Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tác động của lãi suất đối với nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.06 KB, 26 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ
Đề tài:
LÃI SUẤT TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM


Trang 2


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

Ý NGHĨA

1

NHNN

Ngân hàng nhà nước

2

NHTM



Ngân hàng thương mại

3

TCTD

Tổ chức tín dụng

Trang 3


DANH MỤC HÌNH ẢNH, BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
Hình 2.1: Mô tả mối liên hệ giữa lạm phát dự tính và lãi suất
Hình 2.2: Mô tả khi đồng nội tệ giảm giá, e($/đ) giảm làm xuất khẩu tăng, S($) tăng hay
D(đ) tăng làm đồng nội tệ tăng giá và lãi suất nội tệ tăng
Biểu đồ 3.1: Tình hình lãi suất và lạm phát qua những năm 1986-1988
Biểu đồ 3.2: Tình hình lãi suất qua những năm 1990-1991
Biểu đồ 3.3: Tình hình lãi suất và lạm phát qua những năm 1992-1995
Biểu đồ 3.4: Tình hình lãi suất và lạm phát qua những năm 2001 – 2004
Biểu đồ 3.5: Lãi suất huy động VNĐ từ 2005 – 2009
Bảng 3.1: Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN

Trang 4


CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt Nam, Ngân
hàng nhà nước đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhằm tác động tích
cực đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi. Sau những thất bại kinh tế giai đoạn từ

năm 1998 đến trước 2004, việc hạ lãi suất để kích thích đầu tư hầu như cũng không có
hiệu quả. Cho đến 2004, sau những nỗ lực vực dậy, nền kinh tế Việt Nam đã có những
bước phục hồi tạo cơ sở cho việc tiếp tục phát triển, đổi mới hệ thống tài chính, cải
cách chính sách lãi suất.
Hiện nay, chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của công cụ lãi suất trong nền kinh
tế, tác động và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế trong bối cảnh đất nước
đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực và hội nhập Quốc tế. Vì thế,
chúng em quyết định chọn đề tài “Lãi suất và” nhằm nghiên cứu sâu hơn về lãi suất và
chiều hướng diễn biến của nó, những thực trạng và tác động của nó đến nền kinh tế.
Từ đó đưa ra được những giải pháp và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong
công cuộc phát triển hệ thống tài chính nói chung và cải cách chính sách lãi suất nói
riêng.
- Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp thống kê, mô tả
- Số liệu: Thứ cấp
- Bố cục nghiên cứu: gồm phần
+ Chương 1 : Mở đầu
+ Chương 2: Lý luận chung về lãi suất
+ Chương 3: Thực trạng chính sách lãi suất và tác động đến nền kinh tế Việt
Nam
+ Chương 4: Những hạn chế của chính sách lãi suất ở Việt Nam và giải pháp

Trang 5


CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT
2.1 Khái niệm và đặc điểm của lãi suất
2.1.1 Khái niệm về lãi suất
- Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất đó là giá cả của tín dụng.
- Theo Samualson: “Lãi suất là giá của người đi vay phải trả cho người vay để sử
dụng 1 khoản tiền trong 1 khoảng thời gian xác định”.

