MỤC LỤC
MỤC LỤC..........................................................................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.............................................................................................................1
A.ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................................2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ................................................................................................................3
I. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:........................................3
1. Khái quát chung về giao kết HĐDS:......................................................................................3
2. Trình tự giao kết HĐDS:.......................................................................................................3
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN :..............................10
III. KIẾN NGHỊ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO
KẾT HĐDS Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:.............................................................13
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ...................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................17
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐDS: Hợp đồng dân sự.
BLDS 1995: Bộ luật Dân sự năm 1995.
BLDS 2005: Bộ luật Dân sự năm 2005.
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống, việc trao đổi tài sản giữa cá nhân này với cá nhân khác,giữa
tổ chức này với tổ chức khác, giữa tổ chức với cá nhân… là không thể thiếu. Chế
định về hợp đồng dân sự sớm ra đời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi
tài sản giữa các đối tượng với nhau. Kế thừa quy định về hợp đồng dân sự và giao
kết hợp đồng dân sự của Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 ra đời đã hoàn
thiện hơn những khiếm khuyết của quy định về vấn đề này của Bộ luật dân sự 1995
cũng như để phù hợp hơn với tình hình thực tế.
Với tầm quan trọng của vấn đề, trong bài tập học kỳ bộ môn luật dân
sự 2, cùng tìm hiểu về Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định của pháp
luật hiện hành – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, nhằm hiểu rõ hơn quy
định về giao kết hợp đồng dân sự đồng thời tìm ra hạn chế và đề xuất
phương án khắc phục. Và em xin lựa chọn đề tài : “Hãy chỉ ra những bất cập và
định hướng hoàn thiện các quy định trong Bộ luật dân sự 2005 về giao kết hợp
đồng dân sự” để nghiên cứu làm bài tập học kì của mình.
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
2
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Khái quát chung về giao kết HĐDS:
1.1. Khái niệm giao kết HĐDS:
Giao kết HĐDS có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên
theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận
nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự đối với nhau.
1.2. Bản chất của giao kết HĐDS:
Bản chất của HĐDS là sự thỏa thuận, trong đó các bên thể hiện sự bày tỏ và
thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết HĐDS cũng
được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các bên. Quá trình
giao kết HĐDS diễn ra với hai yếu tố: sự bày tỏ ý chí (đề nghi giao kết) và sự chấp
nhận ý chí (chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS). Các bên có thể sử dụng phương
thức giao kết trực tiếp (gặp nhau trao đổi, đàm phán, thương lượng, kí kết…) hoặc
phương thức giao kết gián tiếp (thông qua công văn, đơn chào hàng, các phương
tiện điện tử…) để thỏa thuận, thống nhất ý chí với toàn bộ nội dung của hợp đồng.
HĐDS có nhiều loại nhưng kết quả cuối cùng của quá trình giao kết HĐDS
nói chung đều là thể hiện sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên để làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự trong quan hệ hợp đồng đó
(hình thành HĐDS).
1.3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự:
Theo quy định tại Điều 389 BLDS 2005, khi giao kết hợp đồng các chủ thể
phải tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội:
+ Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng
2. Trình tự giao kết HĐDS:
2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:
2.1.1. Khái niệm, hình thức, nội dung đề nghị giao kết HĐDS:
+ Khái niệm:
BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý
định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với
bên đã được xác định cụ thể” (khoản 1 Điều 390). Như vậy, BLDS 2005 Việt Nam
sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết hợp đồng” mà không sử dụng thuật ngữ “chào
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
3
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
hàng” hay “lời đề nghị” như pháp luật của các nước cũng như Công ước của Liên
Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Công ước Viên 1980).
+ Hình thức đề nghị giao kết HĐDS:
BLDS 2005 có quy định về hình thức HĐDS (có thể được giao kết bằng lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể), nhưng không có quy định cụ thể về
hình thức của đề nghị giao kết HĐDS. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật có
liên quan và thực tế cho thấy việc đề nghị giao kết HĐDS được thực hiện với nhiều
hình thức khác nhau và có thể thể hiện dưới bất kì hình thức nào. Bên đề nghị có thể
trực tiếp (đối mặt) với bên được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông
qua điện thoại, bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện, thông qua
phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà bên giao kết hợp đồng không có
mặt tại cùng một địa điểm để kí kết hợp đồng (bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể…) để biểu lộ ý chí của mình muốn tham gia giao kết với chủ thể
nhất định một HĐ DS.
+ Nội dung đề nghị giao kết HĐDS:
Bên đề nghị giao kết HĐDS phải đưa ra nội dung đề nghi giao kết với những
điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng để bên kia có thể hình dung ra
được HĐDS sẽ được giao kết với nội dung như thế nào, có thể tham gia giao kết
HĐDS đó được hay không ?
