Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CHÍNH SÁCH THÚC đẩy XUẤT KHẨU HÀNG hóa của VIỆT NAM NHỮNG điều CHỈNH KHI GIA NHẬP WTO và GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.52 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
-----o0o-----

BÀI TẬP MÔN : VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ
ĐỀ TÀI
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM:
NHỮNG ĐIỀU CHỈNH KHI GIA NHẬP WTO VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Học viên thực hiện: Chu Thành Biên
Mã học viên: CH210799
Lớp: CH21Q

Hà Nội, tháng 03/2013


MỤC LỤC
Trang
LỜI
MỞ
ĐẨU .......................................................................................................

2

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
XUẤT
KHẨU
HÀNG
HÓA
.......................................................................................



3

I.1. Khái niệm về chính sách thúc đẩy xuất khẩu..........................................

3

I.2. Vai trò của chính sách thúc đẩy xuất khẩu ............................................

3

I.3. Sự cần thiết điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa khi
gia nhập WTO ..............................................................................................

4

CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP
WTO .........................

5

II.1. Thực trạng điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa...........

5

II.1.1.Chính sách ưu đãi qua thuế.................................................................

6


II.1.2. Chính sách phi thuế quan...................................................................

7

II.1.3. Chính sách thương nhân.....................................................................

8

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP
WTO ....

9

III.1. Chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu.................................

9

III.2. Chính sách thuế nội địa..................................................................

9

III.3. Xây dựng rào cản phi thuế quản phù hợp với điều kiện hội nhập........

9

III.4. Điều chỉnh chính sách tài chính, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu............

10


III.5. Tiếp tục bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu........................................

10

III.6. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại và thông tin thị trường........

11
2


III.7. Sử dụng linh hoạt chính sách tỷ giá trong điều kiện hội nhập WTO
để thúc đẩy xuất khẩu và ổn định kinh tế vĩ mô......................................
KẾT
LUẬN ...........................................................................................................

11
12

LỜI MỞ ĐẦU
Thời gian qua, chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa đã đóng vai
trò quan trọng vào việc điều hành hoạt động xuất khẩu của nhà nước
trong từng thời kỳ khác nhau, tạo môi trường cho hoạt động kinh doanh
xuất khẩu của các doanh nghiệp, khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, phát
triển và nâng cao hiệu quả sản xuất trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế
với nước ngoài, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất
nước.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc
biệt là sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện cải cách và điều
chỉnh hệ thống chính sách thương mại nói chung và chính sách thúc đẩy

xuất khẩu hàng hóa nói riêng theo hướng tự do hoá và tương thích với
các chuẩn mực quốc tế. Nhờ đó, hoạt động xuất khẩu thời gian qua đã
đạt được những thành tựu đáng kể, các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đã phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh
trên các cấp độ của chúng ta còn thấp, khả năng điều chỉnh của nền kinh
tế chưa cao, chưa theo kịp với sự thay đổi của môi trường kinh tế quốc
tế. Vì vậy, để tối đa hoá những lợi ích kinh tế và thương mại từ hội nhập
kinh tế quốc tế, giảm thiểu những mặt tiêu cực, chúng ta cần phải có một

3


hệ thống chính sách đẩy mạnh xuất khẩu hoàn chỉnh và đồng bộ trong hệ
thống các chính sách kinh tế, xã hội khác.
Vì những lý do trên, em đã lựa chọn nghiên cứu “Chính sách thúc
đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam: Những điều chỉnh khi gia nhập
WTO và giải pháp hoàn thiện”. Đây là vấn đề cần thiết và cấp bách để
hoàn thiện chính sách xuất khẩu của Việt Nam.

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT
KHẨU HÀNG HÓA
I.1. Khái niệm về chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu là một bộ phận nằm trong hệ thống
chính sách điều hành xuất nhập khẩu nói riêng và chính sách kinh tế - xã
hội nói chung của Nhà nước, nó có quan hệ chặt chẽ và phục vụ sự phát
triển kinh tế của đất nước. Các nước khi xây dựng chính sách kinh tế xã hội nói chung đều nhằm vào mục xây dựng xã hội phồn vinh, đáp
ứng ngày càng cao nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân, chính sách
thúc đẩy XK cũng phải hướng tới mục đích đó.
Chính sách XK theo nghĩa rộng bao gồm các bộ phận cấu thành