2.1.2 Đặc điểm của lãi suất
Có hai đặc điểm chính:
+ Tính cạnh tranh:
Lãi suất huy động vốn hình thành trên cơ sở cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng… Mỗi Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phải có lãi suất
hấp dẫn để thu hút khách hàng trên nguyên tắc kinh doanh có hiệu quả và giữ được vị
trí cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác.
+ Tính linh hoạt:
Lãi suất tín dụng hình thành 1 cách linh hoạt, nhạy bén, thích ứng với mọi hoàn cảnh,
đối tượng. Sự thay đổi thường xuyên của lãi suất
tín dụng phù hợp với sự biến
động của cung, cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi ngân sách Nhà nước, yếu tố tâm
lý của người đi vay và người cho vay trên thị trường tiền tệ, tín dụng.
2.2 Phân loại và phân biệt lãi suất
2.2.1 Phân loại lãi suất
• Theo tính cạnh tranh của công cụ nợ
+ Nhóm lãi suất chịu tác động của quan hệ cung- cầu vốn.
- Lãi suất tín phiếu kho bạc đóng vai trò là lãi suất chuẩn, thấp nhất trên thị trường
tiền tệ.
- Lãi suất các công cụ huy động vốn của các trung gian tài chính như tiền gửi, chứng
chỉ tiền gửi, hối phiếu được Ngân hàng thương mại chấp nhận.
- Lãi suất vay vốn giữa các Ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng.
- Lãi suất của các khoản tín dụng ngắn hạn của các Ngân hàng thương mại cho các
doanh nghiệp vay, là lãi suất cao nhất trên thị trường tiền tệ, lãi suất của các Ngân
hàng thương mại lớn áp dụng cho các doanh nghiệp có uy tín là mức lãi suất thấp nhất
trên thị trường này và thường gọi là lãi suất cho vay cơ bản.
+ Nhóm lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố được sử dụng để điều hành chính
sách tiền tệ.
Các lãi suất này không được xác định chủ yếu theo quan hệ cung-cầu về vốn mà được

Ngân hàng Nhà nước xác định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ, diễn biến tiền
tệ và kinh tế vĩ mô. Bao gồm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay
Trang 6






2.2.2




2.3

qua đêm, lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở.
Theo nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại
+ Lãi suất huy động vốn: Là lãi suất thường do các Ngân hàng thương mại đưa ra để
huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, nhận tiển gửi của khách hàng, phát hành chứng
chỉ tiền gửi,...
+ Lãi suất cho vay: là lãi suất thường do các Ngân hàng thương mại công bố hay thực
hiện cho khách hàng vay vốn.
Phân loại theo tiêu thức này nhằm giúp cho các tổ chức tín dụng, các Ngân hàng
thương mại có thể quyết định nên ấn lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay là bao
nhiêu. Quyết định này giúp cho các tổ chức tín dụng có thể huy động được nguồn vốn
dồi dào, sử dụng hết nguồn vốn của mình để cho vay nhằm hướng đến mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận. Đồng thời giúp cho người gửi có thể lựa chọn đến nơi lãi suất cao nhất,
người vay có thể đến nơi với lãi suất thấp nhất.

Phân loại theo thời gian:
+ Lãi suất ngắn hạn: Là lãi suất được áp dụng cho các khoản vay có thời hạn từ 12
tháng trở xuống.
+Lãi suất trung hạn: Là lãi suất được áp dụng cho các khoản vay có thời hạn trên 1
năm cho đến 5 năm.
+Lãi suất dài hạn: Là lãi suất được áp dụng cho các khoản vay có thời hạn trên 5 năm.
Phân loại lãi suất theo thời gian giúp chúng ta ấn định lãi suất phù hợp với nguyên tắc:
thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Phân biệt về lãi suất:
Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
Lãi suất thực được định nghĩa là lãi suất danh nghĩa trừ đi mức lạm phát dự tính. Nó
là một phép đo tốt hơn đối với những ý muốn đi vay hay cho vay so với lãi suất danh
nghĩa và nó là công cụ chỉ bảo tốt hơn về độ căng thẳng của các điều kiện ở thị trường
tín dụng so với lãi suất danh nghĩa. Tỉ lệ lạm phát hay tỉ lệ trượt giá của đồng tiền
trong một khoảng thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị
danh nghĩa. Vì vậy lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa vì tỉ lệ lạm phát nói
trên.
Lãi suất – Lợi tức
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm số tiền lãi trên số tiền vốn vay. Trong khi đó tỉ suất lợi tức là
tỉ lệ phần trăm của số thu nhập của người có vốn trên tổng số vốn anh ta đưa vào sử
dụng (đầu tư hay cho vay).
Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong hầu
hết tất cả các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có thị trường tài chính. Vì lẽ đó, lãi suất
trong các nước đó đều do Nhà nước quy định, thậm chí một số nước còn quy định đến
Trang 7


cả mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng. Sự biến
động của lãi suất trong các điều kiện như vậy phần lớn phụ thuộc vào ý chí của chính

phủ và không vận động theo bất cứ một quy luật nào.
Trái lại, trong các nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết
vĩ mô, thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế tự do hoá, cơ chế hình thành lãi suất
là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy mà chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế vĩ
mô cũng như nhiều các nhân tố khác.
-

Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
Khi lạm phát được dự đoán tăng trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng
tăng.Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa và
để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải
tăng lên tương ứng.Mặt khác, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết
kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức phi tài sản khác như
vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể. Tất cả những điều này
làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Từ mối quan hệ
này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với
việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế.