BLDS 2005 chưa có quy định cụ thể nội dung của đề nghị giao kết HĐDS và
Luật Thương mại năm 2005 cũng không quy định nội dung của “chào hàng là một
đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa”. Thực tế cho thấy, đề nghị giao kết
hợp đồng và một số hành vi như: lời mới làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng
bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ… rất khó phân biệt mà hậu quả pháp lý của đề
nghị giao kết HĐDS có ý nghĩa rất quan trọng đối với bên đề nghị giao kết nên rất
cần phải xác định nội dung của đề nghị giao kết HĐDS. Theo em, nội dung của đề
nghị giao kết HĐDS cần có các yếu tố chính sau:
Thứ nhất, đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng
của bên đề nghị giao kết HĐDS. Ví dụ: Bên đề nghị giao kết phải thể hiện rõ nội
dung mình muốn bán nhà ở (giao kết hợp đồng mua bán nhà nở) hoặc muốn cho
thuê nhà ở (hợp đồng thuê nhà ở) với chủ thể khác…
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu của loại
HĐ DS mà các bên muốn xác lập: Đề nghị giao kết HĐDS do bên đề nghị chủ động
đưa ra nội dung (chưa phải là HĐDS), nhưng hỏi phải thể hiện rõ những nội dung
chủ yếu của HĐDS mà bên đề nghị dự kiến sẽ giao kết để các chủ thể khác biết
được và tham gia giao kết hợp đồng (đề nghị giao kết hợp đồng chứa các nội dung
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
4
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
của hợp đồng tương lai). Yêu cầu này có nghĩa là đề nghị giao kết HĐDS phải có
đầy đủ nội dung chủ yếu của loại HĐDS để cho phép bên nhận được đề nghị biết
được rằng, để giao kết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý của mình với đề nghị
giao kết thì HĐDS được giao kết.
Nội dung chủ yếu của HĐDS là những điều khoản mà không thể thiếu được
đối với từng loại hợp đồng; Nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó thì
HĐDS không thể giao kết được. Tuy nhiên, BLDS 2005 hiện nay không quy định về
nội dung “chủ yếu” của HĐDS mà chỉ quy định: Tùy theo từng loại hợp đồng, các
bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng là tài
sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; Số lượng, chất lượng; Giá,
phương thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phạt vi phạm hợp
đồng; Các nội dung khác (Điều 402). Quy định này chỉ mang tính chất liệt kê các
nội dung thường gặp trong hợp đồng chứ không phải quy định về nội dung chủ yếu
của hợp đồng (Nội dung chủ yếu là những nội dung mà thiếu nó hợp đồng không thể
được coi là giao kết). Ví dụ: Các quy định về thời hạn, địa điểm, phương thức thực
hiện … nếu không có thỏa thuận thì cũng đã có quy định của pháp luật. Như vậy,
việc xác định nội dung chủ yếu của HĐDS cũng như nội dung của đề nghị giao kết
HĐDS trên thực tế cũng rất khó khăn và phức tạp.
Thứ ba, đề nghị giao kết HĐDS phải hướng tới một hoặc một vài chủ thể
khác đã được xác định cụ thể: Đây là một nội dung quan trọng giúp phân biệt đề
nghị giao kết HĐDS với một số hành vi tương tự như: Lời mời làm chào hàng, báo
giá, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ … Trong nội dung đề nghị
giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị giao kết với bên đã được xác
định về việc giao kết một HĐDS cụ thể và phải được “gửi” cho bên được đề nghị
biết về đề nghị giao kết; Bên đề nghị giao kết phải chịu sự ràng buộc về đề nghị này
đối với bên đã được xác định cụ thể trong giao kết.
Thứ tư, đề nghị giao kết HĐDS có thể xác định thời hạn trả lời chấp nhận đề
nghị giao kết: Nghiên cứu khoản 2 Điều 390 BLDS 2005 có thể nhận thấy pháp luật
Việt Nam có quy định về trường hợp đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời và
như vậy cũng sẽ công nhận có trường hợp đề nghị giao kết không nêu rõ thời hạn trả
lời trên thực tế. Tuy nhiên, BLDS 2005 không có quy định bắt buộc phải nêu rõ thời
hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng cũng
không quy định cụ thể cách thức xác định thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS
trong trường hợp đề nghị giao kết HĐDS không nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
5
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
giao kết và giá trị pháp lý của đề nghi giao kết này. Đây là vấn đề pháp sinh tranh
chấp vvà rất khó giải quyết trên thực tế.
