Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì LýTrần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.7 KB, 8 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lĩnh vực lịch sử nhà nước Việt Nam thời phong kiến, thì việc nghiên cứu mô hình
nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì các mô hình nhà nước phong kiến lịch sử, chúng
ta lại thấy được cả một quá trình học tập thừa kế và sáng tạo của ông cha ta trong cách thức tổ
chức bộ máy nhà nước.Trong tiến trình lịch sử, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần
là một trong những mô hình mang tính điển hình, có hệ thống và khá hoàn thiện. Vì vậy để
nghiên cứu rõ hơn nữa về mô hình nhà nước phong kiến quân chủ quý tộc thời Lý-Trần, em xin
chọn đề tài: “Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì LýTrần”
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc
1. Khái niệm hình thức chính thể nhà nước
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà
nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan nhà nước đó. 1
Hình thức chính thể quân chủ là hình thức mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế , có hai
loại; chính thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quan chủ hạn chế. 2
2. Khái niệm thể chế nhà nước quân chủ quý tộc
Thể chế nhà nước quân chủ quý tộc là thể chế mà trong đó quyền lực tối cao vẫn trong tay
một người đứng đầu (vua, hoàng đế…) nhưng trong bộ máy nhà nước, tầng lớp quý tộc nắm giữ
hầu hết các trọng trách ở triều đình và địa phương, hệ thống quan lại hầu hết là những người
trong hoàng tộc.
II. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần.
Bộ máy chính quyền thời Lý-Trần được xây dựng trên hình thức chính thể quân chủ quý
tộc. Dựa trên nguyên tắc” liên kết dòng họ”, hoàng thân quốc thích là hậu thuẫn chính trị hùng
mạnh cho quyền lực của nhà vua. Biểu hiện của nó là hầu hết các trọng trách của bộ máy trung
ương tập quyền đều do tầng lớp quý tộc nắm giữ. Vương hầu, tôn thất đều được trọng dùng và
khuyến khích hôn nhân nội tộc vừa để củng cố sự vững chắc của vương triều vừa nhằm đảm bảo
tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vững.
-Về bộ máy hành chính: Thời Lý-Trần cấu trúc theo 3 cấp: cấp trung ương, cấp hành chính
trung gian, cấp hành chính cơ sở.
+Thời Lý: ở kinh đô, nhà Lý cho một hoàng tử hay vương thân trông coi gọi là kinh sư lưu thủ.


Ở các châu gần, đặt các chức tri châu, thông phán, tổng quân để trong coi. ở các châu biên giới
đặc chức châu mục đứng đầu. Đứng đầu phủ có chức tri phù, tri phủ sự, phán phỉ sự phụ trách. Ở
1
2

/> />
1


các địa phương, Nhà lý từ năm 1011 đổi 10 đạo thời Lê thành 24 bộ, đặt thêm một số đạo và trại,
châu. Một số châu, trại đổi làm ohur, các vùng xã gọi là châu. Dưới lộ có huyện, hương.
+Thời Trần: đổi 24 lộ thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ là an phủ sử,
ở các phủ là tri phủ, trấn phủ rồi đến các viên chức thông phán, tiên phán, tào, vấn lệnh úy..Các
châu do chuyển vận sứ, thông phán quản lý, ở các huyện do lệnh úy, chủ bạ coi giữ. Chế độ xã
qquan được phổ biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã. Các viên quan được
tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm. Dưới đại tư xã có chức xã trưởng, xã
giám giúp việc sổ sách.
-Về tổ chức bộ máy quan lại: đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng
đầu các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo (tam thái). Dưới đó là chức thái úy,
nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này được gọi là tể tướng. Tiếp đến là các
chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy (phụ trách cấm quân), nội điện đô trị sự, ngoại điện
đô trị sự, kiểm hiệu bình chuơng sự. Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà vua. Để
giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên trách như Trung thư sảnh,
Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.
Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện hơn thời Lý.
Khác với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con
trai trưởng (hoàng thái tử) nhưng vẫn cùng với vua (con) trông coi chính sự, tự xưng là Thái
thượng hoàng. Trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là ba chức thái (sư, phó, bảo) chỉ có
điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá thánh, phụ quốc để gia phong
thêm (như thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý (tướng