Hình 2.1: Mô tả mối liên hệ giữa lạm phát dự tính và lãi suất. Lạm phát dự tính tăng
dần đến cầu về tư bản cho vay từ D1 đến D2 đồng thời cung giảm từ S1 đến S2, lãi suất
tăng từ i1 đến i2
-

Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân

Trang 8


Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án đầu tư phải cao hơn lãi suất các khoản vay
tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi nhuận từ các dự án đầu tư và

phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn chính sách lãi suất phù hợp
sẽ dựa trên cơ sở ước lượng tỷ suất lợi tức trung bình của nền kinh tế.
-

Ảnh hưởng của bội chi ngân sách
Bội chi ngân sách ở trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu tiền tăng và làm
tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng
mức lạm phát và sẽ gây áp lực tăng lạm phát.Thông thường, Chính phủ thường tài trợ
cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu.Lượng cung trái phiếu trên thị
trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm và lãi suất thị trường có xu
hướng tăng. Mặt khác, do tài sản có của Ngân hàng thương mại tăng ở khoản mục trái
phiếu chính phủ, dự trữ vượt mức giảm nên lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
Những thay đổi trong thuế:
Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác động đến lãi suất.
Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần thu nhập của các cá nhân và
tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán.
Mọi người đều quan tâm đến thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do vậy, để
duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay
những thay đổi của thuế.

-

Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái kỳ vọng
Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của các đồng ngoại tệ
mạnh thì tâm lý phổ biến của người dân là coi ngoại tệ mạnh như một trong những
loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi hiện tượng đô la hoá xảy ra, người dân sẽ
ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm như vậy người gửi
hưởng lợi kép gồm lãi suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đô la Mỹ. Sự chuyển dịch này
tạo ra sự khan hiếm nội tệ ở các Ngân hàng thương mại và buộc các ngân hàng này
phải tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay nền kinh tế. Như vậy, khi

xây dựng chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá để giảm bớt mức
chênh lệch giữa lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi suất cho vay nội tệ và
ngoại tệ. Điều này giúp giảm bớt sự dịch chuyển không mong đợi từ tiền gửi nội tệ
sang đô la khi đồng đô la lên giá.

Trang 9


Hình 2.2: Mô tả khi đồng nội tệ giảm giá, e($/đ) giảm làm xuất khẩu tăng, S($) tăng
hay D(đ) tăng làm đồng nội tệ tăng giá và lãi suất nội tệ tăng
Những thay đổi trong đời sống xã hội:
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố
thuộc về đời sống xã hội khác như tình hình về kinh tế, chính trị cũng như những biến
động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các
luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước...
Tất cả những điều này gợi ý cho những nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính
sách lãi suất phải có một cách nhìn và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất
cứ một kết luận hay một quyết định nào có liên quan đến lãi suất.
2.4

Vai trò của lãi suất
Lãi suất là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong
xã hội tập trung vào quỹ tín dụng. Lãi suất là công cụ để đo lường "sức khỏe" của nền
kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá trái khoán và lãi suất được yết giá hàng ngày
trên các tờ báo của cơ quan chính phủ. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi
suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư,
mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách. Các yếu tố này hợp thành chỉ tiêu trừu
tượng "sức khỏe" của nền kinh tế.Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để
dự báo tình hình kinh tế trong tương lai.Trên cơ sở đó các doanh nghiệp lập kế hoạch
chi tiêu trong tương lai của họ, trong khi đó ngân hàng và các nhà đầu tư cần dự báo