2.1.2. Thời điểm đề nghi giao kết HĐDS có hiệu lực:
Việc xác định đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực là quan trọng vì đó là thời
điểm mà bên nhận đề nghị giao kết có thể chấp nhận lời đề nghị, do vạy ràng buộc
bên đưa ra đề nghị về hợp đồng sẽ quyết định giao kết.
Theo pháp luật dân sự thì đề nghị giao kết HĐDS chỉ phát sinh hiẹu lực khi
nó được thông báo (gửi) cho bên được đề nghị biết. BLDS 2005 bổ sung Điều 391
quy định về thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực, cụ thể:
“1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:
a) Do bên đề nghị ấn định;
b) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ
khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. ....”
Như vậy, pháp luật dân sự Việt Nam quy định thời điểm đề nghị giao kết
HĐDS có hiệu lực theo hướng để cho bên đề nghị giao kết chủ động ấn định thời
điểm trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng đồng thời cũng quy định cách xác định
thời điểm trong trường hợp bên đề nghị giao kết không ấn định thời điểm đề nghị
giao kết HĐDS có hiệu lực (có hiệu lực từ khi bên được đề nghị nhận được đề
nghị). Quy định này bảo đảm phù hợp với quan hệ HĐDS vốn rất đa dạng, phong
phú trên thực tế.
2.1.3. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ và sửa đổi đề nghị giao kết của HĐDS:
BLDS 2005 quy định các trường hợp thay đổi, rút lại đề nghị giao kết HĐDS
như sau:
+ Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao keét
hợp đồng trong các trường hợp sau đây: Nếu bên được đề nghị được thông báo về
việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có
nên rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Khi bên
đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới (Điều
392).
+ Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ
đề nghị do đã nêu rõ quyền này tỏng đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề
nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận đước thông báo
trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 393).
+ Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có điều kiện
hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới (Điều 395). Bộ
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
6
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
luật Dân sự không phân biệt nội dung điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị giao kết là nội
dung chủ yếu hay không chủ yếu nên bất kì điều kiện hoặc sửa đổi nào từ phía bên
được đề nghị giao kết hợp đồng đều được coi là đề nghị mới.
2.1.4. Chấm dứt đề nghi giao kết HĐDS:
Điều 394 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định khá cụ thể các trường hợp
chấm dứt đề nghị giao kết HĐDS dựa trên sự thể hiện ý chí của các bên trong quá
trình giao kết hợp đồng, đề nghi giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp
sau đây:
“1. Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
2. Hết thời hạn trả lời chấp nhận........”.
2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
2.2.1. Khái niệm, hình thức, nội dung chấp nhận đề nghị giao kết:
+ Khái niệm: BLDS 2005 có quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn
bộ nội dung của đề nghị” (Điều 396). Như vậy, chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng dân sự là sự trả lời đồng ý của bên được đề nghị giao kết hợp đồng với toàn bộ
nội dung được nêu trong đề nghị giao kết của bên đề nghị giao kết HĐDS.
+ Hình thức chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS: Trên cơ sở thừa kế và phát
triển các quy định tại khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 và
khoản 2 Điều 403 BLDS 1995, BLDS 2005 có quy định: “Hợp đồng dân sự cũng
được xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn
im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”(khoản 2 Điều
404). Như vậy, “im lặng” cũng có thể được coi là hình thức chấp nhận đề nghị giao
kết HĐDS nếu các bên có thỏa thuận hoặc bên đề nghị giao kết có nêu rõ trong đề
nghị giao kết HĐDS.
+ Nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS: BLDS 2005 không quy định về
nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS, nhưng trên tinh thần nội dung Điều 396
quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo em, nội dung chấp nhận đề
nghị giao kết HĐDS thông thường phải đảm bảo hai yếu tố sau:
Thứ nhất, đồng ý (chấp nhận) toàn bộ nội dung như đã nêu trong đề nghị giao
kết HĐDS tức là chấp nhận đầy đủ và không thiếu nội dung nào.
Thứ hai, không bổ sung thêm nội dung nào khac so với đề nghị giao kết
HĐDS.
Nội dung mà bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời không thỏa mãn hai
yếu tố như đã nêu trên sẽ được coi là đã đưa ra đề nghị mới (trong trường hợp bên
được đề nghị giao kết có sửa đổi, bổ sung, đồng ý một phần nội dung đề nghị giao
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
7
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
kết hoặc có thể đồng ý việc giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà
bên đề nghị giao kết đưa ra), hoặc không chấp nhận đề nghị giao ết HĐDS (trường
hợp trả lời không đồng ý việc giao kết HĐDS với bên đề nghị giao kết). Do đó,
trường hợp các bên có sự trao đổi qua lại, sửa đổi, bổ sung nội dung điều khoản đã
nêu trong quá tình giao kết HĐDS sẽ có sự hoán vị từ bên được đề nghị giao kết hợp
đồng thành bên đề nghị giao kết hợp đồng và ngược lại ... cho đến khi nào các bên
thống nhất thỏa thuận được với nhau đồng ý toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi
đến chính thức giao kết HĐDS.