quốc) đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự. Giúp việc cho tể tướng (tướng quốc) thời
Trần đặt thêm các chức hành khiển nằm trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả
các chức thượng thư (đứng đầu bộ), tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu . Dưới các chức vụ
nói trên, các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu mỗi bộ là một
viên thượng thư. Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng nhiều hơn, tổ chức
chặt chẽ hơn như: các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục...). Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức
phụ trách về dòng họ nhà vua gọi là tông chính phủ. Nhà Trần cũng thực hiện chế độ ban phong
thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được xây dựng phủ đệ riêng. 3
Nhận xét: Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả
các chức vụ quan trọng trong triều đình cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ.
Nguyên tắc “tôn quân quyền” được thể hiện nhưng không đậm nét bằng nguyên tắc “liên kết
dòng họ”. Trong bộ máy chính quyền trung ương, Hoàng đế là người nắm giữ toàn bộ vương
quyền và thần quyền nhưng mức độ tập trung quyền lực của vua chưa cao tới mức chuyên chế,
mà quyền hành pháp được chuyển giao rộng rãi cho các chức vụ trung gian trong nhà nước,
thường là các chức vị dưới vua như Tế tướng, Thừa tướng. Thời Trần để củng cố vương quyền,
nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ.
Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Cách sử dụng, bổ
nhiệm quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét bản chất của nhà nước quân chủ quý
tộc.
3

“Nhà nước thời Lý – Trần” – www.lichsuvietnam.vn

2


III. Biểu hiện cụ thể của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần
1. Nhà nước quân chủ quí tộc là nhà nước chỉ có vua nhưng quyền lực tập trung vào tay vua
chưa cao độ

Cũng như những quân vương ở triều đại khác, các Hoàng đế Lý - Trần là vị trí độc tôn
trong xã hội, là người nắm trọn vương quyền và thần quyền, nhưng việc thực hiện quyền lực đó
còn chưa tới mức độ chuyên quyền. Trước khi ra một quyết định quan trọng vua thường phải hỏi
ý kiến của các quan đại thần. Đáng chú ý là chức danh Tể tướng thời kì này thường được giao
cho các quan đại thần như Thái Phó Tô Hiến Thành...nhưng thực chất các công thần này đều giữ
chức vụ Tể tướng, là người có rất nhiều quyền hành, thực hiện nhiệm vụ giúp vua điều hành toàn
bộ hoạt động của các quan chức trong triều, thực sự là “dưới một người trên vạn người”. Chính
vì vậy có thể nói mặc dù bộ máy nhà nước thời kì này được tổ chức theo chính thể quân chủ
chuyên chế nhưng quyền lực tập trung vào tay nhà vua chưa cao, giữa vua và các quan lại, các
bộ, các cơ quan chuyên môn còn có một chức danh trung gian là Tể tướng và chức danh này chỉ
giao cho một người. Sau này trong cải cách Lê Thánh Tông đã đặt ra chế độ “đồng tể tướng” (Tả,
Hữu) nhằm phân quyền và cũng đồng thời hạn chế sự độc đoán, tiếm quyền của Tể tướng, bộ
máy nhà nước thể hiện rõ tính chất quân chủ quan liêu chuyên chế. Sở dĩ có sự đặc biệt trên bởi
các vua Lý - Trần trong buổi ban đầu thường là những người xuất thân từ tầng lớp bình dân,
đồng thời họ cũng được chính triều đình của dòng họ vua trước suy tôn lên làm vua, từ đó nên họ
vừa là Hoàng đế của nhà nước quân chủ vừa là thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc, vừa là người
đại diện cao nhất của giai cấp thống trị và bóc lột nhưng vẫn còn dáng dấp “người cha của số
đông các công xã”.4
2. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, bên cạnh nhà vua còn có đội ngũ quý tộc là hậu thuẫn,
bệ đỡ cho vương triều.
Trong chế độ phong kiến nói chung, hoàng tộc luôn là hậu thuẫn chính trị của vương triều.
Dưới các triều Ngô - Đinh – Tiền Lê trước đây cũng vậy nhưng các triều đại này trị vì trong hoàn
cảnh lịch sử đặc biệt, ngoài hoàng tộc thì việc thu phục các thế lực chính trị - quân sự khác cũng
không kém phần quan trọng. Bởi vậy tính quí tộc của nhà nước chưa nổi trội hẳn lên. Tuy nhiên
từ đời Lý đặc biệt là đời Trần, thể chế chính trị quân chủ quý tộc càng phát triển, hoàng tộc càng
là hậu thuẫn chính trị vững chắc của vương triều. Để củng cố vương quyền, nhất là trong những
thời kỳ đầu, nhà Lý - Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Tầng lớp quý
tộc nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình đều do các người họ
hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Thời Lý lấy tước vương, tước công phong cho thân thích
hoàng tộc và người có công lớn như Thái Tổ phong cho anh là Vũ Uy vương, chú làm Vũ Đạo