Trang 10


lãi suất để quyết định xem chọn mua tài sản nào. Vai trò của lãi suất thể hiện trên cả
tầm vĩ mô và vi mô.
Xét trên tầm vĩ mô, lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Ý nghĩa này của lãi suất tín dụng
được thể hiện trên nhiều mặt.
Thứ nhất, nhà nước có thể thông qua lãi suất tín dụng để thực hiện điều chỉnh lượng
cung ứng tiền, từ đó tác động đến sự tăng giảm sản lượng để thực hiện điều tiết nền
kinh tế (ổn định lạm phát, công ăn việc làm và phát triển sản xuất).
Thứ hai, lãi suất tín dụng tác động tới tổng cung và tổng cầu thông qua tác động tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đến tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư. Khi lãi
suất tín dụng tăng cao, người dân sẽ hạn chế tiêu dùng, gửi tiết kiệm nhiều hơn và
doanh nghiệp sẽ thận trọng trong các hoạt động đầu tư vì vậy tổng cầu và tổng cung
đều có xu hướng giảm. Ngược lại, lãi suất tín dụng hạ thấp khuyến khích tiêu dùng, các
khoản gửi tiết kiệm sẽ hạn chế hơn trong khi đó doanh nghiệp có điều kiện mở rộng
sản xuất kinh doanh.Vì vậy, tổng cung và tổng cầu đều có xu hướng tăng cao.
Thứ ba, lãi suất tín dụng được sử dụng làm công cụ điều hòa cung cầu ngoại tệ, góp
phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Nâng cao lãi suất tín dụng sẽ hút ngoại tệ
vào trong nước làm tăng cung ngoại tệ. Hạ thấp lãi suất tín dụng sẽ đẩy ngoại tệ ra
ngoài nước, làm giảm cung và tăng cầu ngoại tệ.
Thứ tư, trong chừng mực nhất định, người ta có thể sử dụng lãi suất để thực hiện điều
chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu khu vực nhằm đảm bảo sự thích ứng của nền kinh tế với
nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.Nhà nước có thể thực hiện cho vay với
lãi suất ưu đãi cho những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề, khu vực kinh tế
được khuyến khích nhờ vậy có thể kích thích sự phát triển của những ngành nghề và
những khu vực này nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Xét trên góc độ vi mô, sự ảnh hưởng của thay đổi lãi suất tín dụng thể hiện ở hai góc
độ:

Một là, lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện các hoạt động của các trung gian tài
chính trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh để đảm bảo tính tự chủ tài chính của các
tổ chức này, tạo ra nguồn lực tài chính để các tổ chức này tồn tại và phát triển.
Hai là, lãi suất tín dụng tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh
nghiệp và đời sống của dân cư.
2.5 Một số chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường
- Chính sách lãi suất cố định
Là lãi suất mà Ngân hàng nhà nước khống chế Ngân hàng thương mại cả về lãi suất
huy động và lãi suất cho vay. Khi đó sẽ không có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng,
-

Trang 11


không thúc đẩy tăng trưởng, chính phủ hoàn toàn có thể kiểm soát được lãi suất, bảo
vệ được nhiều doanh nghiệp Nhà nước.
- Chính sách lãi suất trần
Là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối đa, khuyến khích huy động vốn, khả năng
kiểm soát của chính phủ tốt hơn. Chính phủ ấn định một mức lãi suất và áp đặt cho
toàn bộ các ngân hàng, toàn bộ nền kinh tế.
- Chính sách tự do hoá lãi suất
Là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.
Lãi suất tăng, giảm hoàn toàn do những biến đổi trong cung – cầu về vốn vay trên thị
trường. Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo.
- Chính sách lãi suất ưu đãi
Là chính sách dành cho một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính
sách,... với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính sách này làm người đi vay không hoặc ít
chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ vào những dự án không mấy hiệu quả.
Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và phần lớn vốn lấy từ ngân sách Nhà nước. Các
đối tượng được vay vốn với lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo, các khu vực

vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi,... Tuy vay vốn ưu đãi tạo điều kiện cho người vay
nhưng lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay.