2.2.2. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS:
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS được quy định tại Điều 397 BLDS
2005 như sau:
“1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới
của bên chậm trả lời ......”.
Như vậy, BLDS 2005 đã quy định bổ sung quy định công nhận thông báo
chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lí do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc
phải biết về lí do khách quan. Đồng thời có quy định “Trong trường hợp việc trả lời
được chuyển qua bưu điện, thì thời điểm trả lời là ngày gửi đi theo dấu của bưu
điện” (khoản 3 Điều 397 BLDS 1995)... nhằm đảm bảo tính thống nhất và phù hợp
với giao lưu dân sự quốc tế.
2.2.3. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐDS:
Vấn đề rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng là một vấn đề mới được
quy định tại Điều 400 BLDS 2005. Theo đó, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có
thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc
cùng với thời điểm bên đề nghị giao kết hợp đồng trong việc rút lại thông báo chấp
nhận giao kết HĐDS, phù hợp với tính chất của quan hệ HĐDS.
2.2.4. Hậu quả pháp lý của sự chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS:
BLDS 2005 quy định làm rõ hậu quả pháp lý của sự trả lời chấp nhận giao kết
HĐDS trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành
vi dân sự (Điều 398) và trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc
mất năng lực hành vi dân sự (Điều 399). Theo đó, trong trường hợp bên đề nghị
giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được đề nghị
giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì việc trả mời chấp nhận
giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Quy định này là rất cần thiết nhằm bảo đảm giá trị
của HĐDS đã được giao kết.
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
8
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
Tuy nhiên, các quy định này chỉ hợp lý khi yếu tố nhân thân của các chủ thể
không đóng vài trò quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng. Còn đối với các
trường hợp đề nghị hay chấp nhận mang tính nhân thân (yếu tố nhân thân của người
đề nghị hay người được đề nghị có vai trò quyết định đối với giao kết, ví dụ như
giao kết hợp đồng với ca sĩ, họa sĩ... ) thì sẽ không hợp lý vì khi ấy đề nghị (chấp
nhận) sẽ hết hiệu lực nếu như bên đề nghị (bên trả lời chấp nhận) chết. Do đó,
BLDS 2005 cũng cần phải quy định cụ thể hơn về vấn đề này.
2.3. Địa điểm, thời điểm giao kết HĐDS:
Trường hợp các bên giao kết HĐDS bằng phương thức trực tiếp thì địa điểm
giao kết được xác định là nơi mà trực tiếp các bên đạt được thỏa thuận đồng ý toàn
bộ nội dung hợp đồng và thời điểm giao kết HĐDS là thời điểm các bên đã thỏa
thuận xong toàn bộ nội dung hợp đồng hoặc là thời điểm bên sau cùng kí vào văn
bản.
Trường hợp các bên giao kết HĐDS bằng phương thức gián tiếp thì việc xác
định địa điểm giao kết và thời điểm giao kết HĐDS được Bộ luật Dân sự năm 2005
quy định cụ thể như sau:
+ Về địa điểm giao kết HĐDS, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Địa điểm
giao kết hợp đồng dân sự do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì địa
điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân
đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng” (Điều 403). Đồng thời bổ sung quy định:
“Trong trường hợp giao kết hợp đồng vắng mặt thì việc xác định nơi giao kết hợp
đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở
chính của pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng” (Điều 771).
+ Về việc xác định thời điểm giao kết HĐDS, Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005
quy định:
“1. Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời
chấp nhận giao kết.
2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên
nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận
giao kết.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về
nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn
bản’’.
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
9
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN :
Pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là BLDS 2005 đã có quy định về giao kết
HĐDS, tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế các chủ
thể, nhất là các hợp đồng được cá nhân giao kết với nhau bằng lời nói thì thường
thực hiện theo thói quen mà ít quan tâm đến quy định của pháp luật, chỉ khi nào việc
thực hiện hợp đồng gặp khó khăn, trở ngại mới tìm hiểu xem pháp luật quy định vấn
đề đó như thế nào.