vương, Lý Thường Kiệt được phong tước làm Việt Quốc công. Thứ đến là tước hầu như Đào
Cam Mộc được phong nghĩa hầu. Thời Trần “người tôn thất được phong tước vương hoặc tước
quận vương (cũng có người là cựu thần có công được phong tước vương như Trần Tá Chu được
phong Hưng Nhân vương). Năm 1267 vua Trần Thánh Tông định “ Hoàng đế ngọc điệp” theo
tiêu chuẩn ngũ phục để ấn định quan hệ họ hàng xa gần của nhà vua để ban tước, bổ chức, phong
đất.

4

/>
3


Nhà Lý - Trần coi đội ngũ quý tộc là bệ đỡ cho vương triều thể hiện rõ trong cách thức
tuyển chọn quan lại. Vào thời nhà Trần, quan lại được tuyển dụng qua các phương thức : nhiệm
tử (tập ấm), tuyển cử (giới thiệu và bảo lãnh), khoa cử (qua các kỳ thi). Cách sử dụng, bổ nhiệm
quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét tính đẳng cấp sâu sắc, nhất là dưới thời Trần.
Năm 1228 Trần Thái Tông quy định “ người có quan tước con cháu mới được thừa ấm làm quan,
người giàu khỏe mạnh mà không có quan tước thì sung quân đời đời làm lính”, đến cuối đời nhà
Trần tuyển cử và bổ nhiệm vẫn là 2 phương thức tuyển dụng quan lại chủ yếu của các vương
triều.
Trong bộ máy quan lại của triều Lý và Trần chủ yếu là quý tộc. Đây là thể hiện rõ nét của
bộ máy quân chủ quý tộc. Tuy nhiên mỗi triều đại lại sử dụng người để phong quan khác nhau.
Nhà Lý sử dụng cả đội ngũ quý tộc, đồng tộc và ngoại thích: Các chức tướng công, thái phó
được hoàng đế nhà Lý ban cho những người có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển toàn bộ chính
quyền.
Biểu hiện của bộ máy quân chủ quý tộc thời Lý – Trần còn thể hiện ở sự trọng đãi các
quan chức ở trung ương và địa phương. Tầng lớp quý tộc nắm giữ vị trí quan trọng trong tổ chức
bộ máy nhà nước, nắm giữ hầu hết các trọng trách ở triểu đình, địa phương, trấn trị các vùng
quan trọng, chỉ huy quân đội. Các hoàng tử được phong vương và được cử đi trấn trị ở các nơi