như chính sách mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách thuế quan,
các biện pháp cấm đoán, hạn chế, kiểm soát hay khuyến khích xuất khẩu
4


hàng hoá, chính sách đầu tư liên quan đến thương mại. Do đó, chính
sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa tác động đến khối lượng cũng như cơ
cấu hàng hoá xuất khẩu và nó cũng có ảnh hưởng đến cung cầu của
nhiều loại hàng hoá khác nhau trong nước, ảnh hưởng đến môi trường
cạnh tranh, quy mô đầu tư cũng như mô hình tăng trưởng của cả nền
kinh tế. Như vậy, chính sách thúc đẩy xuất khẩu có thể tác động đến mọi
hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước.
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của một quốc gia là một bộ phận
quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế của quốc gia đó. Tuy
nhiên, khi đã trở thành thành viên của WTO, các nước phải xây dựng và
thực hiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu của mình phù hợp với các quy
định trong các hiệp định cũng như các nguyên tắc và hành vi thương mại
được quy định trong WTO.
I.2 Vai trò của chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Bằng các công cụ để quản lý hoạt động xuất khẩu như: thuế, công
cụ hành chính, các đòn bẩy kinh tế, các biện pháp kỹ thuật,...chính sách
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa tác động đến sự biến động của giá cả đối
với người tiêu dùng và người sản xuất hoặc đưa đến sự điều chỉnh quan
hệ cung- cầu trên thị trường về một số loại hàng hoá nhất định. Một số
công cụ như thuế gây tác động trực tiếp đến giá cả đối với cả người sản
xuất lẫn người tiêu dùng, đồng thời nó có thể làm cho các hoạt động
thương mại phát triển hoặc bị thu hẹp. Những công cụ khác như biện
pháp quy định về các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng tác động tương tự vị nó
sẽ dẫn đến việc hạn chế số lượng hàng hoá được đưa vào kinh doanh
xuất khẩu. Các khoản trợ cấp và khen thưởng trực tiếp cho các nhà sản

xuất kinh doanh trong nước sẽ làm tăng khả năng mở rộng quy mô sản
5


xuất và kinh doanh, qua đó tăng cường sức cạnh tranh với hàng nhập
khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của trong nước
trên thị trường nhưng không đưa đến sự tăng giá trực tiếp đối với giá
bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Như vậy, chính sách thúc đẩy XK có vai trò tác động đến quá trình
tái sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, khai
thác triệt để các lợi thế so sánh của nền kinh tế, phát triển các ngành sản
xuất thương mại hàng hoá với quy mô tối ưu, từ đó đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh doanh.
I.3 Sự cần thiết điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng
hóa khi gia nhập WTO
I.3.1 Sự phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội Việt Nam
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam được đề ra tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần từ VI (1986) đã giúp cho nền kinh tế Việt
Nam đạt được những thành tựu kinh tế tế vĩ mô đáng kể, cơ bản chuyển
từ một nền kinh tế trì trệ, lạm phát cao và bị cô lập vào cuối những năm
1980, sang một nền kinh tế mở, tăng trưởng bền vững và ổn định vào
những năm 1990 và những năm đầu thập kỷ thứ nhất của thế kỷ 21.
I.3.2 Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng tự do
hoá thương mại toàn cầu
Việc hội nhập vào kinh tế thế giới giúp cho Việt Nam tránh được
tình trạng phân biệt đối xử trong quan hệ với các nước, đặc biệt là với
nước lớn, có thể tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế để
giải quyết tranh chấp khi phát sinh, vừa bảo vệ được lợi ích quốc gia,
vừa tăng thêm uy tín của Việt Nam trong thương mại quốc tế. Mở cửa,
hội nhập giúp mở rộng thị trường xuất khẩu, tìm kiếm nguồn cung cấp