Báo cáo tổng kểt hàng năm của Ngành Tòa án nhân dân do Tòa án nhân dân
tối cao tổng hợp từ năm 2006 đến hết năm 2009 (từ khi thực hiện BLDS 2005) có
nêu số liệu về các vụ việc dân sự (bao gồm : các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) được thụ lý, giải quyết, nhưng
không có số liệu đánh giá riêng về giải quyết tranh chấp HĐDS cũng như giao kết
HĐDS. Qua tìm hiểu thực tế giải quyết các vụ việc tranh chấp về hợp đồng dân sự
về các Tòa án cho thấy các bên chủ yếu tranh chấp về các quyền, nghĩa vụ dân sự
phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng; Còn tranh chấp trong quá trình giao
kêt hợp đồng rất ít và nếu có thì các bên chủ yếu tranh chấp về khoản tiền đặt cọc để
đảm bảo giao kết HĐ DS.
Về giao kết HĐDS trong trường hợp một người có nhiều tư cách chủ thể:
Giao kết HĐDS là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên với nhau để
xác lập HĐ DS. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp một người lại mang nhiều tư
cách chủ thế khác nhau, khi ấy họ có được giao kết HĐDS với chính họ hay không ?
Để trả lời cho câu hỏi trên, xem xét ví dụ sau :
Tháng 10/2009, ông Nguyễn Gia Hoàng, sinh năm 1971 và vợ là Trịnh Ngọc
Yến, sinh năm 1980, thường trú tại phường Phan Bộ Châu, quận Hồng Bàng, thành
phố Hải Phòng đến phòng công chứng làm thủ tục tặng cho con trai là Nguyễn Văn
Hà, sinh năm 2005 (hiện đang ở cùng với bố mẹ) toàn bộ quyền sử dụng đất 35,6
mét vuông đất ở và tài sản gắn liền với đất là nhà ba tầng cùng vật kiến trúc khác
tại phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải phòng (có Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và là tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp này chủ thể giao kết
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất sẽ như thế nào?
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu
cho bên được tặng cho mà không theo yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho mà
không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận (Điều 465 BLDS 2005).
Cháu Nguyễn Văn Hà mới 4 tuổi (chưa đủ 6 tuổi) không có năng lực hành vi dân sự
nên trong hợp đồng tặng cho phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
10
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
hiện (Điêu21 BLDS 2005). Mà theo quy định tại Điều 141 BLDS 2005 và Điều 39
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của
con chưa thành niên (trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người
khác đại diện theo pháp luật). Như vậy, ông Nguyễn Gia Hoàng và vợ là Trịnh
Ngọc Yến sẽ cùng đứng tên ở cả hai bên của hợp đồng với hai tư cách khác nhau để
giao kết hợp đồng (là bên tặng cho tài sản và đại diện theo pháp luật của cháu
Nguyễn Văn Hà là bên được tặng cho tài sản).
Quan điểm thứ hai cho rằng : Ông Nguyễn Gia Hoàng và vợ là Trịnh Ngọc
Yến không thể cùng đứng tên ở cả hai bên của hợp đồng với hai tư cách khác nhau
để giao kết hợp đồng (là bên tặng cho tài sản và đại diện theo pháp luật của cháu
Nguyễn Văn Hà là bên được tặng cho tài sản) vì như vậy là họ đã giao kết với chính
họ thì không thể xác lập HĐDS được. Như vạy, cần phải có người đại diện khác,
hoặc người giám hộ khác để giao kết hợp đồng này.
Quan điểm thứ ba cho rằng : Riêng đối với hợp đồng mà chỉ mang lại lợi ích
cho bên được đề nghị (như hợp đồng tặng cho tài sản) thì người khôgn đủ năng lực
hành vi dân sự vẫn có thể tham gia giao kết với bên được tặng cho. Bởi lẽ theo hợp
đồng này bên được tặng cho chỉ được hưởng tài sản chứ không phải thực hiện bất cứ
nghĩa vụ nào.
Em đồng ý với quan điểm thứ ba, bở lẽ trên thực tế, khi bố mẹ tặng cho con
mình (dưới 6 tuổi) những tài sản là đồ dùng sinh hoạt hằng ngày cũng không cần
phải có người đại diện khác, hoặc giám hộ khác. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần phải
có quy định hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng dân sự trong trường hợp mà
một người có nhiều tư cách chủ thể để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tế. Ví
dụ như trường hợp giám đốc doanh nghiệp trực tiếp kí kết hợp đồng thuê tài sản
(máy móc, nhà làm trụ sở... ) mà tài sản đó là của chính cá nhân họ.
Về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng bằng văn bản :
Pháp luật không quy định cụ thể về hình thức của đề nghi giao kết hợp đồng
và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Khoản 4 Điều 404 BLDS 2005 có
quy định : “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng kí
vào văn bản”. Theo quy định này có thể hiểu là: Đề nghị giao kết và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng với hình thức bằng văn bản bắt buộc phải có chữ ký của các
bên được hay không? Trên thực tế, đối với những hợp đồng giao kết bằng văn bản
thường phải có chữ ký (hoặc điểm chỉ) của các bên ; Đối với chủ thể giao kết HĐDS
là tổ chức, pháp nhân thì đề nghị giao kết, chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS thường
có chữ kí, có đóng dấu.