trọng yếu, vương hầu tôn thất được phong cấp thực ấp, thực hộ, cho lập điền trang phủ để.
3. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, nhà vua được thế tộc.
Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân - từ vai trò là ngoại thích của nhà Lý
đã giành ngôi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người trong
họ. Nhà Trần khuyến khích hôn nhân nội tộc để củng cố sự vững chắc của vương triều. Theo tập
quán dân gian và quan niệm Nho giáo, giữa những người trong cùng họ đều không được kết hôn
với nhau nhưng dòng họ Trần lại khuyến khích nội tộc hôn nhân nhắm đảm bảo tính “thuần
nhất” của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được vững bền, ngăn ngừa ngôi vua để lọt vào tay dòng họ
khác. Chúng ta có thể điểm qua một số cuộc hôn nhân nội tộc này: Năm 1225, Trần Cảnh, tức
Trần Thái Tông, lấy Lý Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên; trường hợp này cũng là con cô lấy con
cậu....
IV.Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì Lý-Trần
1.Điểm tích cực mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần
Thứ nhất, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần giúp quyền lực tập trung trong tay
nhà nước trung ương; chế độ quân chủ trung ương tập quyền được tiến thêm một bước, củng cố
sự vững chắc của vương triều và đảm bảo tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền
vững, giúp cho nhà Lý-Trần quản lí tốt đất nước.
Thứ hai, bộ máy hành chính, nhà nước thời Lý – Trần đã thể hiện tính chất thân dân. Nhà Lý tôn
trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà nước không thu thuế theo
từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể lớn (hoặc nhỏ) để thu thuế lúa gạo theo
hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế các làng, rồi nộp một phần cho nhà nước nên họ thực
sự là chủ của dân chứ không phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng theo quy mô
làng xã. Nó góp phần xây dựng một triều đình thống nhất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân,
4


giữ vững nền độc lập dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng những chủ nhân của các thái ấp đã
hoàn thành tốt vai trò của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không bao giờ trở thành
lãnh chúa địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân phong cho các vương
hầu quý tộc vẫn gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý tộc vẫn nằm trong làng,

không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được mối quan hệ mật thiết với nhân
dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được xác lập và duy trì giữa công hữu và tư hữu; giữa
quyền lực, lợi ích của nhà nước với các đẳng cấp quý tộc quan liêu và khối bình dân làng xã. 5
Thứ ba, tồn tại hình thức nhà nước quân chủ quý tộc làm cho nhà nước quân chủ phong kiến
Việt Nam không phát triển đến mức độ chuyên chế cực đoan. Khi nhà nước quân chủ quý tộc
đang phát triển sẽ phát huy trí tuệ, sức mạnh của cả hoàng tộc và triều đình, kết cấu với hoàng
tộc thành một khối chặt chẽ làm bệ đỡ chính trị cho nhà vua. Có sự hòa hợp giữa nhà vua và
hoàng tộc, hoàng tộc với nhân dân, làng với nước làm nên sức mạnh của nhà nước thời kỳ này,
phản ánh sự đoàn kết của vua tôi. Bên cạnh đó nó góp phần làm cho mô hình nhà nước phong
kiến Việt Nam không hoàn toàn rập khuôn theo mô hình nhà nước nho giáo của Trung Quốc.
Thứ tư, hình thức quan chủ quý tộc thời kỳ Lý-Trần hoàn toàn phù hợp hoàn cảnh lịch sử thời kì
hậu bắc thuộc, khi quý tộc là bệ đỡ cho vương tạo chỗ dựa vững chắc cho Hoàng đế, biểu hiện rõ
nhấy là thời kì chống quân Nguyên-Mông.
Như vậy, có thể thấy, bộ máy quân chủ quý tộc thời Lý - Trần là một mô hình coi trọng ý dân,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân là điểm đặc sắc thể hiện rõ nét tính dân tộc, tính nhân dân của
nhà nước phong kiến Việt Nam.
2. Điểm hạn chế mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:
Thứ nhất, việc trao quyền lực cho một tầng lớp vương hầu quý tộc tiềm ẩn nguy cơ phân quyền,
cát cứ, tranh vương đoạt vị, như vậy nhà vua sẽ khó điều hành đất nước, Cụ thể: Khoảng từ giữa
thế kỷ XII, triều chính nhà Lý bắt đầu suy đồi. Các nhà vua khi lên ngôi còn quá non trẻ, lớn lên
lại hay ham chơi. Trong triều, các gian thần, nịnh thần lộng hành nhiễu loạn. Ngoài xã hội, nhiều
năm mất mùa đói kém, loạn lạc nổi dậy khắp nơi. Những cuộc nổi dậy này biểu hiện sự trỗi dậy
của những yếu tố cát cứ, làm suy yếu chính quyền trung ương. Đầu thế kỷ XIII, lại xảy ra nạn
hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến. Các hào trưởng địa phương, các tướng lĩnh triều đình
đem quân đánh lẫn nhau, uy hiếp triều đình Lý trong một tình hình hết sức rối ren, phức tạp. Đến
thời Dụ Tông, Triều Trần lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Mâu thuẫn nội tại của chế
độ điền trang, thái ấp phát triển. Quý tộc Trần ngày càng thoái hoá biến chất với cuộc sống xa
hoa. Nông nô và nô tỳ bị áp bức và bóc lột tàn khốc nổi dậy chống đối, thiên tai xảy ra liên tiếp,
sản xuất đình đốn, dân tình đói khổ. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa
của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi là nguyên nhân quan

trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý – Trần.
Thứ hai, về chế độ hôn nhân đồng tộc. Triều đại nhà Trần, tới các đời sau, Trần Nghệ
Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm
quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con
cháu, người thân tộc họ Trần. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của
sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán
5

Những căn cứ để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân chủ thân dân” – www.nhantainhanluc.com

5


ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần
đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Việc dung túng cho cấp dưới,
những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các
vua Trần quả là hiếm có. Thể chế quân chủ quý tộc lúc bấy giờ đã khủng hoảng nặng nề, kìm
hãm sự phát triển của quốc gia. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hành chính mang
tính phân tán, quyền lực của nhà nước quân chủ quan liêu trung ương tập quyền bị hạn chế. Cuộc
cải cách của Hồ Quý Ly nhằm thay thế thiết chế quân chủ quý tộc bằng một thiết chế mới quân
chủ quan liêu là đúng đắn, cần thiết, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nó đã
thất bại nhanh chóng.
Thứ ba, việc trao quyền lực cho các bậc quý tộc, làm cho quyền lực của vua bị hạn chế, việc
quản lí điều hành đất nước sẽ gặp khó khăn, đặc biệt là công việc chống trọ thủy và nội xâm rất
khó để thực hiện khi quyền lực bị phân tán như vậy, động thời cũng tiềm ẩn nguy cư tạo phản
cao. Ví dụ: các tướng quân được đi trấn ở các nơi hiểm yếu, quan trọng, thường xa với kinh đô,
vì vậy việc tập hợp lực lượng quân đội để tạo phản, tranh quyền đoạt vị là việc rất dễ xảy ra...
Thứ tư, trình độ quan chức không cao khi bổ nhiệm nhiều chức quan làm cho thừa chức quan
trong triều nhưng lại thiếu năng lực, đội ngũ quý tộc tha hóa, trình độ, năng lực trị nước an dân
không cao nhưng vẫn được trọng dụng. Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không

biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài.
KẾT LUẬN
Như vậy, dưới thời Lý –Trần, nhất là triều Trần mô hình nhà nước quân chủ quý tộc đã rất phát
triển, mặc dù về cơ bản mô hình nhà nước này đã tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi để nhà vua
quản lí điều hành đất nước, nhưng nó cũng có những điểm hạn chế nhất. Việc nắm vững những
điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần là cơ sở để nắm
vững các hình thức nhà nước trong thời phong kiến của nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội 2011.
6


2. Những căn cứ để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân chủ thân dân” –
www.nhantainhanluc.com
3. “Nhà nước thời Lý – Trần” – www.lichsuvietnam.vn
4. />%83
5. />%20luat/LL_NN/Bai6_Hinh_thuc_nha_nuoc
6. />
MỤC LỤC

7


MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................................ 1
I. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc..................................................................................1
1. Khái niệm hình thức chính thể nhà nước...........................................................................................................1
2. Khái niệm thể chế nhà nước quân chủ quý tộc..................................................................................................1
II. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần..............................................................1

III. Biểu hiện cụ thể của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần.........................................................3
1. Nhà nước quân chủ quí tộc là nhà nước chỉ có vua nhưng quyền lực tập trung vào tay vua chưa cao độ......3
2. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, bên cạnh nhà vua còn có đội ngũ quý tộc là hậu thuẫn, bệ đỡ cho vương
triều..........................................................................................................................................................................3
3. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, nhà vua được thế tộc..................................................................................4
IV.Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì Lý-Trần...........................................4
1.Điểm tích cực mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần...................................................................4
2. Điểm hạn chế mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:.................................................................5
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................................................... 6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................................6
.......................................................................................................................................................................................... 7

8



×