6


đầu vào cho sản xuất trong nước, tăng sức thu hút đầu tư và chuyển giao
kỹ thuật, công nghệ từ các nước khác, tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt
Nam mở rộng quan hệ, học tập, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến,
nâng cao sức cạnh tranh.
I.3.3. Thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO
Bộ văn kiện gia nhập WTO là thoả thuận thương mại đồ sộ nhất cả
về qui mô và mức độ cam kết mà Việt Nam đã từng ký kết. Các cam kết
đa phương này của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng các nguyên
tắc được quy định trong các hiệp định của WTO. Đây là những nguyên
tắc mang tính ràng buộc với mọi thành viên nhằm mục đích đưa hệ
thống luật lệ và cơ chế điều hành thương mại của các nước thành viên
phù hợp với chuẩn mực chung. Về cơ bản, chúng ta cam kết thực hiện
toàn bộ các hiệp định WTO ngay thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do
nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển
đổi nên Việt Nam yêu cầu và được các nước trong WTO chấp nhận cho
hưởng thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan
đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh...
Chương 2
NHỮNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
II.1. Thực trạng điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa
Ngày 07/11/2006, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và
Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Pascal Lamy đã
ký vào Nghị định thư gia nhập của Việt Nam kết thúc 11 năm tiến hành
hàng loạt các cuộc đàm phán song phương, đa phương và tham vấn kể từ
7



khi đệ đơn gia nhập vào năm 1995. Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, từ đây Việt Nam cũng
chính thức phải thực hiện các cam kết đã đưa ra với WTO.
Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường thế giới hầu như
đã ổn định. Vì vậy thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam luôn
khó khăn. Làm thế nào để hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường
thế giới là điều không dễ dàng. Bởi vậy, trong thời gian qua, Việt Nam
dành nhiều chính sách hỗ trợ sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu, những
chính sách đó là:
II.1.1. Chính sách ưu đãi qua thuế
Biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua thuế thường được
thực hiện dưới hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Các chế độ ưu đãi
trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu bao gồm: thuế xuất khẩu và các loại
phí, lệ phí liên quan tới xuất khẩu. Các ưu đãi gián tiếp gồm thuế nhập
khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế TTĐB. Riêng thuế GTGT vừa
ưu đãi trực tiếp vừa ưu đãi gián tiếp.
Từ năm 1995 trở lại đây, đặc biệt là từ khi trở thành thành viên
chính thức của WTO, hệ thống thuế Việt Nam liên tục được sửa đổi bổ
sung, ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu
và khuyến khích hơn nữa các doanh nghiệp này trong việc xuất khẩu
hàng ra nước ngoài.
+ Đối với thuế xuất khẩu, WTO không có nội dung nào yêu cầu
cam kết về thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, một số thành viên (chủ yếu là các
nước đã phát triển như: Hoa Kỳ, Australia, Canada và EU) yêu cầu cắt
giảm tất cả thuế xuất khẩu đặc biệt đối với phế liệu kim loại màu và kim
loại đen vào thời điểm gia nhập với lý do đây là một hình thức nhằm hạn
8



chế thương mại, gây nên tình trạng khan hiếm nguyên liệu, làm đẩy giá
trên thị trường thế giới và trợ cấp cho doanh nghiệp trong nước sử dụng
các mặt hàng này.
+ Thuế TTĐB: Theo cam kết, Việt Nam cam kết trong vòng 3 năm
kể từ khi gia nhập WTO sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một
mức thuế phần trăm đối với rượu chưng cất trên 20 độ cồn và chỉ áp
dụng một mức thuế phần trăm đối với bia. Thuế TTĐB cũng quy định
hàng hoá do các cơ sở sản xuất, gia công trực tiếp xuất khẩu ra nước
ngoài không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB. Thực hiện cam kết gia
nhập WTO, Quốc hội đã ban hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt số
27/2008/QH12 ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/4/2009; các quy định đối với mặt hàng rượu và bia có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2010.
+ Thuế GTGT: Một chính sách thuế không thể thiếu trong việc
khuyến khích xuất khẩu là thuế GTGT. Chính phủ đã quy định trong
Luật thuế GTGT là áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất
khẩu. Toàn bộ thuế GTGT đầu vào doanh nghiệp đã nộp khi mua hàng
hoá, nguyên liệu… để sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ xuất khẩu sẽ được
Nhà nước hoàn lại toàn bộ.
II.1.2. Chính sách phi thuế quan
Chính sách thúc đẩy hoạt động XK hàng hóa bằng hàng rào phi
thuế quan mà Việt Nam áp dụng chủ yếu trong thời gian qua là:
- Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, số vốn tự có quá nhỏ nên không thể tự đầu tư đổi mới công
nghệ, không đáp ứng được các yêu cầu sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Vì
9