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
11
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
Theo quy định tại Điều 41 Luật Công chứng năm 2006 thì việc điểm chỉ được
thay thế việc ký trong văn bản công chứng trong các trường hợp người yêu cầu công
chứng, người làm chứng không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký; Hoặc
theo đề nghị của người yêu cầu công chứng; Hoặc công chứng viên thấy cần thiết để
bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng. Thực tế, khi giao kết HĐDS (trước
khi thực hiện việc chứng nhận hợp đồng) nhiều công chứng viên thường yêu cầu
chủ thể là cá nhân vừa ký vừa điểm chỉ (mặc dù họ không bị khuyết tật và biết ký)
để bảo vệ quyền lợi của các bên.
Như vậy, đề nghi giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
với hình thức văn bản có đầy đủ các nội dung của hợp đồng và nội dung của hợp
đồng nhưng không có chữ ký, hoặc có chữ ký nhưng không đóng dấu đối với pháp
nhân, hoặc không có chữ ký nhưng có điểm chỉ ... thì có giá trị pháp lý ràng buộc
các bên hay không cũng cần phải được quy định cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho
các chủ thể, hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh.
Về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS quy định chưa đảm bảo
tính thống nhất:
Chúng ta cùng xem xét vụ việc sau : Ngày 01/11/2009, Công ty trách nhiệm
hữu hạn Hải Hoàng, có trụ sở tại Phú Thọ, gửi đề nghị giao kết HĐDS cho Công ty
cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh có trụ sở tại Vĩnh Phúc với nội
dung : bán 100 tấn thép cây xây dựng, kích cỡ D8 – D22, chất lượng loại 1, xuât xứ
lô hàng là Việt Nam; giá bán : 9.500.000 VNĐ/tấn (chưa bao gồm VAT), thanh toán
bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản ; điều kiện giao hàng là giao hàng trên phương
tiện của bên mua; nếu Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh
đồng ý mua thì trả lời bằng văn bản trước ngày 15/11/2009. ngày 12/11/2009, Công
ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh chấp nhận đề nghị giao kết với
nội dung nêu trên (theo dấu bưu điện), nhưng đến ngày 17/11/2009 Công ty trách
nhiệm hữu hạn Hải Hoàng mới nhận được. Như vậy, trong trường hợp này chấp
nhận đề nghị giao kết HĐDS có được công nhận hay không ?
Khoản 1 Điêu 397 BLDS 2005 có quy định: “1. Khi bên đề nghị có ấn định
thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong
thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời
hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời ......”.
Như vậy, trả lời chấp nhận đề nghị của Công ty cổ phần xây dựng và kinh
doanh nhà Phước Thịnh được thực hiện trong thời gian đã nêu trong đề nghị giao kết
nên có hiệu lực; Nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng lại nhận được trả
lời chấp nhận đề nghị giao kết chậm 3 ngày nên được coi là một đề nghị mới của
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
12
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh đối với Công ty trách
nhiệm hữu hạn Hải Hoàng. Đây là điểm quy định không thống nhất của khoản 1
Điều 397 BLDS 2005, khi đồng thời quy định việc trả lời chấp nhận có hiệu lực khi
được thực hiện trong thời hạn đã được ấn định – tức là khi trả lời chấp nhận được
gửi đi đã có hiệu lực lại vừa quy định bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả
lời khi đã hết thời hạn trả lời thì lời chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên
chậm trả lời – tức là trả lời chấp nhận đề nghị có hiệu lực và được công nhận khi
bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời trong thời hạn ấn định.
III. KIẾN NGHỊ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIAO KẾT HĐDS Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:
Việc hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam phải tạo ra bước
chuyển biến căn bản để điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong quá trình giao
kết hợp đồng giữa các chủ thể theo hướng tạp thuận lợi và bảo đảm sự an toàn pháp
lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi bài viết của mình,
em xin nêu ra một số kiến nghị, đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về giao kết HĐDS ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật quy định về giao kết HĐDS theo hướng Bộ
luật Dân sự là đạo luật chung điều chỉnh vè giao kết hợp đồng trong lĩnh vực dân
sự, kinh doanh, thương mại, lao động:
Các quy định về HĐDS trong BLDS 2005 cần được sửa theo hướng dùng
khái niệm “hợp đồng” để thay thế cho khái niệm “hợp đồng dân sự”, dùng thuật ngữ
“giao kết hợp đồng” thay cho “giao kết hợp đồng dân sự” để áp dụng chung cho tất
cả các loại hợp đồng (dân sự, kinh doanh, thương mại, lao đông). Ngoài ra, các quy
định chung trong BLDS mà cần có thêm các quy định có tính chất riêng về giao tiếp
hợp đồng chỉ áp dụng cho loại hợp đồng cụ thể thì sẽ quy định trong các văn bản
pháp luật chuyên ngành như: Bộ luật Lao động; Luật thương mại; Luật chứng
khoán... Như vậy sẽ đảm bảo phù hợp với thực tế cũng như tính ổn định cao của
pháp luật.
