng… Cơ sở pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của thiết chế
này cũng khác nhau giữa các nước. Ví dụ, nó có thể được quy định trong Hiến pháp
(như Philíppin, Thái Lan), bằng một đạo luật cụ thể (như Malaixia), bởi một nghị
14
quyết của Nghị viện (như Đan Mạch), hoặc theo một quyết định của Tổng thống
(như Inđônêxia).
- Nhìn chung, chức năng cơ bản của các ủy ban quyền con người quốc gia là
bảo vệ các cá nhân khỏi sự phân biệt đối xử và thúc đẩy các quyền con người, đặc
biệt là quyền của các nhóm xã hội dễ bị xâm hại hoặc phân biệt đối xử như phụ nữ,
trẻ em, người thiểu số, người bản địa... Có những ủy ban được giao thẩm quyền xử
lý tất cả vi phạm các quyền được nêu lên trong Hiến pháp, trong khi một số khác
chỉ có thẩm quyền xử lý những vi phạm về chủng tộc, tôn giáo, giới, quan điểm
chính trị… Một chức năng quan trọng nữa của các ủy ban quyền con người quốc
gia là tiếp nhận, điều tra và giải quyết những khiếu nại của các cá nhân và các
nhóm về những vi phạm quyền con người theo pháp luật quốc gia.
1.3.3 Đảm bảo quyền con người của các đối tượng đặc thù
- Bên cạnh các chức năng kể trên, nhiều ủy ban quyền con người quốc gia
được giao thẩm quyền nghiên cứu chính sách và hoạt động liên quan đến quyền con
người của chính phủ để phát hiện những tồn tại, hạn chế và đề xuất những biện
pháp khắc phục, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ trong việc bảo vệ quyền con người. Các
ủy ban cũng có thể được giao quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước
trong việc tuân thủ pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền con người. Cuối cùng,
nhiều ủy ban quyền con người quốc gia còn được giao chức năng giáo dục, tuyên
truyền nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người.
* Cách thức thực hiện
Về tổ chức của cơ quan quyền con người quốc gia, Các nguyên tắc Pari
khuyến nghị cần bảo đảm sự đa dạng của cơ quan này gồm đại diện của nhiều loại
cơ quan, tổ chức trong xã hội, trong đó bao gồm:
- Các tổ chức phi chính phủ hoạt động trên lĩnh vực quyền con người và chống
phân biệt đối xử, các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp liên
quan như đoàn luật sư, hiệp hội của các bác sỹ, nhà báo các nhà khoa học..
- Các tổ chức tôn giáo;
- Các trường đại học;
- Các nghị viện;
- Các cơ quan chính phủ.
Về thẩm quyền, Các nguyên tắc Pari khuyến khích việc trao thẩm quyền cho
cơ quan quyền con người quốc gia “càng rộng càng tốt”, và thẩm quyền đó cần
được quy định trong hiến pháp hoặc văn bản luật. Cụ thể, cơ quan quyền con người
quốc gia cần có các thẩm quyền sau:
- Trình lên chính phủ, nghị viện và bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào khác
những quan điểm, khuyến nghị, đề xuất và báo cáo về bất kỳ vấn đề nào liên quan
đến thúc đẩy và bảo vệ quyền con người;
15
- Thúc đẩy và bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các văn kiện
pháp lý quốc tế mà quốc gia là thành viên, và việc áp dụng chúng một cách hiệu
quả;
- Khuyến khích việc phê chuẩn, gia nhập và áp dụng các văn kiện quốc tế về
quyền con người;
- Đóng góp ý kiến xây dựng các báo cáo quốc gia trình lên các ủy ban và cơ
quan Liên hợp quốc cũng như cho các cơ quan khu vực; khi cần thiết bày tỏ quan
điểm về nội dung của các báo cáo quốc gia;
- Hợp tác với Liên hợp quốc, các cơ quan của Liên hợp quốc, các cơ quan khu
vực và các cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của các nước
khác;
- Hỗ trợ việc xây dựng các chương trình giảng dạy và nghiên cứu về quyền
con người và tham gia triển khai các chương trình đó trên thực tế;
- Phổ biến các quyền con người và nỗ lực chống mọi hình thức phân biệt đối
xử, đặc biệt là phân biệt đối xử về sắc tộc bằng việc tăng cường nhận thức cho công
chúng, đặc biệt là qua việc giáo dục, thông tin, hợp tác với các cơ quan báo chí.