vậy, chính sách tín dụng xuất khẩu sẽ hỗ trợ vốn cố định và vốn lưu
động cho các doanh nghiệp thực hiện các khâu sản xuất, chế biến, thu
mua, vận chuyển và thanh toán hàng xuất khẩu.
Hoạt động hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đã giúp cho các doanh nghiệp
nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường thế
giới, giúp cho các nhà sản xuất bán được sản phẩm và mở rộng thị
trường. Như vậy, việc cho vay tín dụng xuất khẩu đã có một sự khởi đầu
tích cực. Tuy nhiên, quy trình thủ tục vay vốn còn rườm rà, phức tạp,
gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, vì vậy có nhiều doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh khó tiếp cận được các nguồn
vốn vay này.
- Hỗ trợ xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là những hoạt động hỗ trợ kinh doanh, tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hoá, cung ứng dịch vụ. Hỗ trợ xúc tiến thương mại có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm thị
trường, tìm kiếm khách hàng. Vì vậy, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính
phối hợp với Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) và các Bộ liên
quan nghiên cứu, cải tiến chế độ chi hỗ trợ phát triển thị trường và xúc
tiến thương mại cho các chương trình trọng điểm, nhất là những chương
trình khuyếch trương mặt hàng xuất khẩu mới hoặc thâm nhập thị trường
mới. Đây là chủ trương rất đúng đắn bởi nguồn kinh phí dành cho hoạt
động này của chúng ta còn rất nhỏ, nếu rải đều cho các doanh nghiệp thì
hiệu quả không lớn.
- Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu

10


Để khuyến khích xuất khẩu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

Quyết định số 2011/QĐ-TTg ngày 05 tháng 11 năm 2010 về việc thí
điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, trước hết là thí điểm thực hiện trong
giai đoạn 2011-2013 áp dụng với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và
tiềm năng, được chia làm 2 nhóm: Nhóm I gồm các mặt hàng: Thủy sản,
gạo, cao su, cà phê, rau quả, hạt tiêu, nhân điều, chè, sắn và các sản
phẩm từ sắn; Nhóm II gồm các mặt hàng: Dệt may, giày dép, điện tử và
linh kiện mát tính, gốm sứ, thủy tinh, mây tre, sản phẩm gỗ, dây và cáp
điện, xe đạp và phụ tùng, túi, va ly, máy móc thiết bị, phương tiện vận
tải. Mục đích của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là ngăn ngừa và giảm
thiểu rủi ro trong tín dụng xuất khẩu góp phần đảm bảo an toàn tài chính
và thúc đẩy xuất khẩu. Ngân sách Nhà nước hỗ trợ triển khai thực hiện
thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu theo quy định của Bộ tài chính.
Nguồn hỗ trợ của Ngân sách nhà nước hàng năm được bố trí trong
Chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch quốc gia.
II.1.3. Chính sách thương nhân
Chính sách thương nhân là những quy định của Nhà nước về điều
kiện cho phép đối tượng nào được trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất
khẩu. Nếu dựa vào nội dung các văn bản chính sách đã ban hành, có thể
thấy rằng quyền thương mại của các doanh nghiệp đăng ký tại Việt Nam
ngày càng trở nên thông thoáng hơn, mở rộng hơn. Việc điều chỉnh
chính sách về quyền kinh doanh XK được thực hiện liên tục và theo
hướng mở rộng hơn cho các chủ thể kinh doanh.
Trước yêu cầu của WTO, bằng việc ban hành Nghị định
12/2006/NĐ-CP thì quyền thương mại của các doanh nghiệp đã được tự
do, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều thực sự được
11


bình đẳng trước pháp luật, đều được quyền trực tiếp tham gia vào hoạt
động xuất khẩu.

Tiếp đó, để thực hiện Nghị quyết số 71/2006/QH ngày 29/11/2006
của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới, Chính phủ đã ban hành Nghị định
90/2007/NĐ-CP ngày 31 tháng 5 năm 2007 quy định về quyền xuất
khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện
tại Việt Nam. Theo đó, các thương nhân nước ngoài không có hiện diện
tại Việt Nam thuộc các nước, vùng lãnh thổ là thành viên của WTO và
các quốc gia, vùng lãnh thổ có thỏa thuận song phương với Việt Nam sẽ
được thực hiện các quyền sau: Thực hiện các quyền xuất khẩu, nhập
khẩu khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền xuất khẩu, quyền
nhập khẩu đối với các loại hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu
theo quy định của pháp luật Việt Nam và theo lộ trình cam kết về mở
cửa thị trường của Việt Nam; Thực hiện mua hàng hoá để xuất khẩu và
bán hàng hoá nhập khẩu với thương nhân Việt Nam có đăng ký kinh
doanh các loại hàng hoá đó theo quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam.
Chương III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT
KHẨU
HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
III.1. Về chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu
Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO, chúng ta cần tận
dụng những điều khoản ưu đãi đặc biệt và khác biệt của các nước thành
viên WTO dành cho các nước đang phát triển. Chúng ta sẽ có lộ trình 8
năm sau khi gia nhập, tức là phải đến năm 2015.
12