Trang 12


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
3.1.
Thực trạng chính sách lãi suất và tác động đối với nền kinh tế Việt Nam
3.1.1. Giai đoạn 1986 – 1991
Năm 1986 có thể coi là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt
Nam.Nền kinh tế có những cải cách toàn diện, đặc biệt là việc xoá bỏ chế độ tập trung
bao cấp. Cùng với quá trình cải cách kinh tế thì chínhsách tiền tệ của NHNN nói chung và
chínhsáchlãisuất nói riêng cũng có những thay đổi để phù hợp với chế độ kinh tế mới. Vì
vậy chúng ta có thể coi năm 1986 là một dấu mốc cho công cuộc chuyển đổi
chínhsáchchínhsách kinh tế nói chung và chínhsáchlãisuất nói riêng.
Bước vào năm 1986 nền kinh tế nước ta bướcc vào giai đoạn đổi mới, nền kinh tế có
nhiều biến động. Giá cả hàng hoá tăng liên tục, tốc độ tăng cao nhất là đạt 73,2%/ tháng
vào năm 1986. Hơn nữa giai đoạn này đợc đánh dấu bởi hệ thống ngân hàng cấp một nên
mọi quyết định đều do NHNN đưa ra. Do ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung bao cấp và
cơ chế xin cho nên mục tiêu điều hành chínhsáchlãisuất trong giai đoạn này là thể hiện sự
bao cấp củachính phủ đối với nền kinh tế. Thực tế trong thời gian này NHNN điều hành
lãisuất cho vay luôn nhỏ hơn lãisuất tiền gửi và lãisuất cho vay luôn ở mức thấp, thấp hơn
tỉ lệ lạm phát rất nhiều (Bảng 1)

Biểu đồ 3.1: Tình hình lãi suất và lạm phát qua những năm 1986-1988
Giá cả hàng hoá tăng vọt nhưng lãisuất ở mức quá thấp cộng với cơ chế cho vay theo chỉ
định gần như tự động hoá nên đã khích lệ chủ nghĩa cơ hội trong kinh doanh, đặc biệt là
các xí nghiệp quốc doanh, họ đổ xô vào vay vốn ngân hàng, vay đến mức tối đa để duy trì

hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc vay vốn thì các doanh nghiệp cũng thực
hiện chiến lược găm hàng để chờ ăn chênh lệch giá (do giá cả tăng hàng ngày). Điều đó
đã tạo ra nhu cầu vốn và hàng hoá giả tạo.Cơ chế tài chính buộc các ngân hàng phải cho
vay với lãisuất thấp, sau đó nhà nớc bù lỗ đã dồn gánh nặng tài chính lên hệ thống ngân
hàng.Cả hệ thống ngân hàng cũng không thể đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp.
Như vậy trong thời kì này chínhsáchlãisuấtcủa ngân hàng quá kém. Ngân hàng vô hình
chung đã trở thành thủ quỹ của nền kinh tế, cấp phát tài chính cho các doanh nghiệp, còn
lãisuất là một công cụ điều tiết quan hệ cung cầu vốn, điều tiết lưu thông tiền tệ lại trở
thành công cụ kích thích gia tăng lạm phát, gây mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và
cầu vốn, nuôi dưỡng tư tưởng bao cấp, dồn ngân hàng vào thế bị động. Lãisuất ngân hàng
Trang 13


không thực hiện được chức năng kích thích tiết kiệm cho nền kinh tế và qua thời kì này
chúng ta cũng thấy được một chínhsáchlãisuất thấp không phải bao giờ cũng tốt cho nền
kinh tế.
1989, nền kinh tế ViệtNam chưa thoát khỏi khủng hoảng, lạm phát vẫn ở mức 2 con số,
ngân sách nhà nước thâm hụt lớn. Hệ thống ngân hàng đã được cải tiến thành hệ thống
ngân hàng cấp hai theo nghị định 53- HĐBT của hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ)
vào tháng 6 năm 1988, song về cơ bản hệ thống ngân hàng vẫn là cấp một .Nhận rõ được
vai trò củalãisuất là công cụ quan trọng trong việc chống lạm phát và với yêu cầu cấp
bách là phải ổn định, phát triển kinh tế, NHNN đã đưa ra mục tiêu là phải thực hiện
chínhsáchlãisuất cao, lãisuất tiền gửi lớn hơn tỉ lệ lạm phát. Thực hiện mục tiêu trên,
NHNN đã thực thi giải pháp tình thế là thực hiện chínhsáchlãisuất tiền gửi cao hơn chỉ số
lạm phát để thu hút mạnh mẽ lương tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn kinh doanh cho
các ngân hàng thương mại. Thực tế chínhsáchlãisuất này được thực hiện cho tới hết năm
1991.Tuy nhiên, lãisuất huy động bình quân vẫn cao hơn lãisuất cho vay bình quân. Điều
này được thể hiện rõ qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 3.2: Tình hình lãi suất qua những năm 1990-1991