- Về phương thức hoạt động của cơ quan quyền con người quốc gia, theo Các
nguyên tắc Pari, các cơ quan quyền con người quốc gia cần được:
- Xem xét bất kỳ vấn đề nào về quyền con người thuộc phạm vi chức năng của
cơ quan, một cách chủ động hoặc theo đề nghị của chính quyền hoặc của các tổ
chức, cá nhân khác;
- Xem xét ý kiến của bất kỳ cá nhân nào và tìm kiếm bất kỳ thông tin, tài liệu
cần thiết nào cho việc đánh giá thực trạng về quyền con người mà thuộc về phạm
vi chức năng hoạt động của cơ quan;
- Trực tiếp trả lời công luận hoặc thông qua các cơ quan báo chí, đặc biệt trong
việc phổ biến các ý kiến và khuyến nghị của cơ quan;
- Gặp gỡ định kỳ các thành viên của cơ quan;
- Thiết lập các nhóm hoạt động, các văn phòng địa phương hoặc - Thiết lập
các nhóm hoạt động, các văn phòng địa phương hoặc khu vực nhằm hỗ trợ việc
thực hiện các chức năng của cơ quan;
- Duy trì tư vấn cho các cơ quan, tổ chức khác của quốc gia mà có trách nhiệm
trong việc giải quyết các vấn đề về quyền con người (đặc biệt là các cơ quan thanh
tra, hòa giải…);
- Quan tâm, phát triển quan hệ với các tổ chức phi chính phủ hoạt động trên
lĩnh vực quyền con người, phát triển kinh tế và xã hội, chống phân biệt đối xử, bảo
vệ quyền của các nhóm dễ bị tổn thương (đặc biệt là trẻ em, lao động nhập cư,
người tị nạn, người khuyết tật về thể chất và tâm thần) hoặc tại các khu vực đặc
biệt.
1.4. Áp dụng quyền con người trong thực hành công tác xã hội
16
1.4.1 Khung lý thuyết dựa trên quyền con người trong thực hành công tác xã hội
- Tăng cường và mở rộng dân chủ: Dân chủ là một tiêu chí quan trọng để đánh
giá mức độ thực thi quyền con người. Các quyền con người chỉ được tôn trọng và
bảo đảm trong một xã hội dân chủ.
- Tăng cường hoạt động phổ biến, giáo dục về quyền con người, quyền công
dân cho cán bộ và nhân dân: Phổ biến các kiến thức về quyền con người, quyền
công dân là một biện pháp có tính chất bền vững để thúc đẩy, bảo vệ quyền con
người. Ở Việt Nam, hoạt động này lâu nay vẫn được duy trì một cách thường
xuyên. Giáo dục về quyền con người, quyền công dân từ lâu đã trở thành một
nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục công dân, giáo dục pháp luật ở
các cấp học. Tuy vậy, nhận thức về quyền con người trong một bộ phận dân
chúng vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng thúc
đẩy mạnh hơn nữa việc phổ biến và giảng dạy về quyền con người nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho người dân Việt Nam.
1.4.2. Áp dụng khung lý thuyết quyền con người trong thiết kế dịch vụ và
chương trình
- Phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn
đề xã hội: Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định luôn đặt con người vào vị trí trung
tâm của các chính sách kinh tế - xã hội. Mục tiêu của chính sách do Đảng và Nhà nước
đề ra đều hướng vào con người, không ngừng cải tạo, nâng cao đời sống vật chất của
mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm những nhu cầu tối thiểu nhất của nhân dân và
nâng cao thể chất của con người Việt Nam.