Trong thời gian qua chúng ta đã có nhiều ưu đãi dành cho xuất
khẩu như nhiều mặt hàng xuất khẩu không bị đánh thuế, hoặc nếu có thì

cũng rất thấp; hoàn lại thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu là đầu vào
cho sản xuất hàng xuất khẩu; thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu là 0%
và hoàn lại toàn bộ thuế GTGT đầu vào đã nộp; thuế tiêu thụ đặc biệt
không áp dụng đối với hàng xuất khẩu.
III.2. Chính sách thuế nội địa
Việc điều chỉnh đối với các loại thuế nội địa như: thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế giá trị gia tăng,… cần phải đảm bảo không phân biệt đối xử
giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, đồng thời phải minh
bạch, rõ ràng. Đây là yêu cầu của WTO mà chúng ta phải tuân thủ ngay
từ thời điểm gia nhập.
III.3. Xây dựng rào cản phi thuế quan phù hợp với điều kiện hội
nhập
Trong điều kiện đã gia nhập WTO, thực hiện cam kết quốc tế,
chúng ta cần phải rà soát lại toàn bộ những biện pháp phi thuế quan,
những biện pháp không phù hợp như cấm đoán, hạn ngạch và giấy phép
cần được xem xét lại. Nên hạn chế sử dụng các biện pháp hạn chế định
lượng trong chính sách xuất khẩu. Trong quá trình điều chỉnh chính sách
thúc đẩy XK hàng hóa, Việt Nam đã có những bước tiến tương đối
nhanh trong việc cắt giảm biện pháp hạn chế định lượng. Tuy nhiên, vấn
đề quan trọng là Việt Nam cần phải vận dụng một cách hợp pháp các
biện pháp này trong quản lý hoạt động XK để phát huy những lợi ích
của Việt Nam khi tham gia vào thương mại quốc tế, tạo thuận lợi cho
các doanh nghiệp khi làm thủ tục XK.

13


Các biện pháp thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng và công khai.
Theo đó các cơ quan chức năng phải nâng cao năng lực quản lý nhà
nước, nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn, quy định rõ quy

trình thủ tục và thời gian cấp phép, qua đó Nhà nước vừa thúc đẩy hoạt
động XK, mặt khác lại tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong quá trình làm thủ tục XK.
III.4. Điều chỉnh chính sách tài chính, tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu
Trong thời gian vừa qua, Ngân hàng phát triển Việt Nam đã được
thành lập (trên cơ sở của Quỹ hỗ trợ phát triển), là nơi tập trung toàn bộ
các công cụ hỗ trợ tài chính, tín dụng cho xuất khẩu vào một kênh duy
nhất. Đồng thời Việt Nam đã cam kết xoá bỏ ngay lập tức trợ cấp xuất
khẩu đối với nông sản sau khi gia nhập WTO và 5 năm sau đối với trợ
cấp công nghiệp, xoá bỏ hình thức thưởng xuất khẩu từ năm 2007. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn có thể vận dụng một cách linh hoạt các phương
thức hỗ trợ tín dụng cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nước theo
các hướng đa dạng hoá hình thức hỗ trợ xuất khẩu.
Những biện pháp tài chính, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu mà Việt Nam
áp dụng trong những năm qua như cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi,
thưởng xuất khẩu, hỗ trợ giá đầu vào cho sản xuất đã phần nào giải
quyết khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, những biện
pháp này là trái với quy tắc cạnh tranh công bằng và nằm trong nhóm bị
cấm áp dụng của WTO. Những biện pháp này phải hạn chế dần và đi
đến xoá bỏ trong thời gian nhanh nhất.
III.5. Tiếp tục bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với
các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu
14


- Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, Việt
Nam cần thu hút vốn đầu tư vào sản xuất những ngành hàng có khẳ năng
xuất khẩu cao. Để làm được điều này, việc xây dựng các chính sách ưu
đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất

khẩu là cần thiết. Với những chính sách khuyến khích sản xuất hàng
xuất khẩu mạnh mẽ, các doanh nghiệp sẽ xem xét chuyển hướng sản
xuất khinh doanh hướng về xuất khẩu nhằm tăng lợi nhuận.
III.6. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại và thông tin thị
trường
- Thay đổi cơ bản các chương trình xúc tiến xuất khẩu theo hướng
thiết kế các chương trình xúc tiến chuyên ngành đối với từng mặt hàng
mới (hoặc mặt hàng cần hỗ trợ), tập trung vào một số thị trường mới
(hoặc thị trường cụ thể cần ưu tiên phát triển).
- Triển khai thực hiện một số chiến dịch lớn để quảng bá hình ảnh
quốc gia trên cơ sở xây dựng phương án, kế hoạch cụ thể có tính chiến
lược, đồng thời, tăng cường hơn nữa công tác quảng bá sản phẩm Việt
Nam trên các phương tiện thông tin, truyền thông ở nước ngoài, đặc biệt
trên các kênh truyền hình, tạp chí quốc tế nổi tiếng (CNN, BBC,
Economics...).
- Nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và đại diện
thương mại của Việt Nam ở nước ngoài để làm cầu nối giúp doanh
nghiệp xuất khẩu trong nước tìm hiểu thông tin, thâm nhập thị trường;
đẩy mạnh việc hình thành các trung tâm thương mại Việt Nam, các trung
tâm giới thiệu và bán sản phẩm hoặc các công ty chuyên bán hàng Việt
Nam tại các thị trường lớn ở ngoài nước nhằm xúc tiến bán hàng và
quảng bá thương hiệu của Việt Nam.
15


- Nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong công
tác dự báo, thông tin thị trường và định hướng phát triển thị trường xuất
khẩu. Tập trung hơn nữa vào việc xây dựng các cơ sở dữ liệu về thị
trường, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh và tổ chức các kênh cung cấp
thông tin đầy đủ, kịp thời tới các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.

III.7. Sử dụng linh hoạt chính sách tỷ giá trong điều kiện hội
nhập WTO để thúc đẩy xuất khẩu và ổn định kinh tế vĩ mô
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập hiện nay của Việt Nam, việc
theo đuổi chế độ tỷ giá cố định, thoát ly sự nhạy bén của thị trường sẽ
dẫn đến các vấn đề sau: Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn thế giới,
Việt Nam sẽ mất dần khả năng cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu,
gây tổn thất cho cán cân thanh toán và ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong
nước; Để bảo vệ tỷ giá cố định, chính phủ thường phải sử dụng các
công cụ hạn chế nhập khẩu như thuế quan, phi thuế quan và hạn chế các
luồng vốn luân chuyển quốc tế nhằm kiềm chế thâm hụt cán cân thanh
toán. Điều này sẽ cản trở quá trình đẩy mạnh hội nhập, hạn chế luồng
nhập khẩu mà hiện nay nước ta đang cần thiết để thực hiện công nghiệp
hoá.
Mặt khác, áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi là phù hợp với xu
thế toàn cầu hoá kinh tế, nhưng đối với Việt Nam, một quốc gia đang
trong quá trình chuyển đổi, mức độ hội nhập còn thấp, các công cụ thị
trường chưa phát triển, hệ thống ngân hàng còn yếu kém, thị trường
ngoại hối đang trong giai đoạn hình thành, dự trữ ngoại tệ còn thấp,
nước ngoài đang ở mức cao và có xu hướng gia tăng, các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu chưa thích ứng linh hoạt với sự biến động
của thị trường. Trong điều kiện như vậy, một chế độ tỷ giá hối đoái thả
16


nổi hoàn toàn sẽ dễ gây rủi ro cho nền kinh tế.
KẾT LUẬN
Xây dựng và hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của một quốc gia là quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Chính sách
thúc đẩy XK hàng hóa phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển
xuất khẩu và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời tương

thích và phù hợp với cam kết, tập quán thương mại quốc tế.
Trong những năm qua, chính sách thúc đẩy XK hàng hóa của Việt
Nam đã tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa phát triển, thu
hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình
đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế… Tuy nhiên,
trước yêu cầu thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện đầy đủ các cam kết WTO
của Việt Nam, hệ thống chính sách thúc đẩy XK hàng hóa hiện tại của ta
vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu cơ bản,
vì vậy cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện.

17



×