Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

140 tính đặc thù về trách nhiệm của người kinh doanh dịch vụ logistics theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.46 KB, 3 trang )

1.

Khái niệm về dịch vụ logistics.
Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đã định nghĩa về dịch vụ
logistics như sau: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương
nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận
chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn
khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác
có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao…”.
Đặc điểm: Dịch vụ logistics có ba đặc trưng pháp lý sau:
- Chủ thể của quan hệ dịch vụ logistics gồm hai bên: Người làm dịch vụ
logistics (phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để thực hiện dịch vụ
logistics) và khách hàng ( có thể là thương nhân hoặc không là thương nhân, có
thể là chủ sở hữu hàng hóa hoặc không phải là chủ sở hữu hàng hóa).
- Nội dung của dịch vụ logistics rất da dạng bao gồm: nhận hàng từ người
gửi để tổ chức việc vận chuyển; làm các thủ tục giấy tờ cần thiết; giao hàng hóa
cho người vận chuyển; tổ chức nhận hàng, lưu kho…
- Dịch vụ logitics là một loại hoạt động dịch vụ.
2. Tính đặc thù về trách nhiệm của người kinh doanh dịch vụ logistics theo
pháp luật hiện hành .
Trong dân sự khi một bên không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ hợp đồng
sẽ làm phát sinh trách nhiệm hợp đồng. Trách nhiệm này có thể là trách nhiệm
thực hiện đúng hợp đồng; hủy hợp đồng; bồi thường các thiệt hại phát sinh từ sự
vi phạm hợp đồng hoặc phạt hợp đồng. Hợp đồng Logistics cũng là một dạng
của hợp đồng dân sự, nhưng đồng thời cũng là một hợp đồng thương mại và
theo nguyên tắc thì Luật chuyên ngành sẽ được áp dụng vì thế trách nhiệm của
người kinh doanh dịch vụ logistics sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại.
Khi người làm dịch vụ logistics vi phạm hợp đồng, theo quy định của Luật
Thương mại 2005 sẽ phải chịu những trách nhiệm riêng biệt so với việc vi phạm
những loại hợp đồng dân sự thông dụng khác. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Về giới hạn trách nhiệm.


Theo khoản 4 điều 3 Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật
Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm
đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics (gọi tắt là Nghị định
140/2007/NĐ-CP) thì giới hạn trách nhiệm được hiểu như sau: Là hạn mức tối
đa mà thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi thường


thiệt hại cho khách hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ
chức thực hiện dịch vụ logistics theo quy định tại Nghị định này.
Điều 238 Luật Thương mại 2005 quy định: “Trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hóa”. Với
quy định này thì giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người làm dịch vụ
logistics là một ngoại lệ của chế tài bồi thường thiệt hại trong hoạt động thương
mại nói chung. Và tại điều 8 của Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định chi tiết
Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách
nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quy định cụ thể về
vấn đề này như sau:
- Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc liên
quan đến vận tải thì thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới
hạn trách nhiệm trong lĩnh vực vận tải.
- Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
không thuộc phạm vi đã nói ở trên sẽ do các bên thỏa thuận. Trường hợp các
bên không có thỏa thuận thì thực hiện như sau:
+ Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về giá trị của
hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu
bồi thường;
+ Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về giá trị của hàng hóa
và được thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc xác nhận thì giới hạn trách
nhiệm là toàn bộ giá trị của hàng hóa đó.

- Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics tổ chức thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm
khác nhau là giới hạn trách nhiệm của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao
nhất.
Sỡ dĩ đó là điểm đặc thù bởi nếu một bên vi phạm hợp đồng trong dân sự
thì sẽ không hề có vấn đề giới hạn trách nhiệm này được đặt ra. Mà theo quy
định của Bộ luật dân sự về nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại bao nhiêu thì phải chịu trách nhiệm
bồi thường bấy nhiêu. Ví dụ: người vận chuyển làm mất hàng và vì vậy, khách
hàng có thể phải chịu các thiệt hại phát sinh gồm: giá trị hàng hóa bị mất, tiền
phạt hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại do không có hàng giao cho người mua


và khoản lợi đáng lẽ được hưởng (nếu có hàng giao cho người mua). Nếu đây là
hợp đồng dân sự thì người vận chuyển này sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại
cho người bị thiệt hại. Thế nhưng nếu đó là hợp đồng logistics thì thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics này sẽ không phải bồi thường tất cả các thiệt hại đó
mà chỉ phải bồi thường trong phạm vi giới hạn trách nhiệm mà Luật Thương
mại và Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định như đã phân tích ở trên.
Tuy nhiên, người làm dịch vụ logistics không được hưởng quyền giới hạn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng
minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics cố ý hành động hoặc không hành động một cách mạo
hiểm và biết rằng sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn xảy ra.
Thứ hai: Về các trường hợp miễn trách nhiệm.
Ngoài ra người làm dịch vụ logistics còn được miễn trách nhiệm hợp
đồng trong một số trường hợp (quy định tại điều 237 Luật Thương mại 2005)
mà bên vi phạm trong hợp đồng dân sự không được miễn, đó là:
Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm
đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng ủy

quyền;
Tổn thất là do khuyết tật của hàng hóa;
Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo
quy định của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics tổ chức vận tải;
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông
báo về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận;
Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không
nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án trong thời hạn
chin tháng, kể từ ngày giao hàng.
Qua sự phân tích trên đây chúng ta đã thấy rõ điểm đặc thù về trách nhiệm
của người kinh doanh dịch vụ logistics so với trách nhiệm của các bên trong các
quan hệ pháp luật khác khi xảy ra vi phạm hợp đồng.



×