- Chủ động, tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại
trong lĩnh vực nhân quyền: Đảng và Nhà nước Việt Nam thừa nhận các giá trị
chung trong tư tưởng của nhân loại về quyền con người. Đồng thời, Đảng và
Nhà nước đề ra chính sách chủ động hợp tác và đối thoại nhằm góp phần thúc
đẩy các quyền con người trên thế giới. Chính sách đối ngoại trong lĩnh vực này
của Việt Nam dựa trên nguyên tắc: bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không áp đặt và can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
1.4.3. Áp dụng khung lý thuyết quyền con người chăm sóc thân chủ
- Có nhiều khung lý thuyết quyền con người chăm sóc thân chủ được tồn tại
dưới dạng các tổ chức dịch vụ pháp lý, song cơ bản là chúng được cung cấp bởi các
tổ chức hành nghề luật sư và các tổ chức tư vấn pháp luật khác; dịch vụ của các tổ
chức trợ giúp pháp lý hoạt động theo chính sách xã hội của Nhà nước. Nhìn chung,
các hoạt động giúp đỡ công dân về mặt pháp lý chỉ có ý nghĩa bảo đảm cho quyền
tự do của cá nhân khi nó hoạt động có hiệu quả và cá nhân tiếp cận dễ dàng với
chúng. Kết quả hoạt động của các dịch vụ này phụ thuộc vào thái độ chấp nhận của
công quyền và chất lượng dịch vụ; còn sự dễ dàng tiếp cận dịch vụ phụ thuộc vào
số lượng tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ và giá thành dịch vụ.
- Hợp tác và đối thoại quốc tế về quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng.
17
Qua đối thoại, cộng đồng quốc tế sẽ có cơ hội hiểu hơn về tình hình nhân quyền ở
Việt Nam; đồng thời, đây cũng là một cơ hội để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm của
các quốc gia trên thế giới.
1.4.4. Xây dựng cơ chế để thân chủ vận động về những dịch vụ họ được thụ
hưởng
- Bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quyền
con người, quyền công dân: Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống.
Trong lịch sử, các dân tộc luôn đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Trong công cuộc đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, coi đó là một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.
Chính sách này được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà
nước.
- Ngăn ngừa và trừng trị những hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân,
đồng thời, chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, lợi dụng vấn đề quyền con
người để chống phá chế độ.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG
1. Anh (chị) hãy phân tích nguồn gốc tư tưởng về quyền con người?
2. Anh (chị) hãy trình bày cơ chế bảo đảm quyền con người?
3. Anh (chị) hãy phân tích lịch sử phát triển của luật pháp quốc tế về quyền
con người?
4. Anh (chị)hãy phân tích lịch sử phát triển của luật pháp quốc gia về quền
con người?
18
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ TRẺ EM
2.1. Khái niệm trẻ em:
* Công ước Quốc tế xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp ở
các nước cụ thể quy định tuổi thành niên.
* Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam năm 2004, trẻ
em là công dân dưới 16 tuổi; người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Các em
có quyền được sống, trưởng thành, phát triển mạnh khoẻ và hạnh phúc trong tình
thương yêu của cha mẹ, gia đình và cộng đồng. Người lớn, trước hết là cha mẹ có
trách nhiệm thực hiện các quyền của trẻ em được pháp luật quy định.
* Đặc điểm của trẻ em
- Về mặt sinh học, trẻ em là người phát triển chưa đầy đủ về thể chất trí tuệ
nhân cách…
- Về mặt xã hội, trẻ em là đối tượng dân cư đặc biệt họ sẽ là thế hệ kế cận. Trẻ
em chưa trưởng thành và cũng chưa tự kiếm sống được phải dựa vào cha mẹ và
những người thân khác trong gia đình nhưng sau này đến lượt họ sẽ là lực lượng
lao động lòng cốt và sẽ làm chủ thế giới.
2.2. Công ước quốc tế về quyền trẻ em:
- Công ước của liên hợp quốc về quyền trẻ em được liên hợp quốc thông qua
ngày 20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 02/9/1990 Việt Nam phê chuẩn ngày
20/2/1990.
- Công ước về quyền trẻ em là một văn kiện quan trọng trong hệ thống điều
ước quốc tế về quyền con người, đề cập đến các quyền con người riêng biệt của trẻ
em.
* Cấu trúc của công ước:
Lời nói đầu : Đề cập tới sự cần thiết phải xây dựng công ước.
Phần I (điều 1 – 41): Quy định các quyền của tất cả trẻ em.
Phần II (điều 42 – 45): Quy định về việc thực hiện và cơ chế giám sát thực
hiện công ước.
Phần III (điều 46 – 54 ): Quy định các vấn đề về thủ tục như ký, phê chuẩn,
gia nhập, bảo lưu, lưu chiểu, hiệu lực, ngôn ngữ thể hiện của công ước.