Qua biểu đồ trên ta thấy mức lãisuất huy động cao hơn mức lãisuất cho vay nên đã
khuyến khích dân chúng, doanh nghiệp vay vốn để gửi vào ngân hàng và ăn chênh lệch
lãi suất. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp quốc doanh, không thể vay vốn để
sản xuất vì họ không thể thu được lợi nhuận trong tình hình lạm phát vẫn còn cao, rủi ro
nhiều nên họ đã gửi tiền vào ngân hàng an toàn hơn mà vẫn thu được lãi. Do vậy, tổng
lượng vốn huy động đã tăng thêm 4042 tỷ đồng trong năm 1991 nhưng tốc độ đã giảm đi
4,48% so với năm 1990 và tổng tín dụng tăng cả về số lượng và tốc độ: số lượng tăng
thêm 4341 tỷ đồng, tốc độ tăng 32,6% (IMF Report on Viet nam1998). Bên cạnh đó,
NHNN còn điều hành thị trường thông qua Thể lệ tín dụng của NHNN đối với các tổ
chức tín dụng (QĐ số 2- QĐ/ NH1 ngày 8-1-1991) nhằm bù đắp thiếu hụt khả năng thanh
toán và bổ sung vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng. Theo thể lệ này, để bù đắp thiếu
hụt vốn trong thanh toán thì các tổ chức tín dụng đợc vay bù trừ vốn thiếu hụt trong thanh
toán và đợc chiết khấu các chứng từ (trái phiếu kho bạc mà các TCTD đã mua và các khế
ớc cho vay cha đến hạn thu nợ nhng có khả năng chắc chắn thu nợ đúng hạn). NHNN khi
tái cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại không cần thế chấp các chứng từ.Đồng thời
NHNN cũng qui định lãisuất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán gù trừ (gọi tắt
là cho vay bù trừ) đối với các NHTM.
Kết quả là chínhsáchlãisuất cao trong thời kì này đã góp phần chống lạm phát phi mã, đưa
nền kinh tế dần vào ổn định. Những lợi ích đó có đợc xuất phát từ một chínhsáchlãisuất
Trang 14


cao trong bối cảnh nền kinh tế lúc bấy giờ là: thu hút khối lượng tiền rất lớn trong lưu
thông, tiền nhàn rỗi của dân chuyển từ việc mua hàng hoá sang gửi tiết kiệm, làm cho giá
vàng giảm 50%, đồng tiền từ chỗ mất giá sang có giá. Hơn nữa do tác động củalãisuất cao
đã có tác động dây chuyền làm giải toả một khối lượng vật tư hàng hoá dự trữ trong kho
của các đơn vị sản xuất kinh doanh, phá bỏ sự khan hiếm hàng hoá giả tạo, kéo giá hàng
hoá giảm xuống. Đồng thời áp dụng lãisuất cao cũng làm cho NHNN không phải phát
hành tiền vào lưu thông, góp phần làm giảm lạm phát.
Bên cạnh những lợi ích trên thì việc thực hiện chínhsáchlãisuất cao đã gây ra những khó

khăn đối với một số ngành nghề kinh tế, đó chính là “thòng lọng” để thắt cổ các đơn vị
kinh tế có tỷ suất lợi nhuận thấp. Do đó, chínhsáchlãisuất cao không thể duy trì được
trong một thời gian dài do những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế. Và sau một
thời gian gần 1 năm thực hiện cơ chế lãisuất cao hơn lạm phát, đến đầu năm 1990 tỷ lệ
lãisuấtlại dần thu hẹp lại. Quý III/ 1990 lãisuất bắt đầu nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát và lãisuất
thực âm bắt đầu quay trở lại.
Giai đoạn 1991 -1995
Có thể nói đây là giai đoạn đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế
ViệtNam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Hệ thống ngân hàng có
những cải cách tích cực với sự ra đời của luật NHNN năm 1992.Tỷ lệ lạm phát đã giảm
dần song vẫn ở mức 2 con số. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng dần qua các năm.
3.1.2.