2. Quy định nguyên tắc giao kết HĐDS bảo đảm tính thống nhất và tránh
trùng lặp:
Theo em, việc giao kết HĐDS phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản đã
được quy định tại Phần thứ nhất “Những quy định chung của Bộ luật Dân sự, đồng
thời tuân theo các nguyên tắc khác liên quan trực tiếp đến quá trình giao kết hợp
đồng. Do đó, nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 389
BLDS 2005 có thể sửa đổi, bổ sung và quy định là: “Việc giao kết HĐDS phải tuân
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
13
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
theo những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 8,
Điều 10, Điều 11 của Bộ luật này và nguyên tắc hợp tác, ngay thẳng”. Quy định
trên vừa thể hiện được các nguyên tắc đã được quy định tại Điều 389 BLDS 2005
đồng thời bổ sung nguyên tắc: “tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp”, “tôn trọng
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”,
“tuân thủ pháp luật” mà các bên vẫn phải tuân theo khi giao kết HĐDS. Đặc biệt là
giới hạn tự do giao kết hợp đồng “không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” cũng
như được thay thể bởi giới hạn “không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội” bảo đảm sự chính xác và tính thống nhất trong Bộ luật Dân sự.
3. Quy định cụ thể hình thức, nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để bảo đảm thuận tiện cho các bên trong
quá trình giao kết hợp đồng:
+ Về hình thức đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng: Theo em, BLDS có thể quy định hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng
và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo hướng khái quát là: “Đề nghị giao kết
hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể thể hiện bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác”. Quy định này vừa đảm bảo rõ ràng, thuận tiện cho các bên
trong quan hệ hợp đồng, vừa đảm bảo tính linh hoạt khi có các hình thức giao kết
hợp đồng mới phát sinh trên thực tế.
Bộ luật dân sự cũng cần quy định đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghi giao
kết hợp đồng với hình thức văn bản bắt buộc phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của chủ
thể giao kết hợp đồng. Đối với chủ thể giao kết HĐDS là tổ chức, pháp nhân thì đề
nghị giao kết, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có chữ kí của người có thẩm
quyền và có đóng dấu của tổ chức, pháp nhân đó.
+Về nội dung đề nghị giao kết hợp đồng: Theo em, nội dung của đề nghị
giao kết hợp đồng cần có ba yếu tố chính: (1) Đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện
ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết hợp đồng; (2) Phải có các nội
dung chủ yếu của loại hợp đồng mà các bên muốn xác lập; (3) Phải thể hiện rõ ý
định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết với chủ thể khác đã được xác định
cụ thể.
Ngoài ra, nội dung đề nghi giao kết HĐDS có thể xác định rõ thời hạn trả lời
chấp nhận đề nghị giao kết. Bộ luật Dân sự cũng cần quy định cụ thể cách thức xác
định thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết thì không được ấn định rõ trong đề
nghị theo hướng: Đề nghị giao kết phải được chấp nhận trong khoảng thời gian hợp
lý tùy từng trường hợp, có xem xét đến tốc độ truyền tin mà bên đề nghị dùng; Hoặc
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
14
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
theo hướng quy định rõ số ngày (15 ngày hoặc 30 ngày) hoặc giao cho Tòa án xác
định cụ thể khi giải quyết vụ việc tranh chấp.
Bộ luật Dân sự cũng cần quy định cụ thể về nội dung đề nghị giao kết hợp
đồng trong trường hợp không xác định rõ nội dung của đề nghị giao kết trong
trường hợp hứa thưởng và thi có giải, trong đó người công khai hứa thưởng, người
tổ chức cuộc thi có giải không hướng tới chủ thể xác định cụ thể (hoặc trong các
trường hợp tương tự) thì được coi là đề nghị giao kết hợp đồng đặc biệt hay đề nghị
giao kết hợp đồng công cộng.