2.2.1 Một số nội dung cơ bản của công ước:
2.2.1.1 Các nguyên tắc cơ bản trong công ước: bao gồm 4 nguyên tắc
- Nguyên tắc 1, Bảo đảm sự sống còn và phát triển của trẻ em: bằng tất cả các
biện pháp cần thiết các quốc gia phải bảo đảm đến mức tối đa sự sống còn và phát
triển của trẻ em.
- Nguyên tắc 2, Không phân biệt đối sử: tất cả trẻ em đều bình đẳng và được
hưởng đầy đủ các quyền trẻ em trong công ước, các quốc gia phải thi hành mọi
biện pháp để bảo vệ trẻ em tránh khỏi hình thức phân biệt đối sử.
- Nguyên tắc 3, lợi ích tốt nhất giành cho trẻ em: nhà nước, các bậc cha mẹ và
các chủ thể khác phải lấy lợi ích của trẻ em là mục tiêu hàng đầu.
19
- Nguyên tắc 4, tôn trọng ý kiến của trẻ em: các quốc gia thành viên phải đảm
bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình.
2.2.1.2. Các nhóm quyền cơ bản: bao gồm 4 nhóm quyền cụ thể như sau
* Quyền được sống còn bao gồm:
- Sống và phát triển: các quốc gia phải đảm bảo đến mức tối đa sự sống còn và
phát triển của trẻ em.
- Sống với cha mẹ và đoàn tụ gia đình.
- Được nhận làm con nuôi, được chăm sóc nuôi dưỡng khi bị mất môi trường
gia đình, được nhận sự giúp đỡ nhân đạo.
- Hưởng trạng thái sức khỏe cao nhất và các dịch vụ chữa bệnh và phục hồi
sức khỏe.
- Hưởng sự chăm sóc đặc biệt: Trẻ em bị khuyết tật được chăm sóc, giáo dục
và điều trị đặc biệt.
* Quyền được bảo vệ bao gồm:
- Bảo vệ khỏi bị bắt cóc và buôn bán.
- Bảo vệ khỏi các hình thức bóc lột, lạm dụng, ngược đãi, bỏ mặc.
- Bảo vệ đời tư.
- Bảo vệ khỏi sự tác động của các chất ma túy.
- Được xét xử công bằng, đối xử nhân đạo trong các giai đoạn của tố tụng hình
sự.
- Không phải trực tiếp tham gia chiến sự và được quan tâm bảo vệ khi có xung
đột vũ trang.
* Quyền được phát triển bao gồm:
- Có mức sống đủ để phát triển mọi mặt thể chất trí tuệ tinh thần đạo đức và xã
hội.
- Học tiểu học miễn phí và tiếp thu một nền giáo dục tiến bộ.
- Giữ gìn bản sắc.
- Hưởng nền văn hóa theo tôn giáo và sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng mình.
* Quyền được tham gia bao gồm:
- Nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, sinh hoạt văn hóa.
- Tự do biểu đạt và tôn trọng ý kiến.
- Tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, tự do kết giao, hội họp hòa bình.
- Tiếp xúc với thông tin thích hợp từ nhiều nguồn.
- Phục hồi về thể chất, tâm lý và tái hòa nhập với xã hội.
2.3. Công ước quốc tế 182 của ILO:
Công ước có hiệu lực từ ngày 19/11/2000, được Việt Nam phê chuẩn ngày
19/12/2000.
Công ước xác định các hành vi lao động trẻ em tồi tệ nhất bao gồm:
- Tất cả các hình thức nô lệ hay tương tự nô lệ như buôn bán trẻ em, gán nợ,
cầm cố, lao động cưỡng bức bắt buộc trẻ em phục vụ trong các xung đột vũ trang.
- Sử dụng dẫn dắt hoặc dụ dỗ trẻ em tham gia các hoạt động mại dâm, sản xuất
văn hóa phẩm khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm
20
- Sử dụng dẫn dắt hoặc dụ dỗ trẻ em tham gia các hoạt động bất hợp pháp, đặc
biệt tham gia sản xuất buôn bán ma túy.
- Sử dụng trẻ em trong các công việc có tính chất hoặc hoàn cảnh lao động có
thể tác động có hại đến sức khỏe, an toàn và đạo đức của các em.
* Các biện pháp thực hiện:
- Ngăn chặn việc sử dụng trẻ em vào những hình thức lao động tồi tệ nhất.
- Cung cấp các trợ giúp cần thiết đưa trẻ em thoát khỏi những hình thức lao
động tồi tệ.