Cùng với cải cách kinh tế là quyết tâm xoá bỏ bao cấp và hỗ trợ cho các doanh nghiệp về
lãisuất cho nên mục tiêu điều hành chínhsáchlãisuất trong giai đoạn này là thực hiện
chínhsáchlãisuất thực dương, xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, nâng
cao quyền tự quyết của các tổ chức tín dụng.Thực hiện quyết tâm trên, từ tháng 6 năm
1992 Ngân hàng nhà nước đã không trực tiếp ấn định mức lãisuất cụ thể mà chỉ qui định
trần lãisuất cho vay tối đa và lãisuất tiền gửi tối thiểu. Trong giai đoạn này, lãisuất đã có
những chuyển biến tích cực sang dương tuyệt đối: Tỷ lệ lạm phátquân
Biểu đồ 3.3: Tình hình lãi suất và lạm phát qua những năm 1992-1995

Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy lãisuất huy động đã giảm so với giai đoạn trước, song
vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát nên vẫn đảm bảo lãisuất huy động thực dương. Do đó, những
người gửi tiền vào ngân hàng sau một thời gian sẽ thu được lãi chứ không phải mất dần
vốn, làm cho lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng tăng lên.
Trang 15



Mặc dù lãisuất huy động giảm song tốc độ giảm thấp hơn tốc đô tăng của lượng vốn huy
động nên tiền lãi phải trả cho người gửi tiền vào ngân hàng tăng lên làm cho chi phí huy
động vốn tăng theo do tiền lãi mà ngân hàng phải trả cho ngời gửi tiền chiếm phần lớn
trong tổng cho phí huy động vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng của chi phí huy động vốn vẫn
thấp hơn tốc độ tăng của lượng vốn huy động, nên có thể nói ở một khía cạnh nào đó các
ngân hàng thương mại đã bắt đầu huy động vốn có hiệu quả hơn. Lãi suất huy động giảm
giúp cho các ngân hàng thương mại giảm lãisuất cho vay mà không ảnh hưởng đến lợi
nhuận của đơn vị mình. Mức lãisuất cho vay giảm qua các năm đã khuyến khích các
doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện
rõ qua nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng từ 19% năm 1992
lên 42% năm 1995 (IMF Report on VietNam 1998).
Trong giai đoạn này, chúng ta còn thấy một vấn đề nữa là lãisuất cho vay ngắn hạn cao
hơn lãisuất cho vay trung và dài hạn, có nghĩa là các doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản
lợi tức nhỏ hơn cho ngân hàng nhưng lại được sử dụng vốn đó trong một khoảng thời gian
dài hơn.
Việc qui định lãisuất cho vay ngắn hạn cao hơn lãisuất cho vay trung và dài hạn như vậy
làm méo mó cấu trúc kỳ hạn củalãi suất, gây mạo hiểm đối với các ngân hàng thương mại
đặc biệt là các ngân hàng nhỏ.Bởi trên thực tế các ngân hàng thương mại sẽ không đi vay
vốn dài hạn mà tập trung vào loại vốn ngắn hạn, rồi dùng vốn ngắn hạn cho vay cả trung
và dài hạn. Tiền gửi ngắn hạn có tính thanh khoản cao trong khi cho vay trung và dài hạn
thì thu hồi vốn chậm nên những lúc có nhiều người rút tiền ra, ngân hàng gặp rất nhiều
khó khăn trong việc thanh toán.
Nhận thấy chínhsách không phù hợp này, đến năm 1994, NHNN đã tiến một bước dài
trong quá trình điều hành lãisuất khi qui định trần lãisuất ngắn hạn thấp hơn trần lãisuất
dài hạn.Đây là chínhsách phù hợp với qui luật hình thànhlãisuất thị trường. Bên cạnh đó,
NHNN còn điều hành chínhsáchlãisuất ngắn hạn đối với các TCTD theo quyết định số
285-QĐ/ NH14 năm 1995 qui định tái cấp vốn đối với các TCTD, qui định này thay cho
qui định số 02- NH/ QĐ ngày 8-1-1991. Theo quyết định này, NHNN chỉ tái cấp vốn cho
nền kinh tế dới hình thức chiết khấu chứng từ (gồm trái phiếu kho bạc và khế ớc cho vay