+Về nội dung chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Các quy định về hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự là quy định chung nhất áp dụng được cho tất cả các loại
hợp đồng trong đó có lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Do đó, cũng cần nghiên cứu
và quy định rõ đối với trường hợp trả lời có sửa đổi, bổ sung nhưng không ảnh
hưởng nhiều đến các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng thì được coi là sự
chấp nhận, trừ khi bên đề nghị giao kết không đồng ý. Theo em, trả lời đề nghị giao
kết hợp đồng có sửa đổi, bổ sung nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các nội dung
trong đề nghị giao kết hợp đồng như: Sửa đổi kết cấu điều khoản hợp đồng; Nêu rõ
pháp luật áp dụng khi có tranh chấp... mà được bên đề nghị giao kết hợp đồng đồng
ý thì có thể coi là chấp nhận đề nghị giao kết. Như vậy, sẽ phù hợp với quan hệ hợp
đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại vốn rất năng động, linh hoạt và thông
lệ quốc tế.
4. Bổ sung một số trường hợp làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng cho
phù hợp với thực tế:
Điều 394 BLDS 2005 quy định về các trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng
chấm dứt. Tuy nhiên, trên thực tế có các trường hợp khác cũng có thể làm chấm dứt
đề nghi giao kết hợp đồng như: Trường hợp một hoặc hai bên (Bên đề nghị và bên
được đề nghị giao kết) chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị phá sản trước khi
bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị; Đối tượng của HĐ DS dự kiến giao kết
được nêu trong đề nghị giao kết không còn nữa do nguyên nhân bất khả kháng (Hợp
đồng thuê nhà ở, nhưng nhà bị đổ dao bão...). Do đó, theo em, cần bổ sung các
trường hợp này cho phù hợp với thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên.
5. Cần bổ sung quy định nguyên tắc xác định địa điểm giao kết hợp đồng
trước hết phải là nơi trực tiếp giao kết hợp đồng, sau đó mới đến các nơi khác:
Theo em, Điều 403 BLDS 2005 cần quy định cụ thể là:
“1. Địa điểm giao kết hợp đồng là nơi các bên trực tiếp giao kết hợp đồng;
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
15
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
2. Trường hợp không xác định được địa điểm giao kết hợp đồng theo khoản
1 Điều này thì địa điểm giao kết HĐDS do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa
thuận thì địa điểm giao kết HĐDS là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp
nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.”
Quy định như vậy sẽ đảm bảo xác định đúng địa điểm giao kết hợp đồng,
đồng thời phù hợp với việc giao kết hợp đồng trên thực tế.
6. Quy định cụ thể nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong quá trình
giao kết hợp đồng:
Theo em, Bộ luật Dân sự cần bổ sung một điều quy định về nghĩa vụ cung cấp
thông tin của các bên giao kết hợp đồng. Theo đó các bên có nghĩa vụ cung cấp
thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời trong quá trình giao kết hợp đồng. Cũng cần có
quy định bên đề nghị giao kết có nghĩa vụ thông báo không chậm trễ cho bên được
đề nghị biết họ đã không nhận được trả lời chấp nhận đề nghị trong hạn nên đề nghị
giao kết hợp đồng bị hủy bỏ; Quy định bên được đề nghị giao kết có nghĩa vụ thông
báo kịp thời bằng phương tiện truyền tin nhanh nhất để bên đề nghị giao kết hợp
đồng biết trước khi bên đề nghị giao kết nhận được văn bản chính thức theo đường
bưu điện...
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Việc hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam phải tạo ra bước
chuyển biến căn bản để điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong quá trình giao
kết hợp đồng giữa các chủ thể theo hướng tạo thuận lợi và bảo đảm sự an toàn pháp
lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi bài viết của mình,
em đã nêu ra một số kiến nghị, đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về giao kết HĐDS ở Việt Nam trong thời gian tới.
Trên đây là toàn bộ ý kiến của em về đề tài: ““Hãy chỉ ra những bất cập và
định hướng hoàn thiện các quy định trong Bộ luật dân sự 2005 về giao kết hợp
đồng dân sự””, vì nhận thức còn hạn chế nên khi tiếp cận vấn đề không tránh khỏi
những sái sót. Kính mong nhận được sự bổ sung, đánh giá của các thầy, cô giáo để
bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
16
Bài tập học kì – Môn luật Dân sự 2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam 2, Nxb CAND, Hà
Nội, 2009.
2. Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Vũ Đức Lịch, Luận án thạc sĩ luật học, Một số vấn đề cơ bản về giao kết
HĐDS trong pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 2010.
4. Trần Kim Chi, Luận án thạc sĩ luật học, Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
trong HĐDS, Hà Nội, 2005.
5. Trang wed: />
Trần Thị Nhàn-Lớp N01.TL1-Nhóm 2-ĐH Luật Hà Nội
17