- Bảo đảm cho trẻ em tiếp cận những hình thức giáo dục cơ bản miễn phí và
các hình thức dạy nghề ở bất cứ nơi nào có thể.
- Xác nhận và tiếp cận với những trẻ em có nguy cơ cao phải tham gia các lao
động trẻ em tồi tệ.
- Quan tâm đến hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em gái.
- Tiến hành hợp tác quốc tế và trợ giúp lẫn nhau trong việc thự hiện công ước.
2.4. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em việt nam:
2.4.1. Sự ra đời của luật:
Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được QH khóa 11 thông qua ngày
15/6/2004. luật gồm 5 chương và 60 điều.
2.4.2. Cấu trúc của luật
Chương 1: Những quy định chung ( điều 1 – điều 10).
Chương 2: Các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em ( điều 11 – điều 22).
Chương 3: Trách nhiệm bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em ( điều 23 – điều 39).
Chương 4: Bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ( điều 40 – điều 58).
Chương 5: Hiệu lực thi hành
2.4.3. Nội dung của luật
2.4.3.1.Quyền của trẻ em được quy định trong luật:
- Quyền được khai sinh và có quốc tịch
Khoản 1 điều 11 luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: “Trẻ em
có quyền được khai sinh và có quốc tịch”. Quyền được khai sinh là điều kiện tiên
quyết để khẳng định mỗi trẻ em sinh ra một công dân của một quốc gia, một công
dân bình đẳng, có những quyền và nghĩa vụ như những công dân khác.
- Quyền sống chung với cha mẹ
Điều 13 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. “Trẻ em có quyền sống
chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ, trừ trường
hợp vì lợi ích của trẻ em”
- Quyền được chăm sóc sức khoẻ
Điều 15 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Theo đó, trẻ em dưới 6
tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám, chữa bệnh không phải trả tiền
tại các cơ sở y tế công lập; trẻ em được y tế cơ sở quản lý sức khoẻ, được tiêm
chủng phòng bệnh, phòng dịch, được khám bệnh chữa bệnh.
- Quyền được học tập
21
Điều 16 Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004 khẳng định: “Trẻ
em có quyền được học tập” “Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công
lập không phải trả học phí” Theo quy định của pháp luật Việt Nam bậc tiểu học là
bậc giáo dục bắt buộc đối với mọi trẻ em. Mọi trẻ em không phân biệt điều kiện,
hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập và được nhà nước tạo điều kiện
cho học tập.
- Quyền vui chơi, giải trí
Điều 17 Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004 có quy định: “Trẻ
em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể
dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi”.
- Quyền được phát triển năng khiếu
Điều 18 Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ
em có quyền được phát triển năng khiếu. Mọi năng khiếu của trẻ em đều được
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển”.
- Quyền có tài sản
Điều 19 Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em
có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật”.
2.4.3.2. Bổn phận của trẻ em được quy định trong luật:
Điều 21: Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004 quy định:
1. Yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; kính trọng thầy giáo, cô
giáo; lễ phép với người lớn, thương yêu em nhỏ; đoàn kết với bạn bè; giúp đỡ
người già yếu, người khuyết tật, tàn tật, người gặp hoàn cảnh khó khăn theo khả
năng của mình.
2. Chăm chỉ học tập, giữ gìn vệ sinh , rèn luyện thân thể , thực hiện trật tự
công cộng và an toàn giao thông, giữ gìn của công, tôn trọng tài sản của người
khác, bảo vệ môi trường.
3. Yêu lao động , giúp đỡ gia đình làm những việc vừa sức mình.
2.5. Pháp luật dành cho trẻ em trong lĩnh vực lao động, dân sự và tố tụng dân
sự
- Về năng lực pháp luật dân sự: Trẻ em và người lớn bình đẳng về năng lực
pháp luật dân sự
- Về năng lực hành vi dân sự và tố tụng dân sự: trẻ em chưa đủ 6 tuổi được coi
là chưa có năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch phải do người đại diện theo pháp
luật xác lập, thực hiện.
- Quyền được khai sinh và có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản đầu
tiên của trẻ em và là cơ sở cho việc thực hiện các quyền khác.
- Quyền được đối xử bình đẳng: trẻ em không phân biệt gái, trai, con trong hay
ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi… không phân biệt dân tộc tôn giáo đều được bảo vệ
chăm sóc và giáo dục.
- Quyền được chăm sóc nuôi dưỡng trong gia đình: Trẻ em có quyền được
sống chung với cha mẹ, được thương yêu, trông nom, chăm sóc, được chăm lo việc
22
học tập và giáo dục để phát triển lành mạnh về thể chất trí tuệ, tinh thần và đạo đức
trở thành người con hiếu thảo trong gia đình, công dân có ích cho xã hội.
- Quyền được giám hộ: Khi trẻ em không còn cha mẹ, không xác định được
cha, mẹ hoặc cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự… thì trẻ được giám hộ
nhằm đảm bảo sự chăm sóc, nuôi nấng trong gia đình cũng như giúp trẻ giao dịch
dân sự.
- Quyền được chăm sóc sức khoẻ: Với quan điểm chăm sóc sức khỏe trẻ em
phải thực hiện từ khi còn trong bào thai người mẹ, pháp luật Việt Nam dành nhiều
quy định để bảo vệ sức khỏe của người mẹ trong quá trình mang thai, sinh đẻ và
chăm sóc trẻ sơ sinh.
- Quyền được học tập: Trẻ em là đối tượng được săn sóc đặc biệt. Quyền được
học tập là một trong những quyền cơ bản nhất của trẻ em để phát triển trí lực. Trẻ
em từ 6-14 tuổi được quyền phổ cập giáo dục bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục
công lập, trong trường hợp trẻ em vì lý do sức khỏe, hoàn cảnh gia đình khó khăn
có thể được phổ cập giáo dục tiểu học ở độ tuổi lớn hơn.
- Quyền vui chơi, giải trí tham gia các hoạt động văn hóa nghệ thuật trẻ em
không chỉ cần được chăm sóc sức khỏe, được học tập mà còn phải được vui chơi,
giải trí lành mạnh để đảm bảo trẻ em được phát triển hài hòa, toàn diện về sức
khỏe, trí tuệ và nhân cách.
Trẻ em là học sinh được hưởng chế độ miễn giảm phí khi sử dụng các dịch vụ
công cộng về giao thông, giải trí, tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công
trình văn hóa…
- Quyền được nhận làm con nuôi pháp luật khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi,
trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi nhằm tạo điều kiện cho những trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt này được chăm sóc, nuôi dưỡng trong một điều kiện tốt hơn.
Người được nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống. trừ trường
hợp đặc biệt ( con nuôi là thương binh, người tàn tật, hoặc làm con nuôi người già
yếu, thì con nuôi có thể trên 15 tuổi.
Người nhận nuôi con nuôi phải đảm bảo những điều kiện cần thiết như:
+ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
+ Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.
+ Có tư cách đạo đức tốt
+ có điều kiện thực tế để đảm bảo việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo
dục con nuôi.
+ Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con
chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích…
- Quyền có tài sản riêng trẻ em có quyền có tài sản riêng. Thu nhập của trẻ có
thể từ nguồn được tặng cho, được thừa kế hay do lao động của trẻ em mà có. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp cha mẹ là người có quyền quản lý ( Khi con dưới 15
tuổi). Trẻ em đủ 15 tuổi trở lên có quyền định đoạt tài sản riêng, nếu tài sản đó có
giá trị không quá lớn.
2.6. Vai trò của cán bộ xã hội trong thực hiện quyền trẻ em:
23
2.6.1 Biện pháp bảo vệ quyền trẻ em trong gia đình
- Tiếp nhận thông tin; kiểm tra, đánh giá nguy cơ sơ bộ; thực hiện các biện
pháp bảo đảm an toàn tạm thời cho trẻ em trong tình trạng khẩn cấp.
- Thu thập thông tin, xác minh và đánh giá nguy cơ cụ thể đối với trẻ em bị
bạo lực, bị xâm hại tình dục.
- Xây dựng và thông qua kế hoạch can thiệp, trợ giúp trẻ em bị bạo lực, bị xâm
hại tình dục.
- Thực hiện hoạt động can thiệp, trợ giúp.
- Rà soát, đánh giá nguy cơ sau can thiệp, trợ giúp và báo cáo kết quả can
thiệp, trợ giúp.
2.6.2 Các vấn đề bảo vệ quyền trẻ em trong các cơ sở chăm sóc
- Cán bộ bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp xã có trách nhiệm tiếp nhận thông tin
của mọi công dân, tổ chức về các vụ việc trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục.
- Khi tiếp nhận thông tin về vụ việc trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục, cán
bộ bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp xã có trách nhiệm:
- Ghi chép kịp thời, đầy đủ thông tin về vụ việc.
- Báo cáo với chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã và phối hợp với các cá nhân, cơ
quan, tổ chức có liên quan, gia đình, trường học, hàng xóm, bạn bè của trẻ em nạn
nhân kiểm tra tính xác thực của thông tin, đồng thời bổ sung các thông tin liên quan
đến vụ việc bằng cách đến trực tiếp địa bàn hoặc qua điện thoại.
- Thực hiện đánh giá nguy cơ sơ bộ làm cơ sở đưa ra nhận định về tình trạng
hiện tại của trẻ.
- Trường hợp trẻ em trong tình trạng khẩn cấp, cần phối hợp với các cơ quan,
tổ chức và cá nhân liên quan thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm an toàn tạm
thời cho trẻ trước khi thực hiện các bước tiếp theo.
- Báo cáo vụ việc với Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội để nhận được
sự hướng dẫn, hỗ trợ.
- Việc tiếp nhận, ghi chép thông tin, tiến hành đánh giá nguy cơ sơ bộ và thực
hiện các biện pháp bảo đảm an toàn tạm thời cho trẻ trong tình trạng khẩn cấp được
thực hiện theo mẫu hướng dẫn
2.6.3 Cơ chế lắng nghe những vi phạm quyền trẻ em và có đáp ứng phù hợp
Trong khi, vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia đình, cộng đồng
còn bị coi nhẹ, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của cha
mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản thân trẻ chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo
vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế, trẻ em dễ trở thành nạn nhân của
các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục và dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội.
Tình trạng nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân;
cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…cũng là nguyên nhân dẫn đến
việc trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo lực
Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu hiểu biết về
luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến tình trạng người thân
24
trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em (khoảng 50% tổng số vụ vi phạm)
và các thành viên khác trong xã hội phạm tội nghiêm trọng đối với trẻ em đến mức
phải xử lý hình sự.
2.6.4 Khái niệm về giáo dục và truyền thông về quyền trẻ em được bảo vệ khỏi
xâm hại, bóc lột và xao nhãng
Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải
cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em. Các trường hợp trẻ em buộc
phải cách ly cha mẹ được pháp luật quy định, gồm:
- Cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù.
- Cha mẹ bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên hoặc quyết định không cho cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Trẻ em bị quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục…
Khi phải sống cách ly cha mẹ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em được
bảo đảm như sau:
- Trong trường hợp, cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp
hành hình phạt tù, thì trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ và được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và các tổ chức chính trị - xã hội chăm sóc, nuôi dưỡng thay
thế, trừ trẻ em dưới ba mươi sáu tháng tuổi.
- Trong trường hợp bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với
con chưa thành niên, thì trong thời gian thi hành quyết định của Tòa án, trẻ em
được giúp đỡ, bảo vệ lợi ích; Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ
điều kiện trực tiếp nuôi con, thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo
quy định của Bộ luật Dân sự.
2.6.5 Khái niệm về xây dựng năng lực cho ủy ban nhân dân hiểu về quyền trẻ
em, luật pháp, xâm hại trẻ em và bảo vệ trẻ em.
Để bảo đảm quyền trẻ em cán bộ xã hội phải tuyên truyền, vận động, tham
mưu với cấp ủy chính quyền và các đoàn thể địa phương làm tốt các nội dung sau:
- Bảo đảm cho trẻ em được chăm sóc sức khỏe, học tập đào tạo nghề, hưởng
an sinh xã hội, có các điều kiện vui chơi giải trí.
- Bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột tình dục, lao động ngược đãi, bỏ mặc, bắt
cóc…
- Hỗ trợ gia đình bằng cách tôn trọng quyền, trách nhiệm trong việc bảo vệ
chăm sóc trẻ em của gia đình…
- Chăm sóc đặc biệt cho trẻ em tàn tật, trẻ em tỵ nạn, trẻ em là người dân tộc
thiểu số…
- Tạo điều kiện cho trẻ em được bày tỏ ý kiến về các vấn đề có liên quan đến
cuộc sống của trẻ em..
25