ngắn hạn) và cho vay theo chỉ định. Ngay từ đầu năm 1995, NHNN đã thống nhất lãisuất
tái cấp vốn (suất chiết khấu) là 100% lãisuất cho vay theo khế ước của các ngân hàng.
Mức lãisuất này không phụ thuộc vào chứng từ chiết khấu mà do NHNN qui định theo
mục tiêu điều hành chínhsách tiền tệ quốc gia. Như vậy, chínhsáchlãisuất trong giai đoạn
này đã có những bước tiến đáng kể, lãisuất đã từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với
qui luật thị trường hơn. NHNN cũng đã chú ý đến việc sử dụng các công cụ gián tiếp
trong việc điều hành chínhsáchlãi suất, đó là bước tiến mới trong quá trình thực hiện tự do
hoá lãi suất.
Trang 16


Giai đoạn 1996 – 2000
Giai đoạn này ngân hàng Nhà nước ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và những đổi
mới căn bản về điều hành lãi suất. Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định mức lãi suất
trần theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng. Cuối tháng 1/1998, Ngân hàng Nhà nước
xóa bỏ quy định chênh lệch lãi suất. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, Ngân
hàng Nhà nước liên tục điểu chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu
trần, và mức khống chế, đặc biệt trong các năm 1998 – 1999. Trong năm 1997 thay
đổi hình thức quy định lãi suất tái cấp vốn sang quy định mức lãi suất cụ thể. Tháng
11 năm 1999 Ngân hàng Nhà nước đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu được quy
định ở mức lãi suất thấp hơn 0,05%/tháng so với lãi suất tái cấp vốn, tháng 7/2000
Ngân hàng Nhà nước đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
3.1.3.

Giai đoạn 2000 – 2011
Từ năm 2002 – 2005:
Từ tháng 8/2000 đến nửa đầu năm 2002 là cơ chế điều hành lãi suất kèm biên độ :
Ngân hàng nhà nước điều hành lãi suất theo luật Ngân hàng để thay thế cho cơ cấu
lãi suất trần . Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố hằng tháng . Đối với lãi suất

cho vay bằng ngoại tệ , các ngân hàng thương mại , tổ chức tín dụng được ấn định
lãi suất cho vay theo lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn ngoại tệ trong
nước.
Diễn biến lãi suất nửa sau năm 2002: Trong thưc tế , lãi suất thỏa thuận đã đươc
nhà nước áp dụng từ tháng 5/2001 cho hình thức vay bằng ngoại tệ , tiếp theo
tháng 5/2002 áp dung cơ chế thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước.
Thế giới có nhiều biến động kể từ năm 2004 đó là giá thành các nguyên vật liệu có
xu hướng tăng mạnh và chính điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa,
lạm phát tăng nhanh. Lãi suất không theo kịp lạm phát, kéo theo đấy là đồng tiền bị
mất giá và dẫn đến làm phát ngày càng tăng cao. Lạm phát cao ở nhiều nước, Cục
dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất lên cao cũng ảnh hưởng đến lãi suất ở Việt Nam.
→Trước tình hình 2004 – 2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín dụng
cũng tăng, Ngân hàng Nhà nước không tăng mức lãi suất, chủ trương giữ ổn định
cả lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, chính sách kiềm chế lạm
phát đó là mức dự trữ bắt buộc.
3.1.4.

Biểu đồ 3.4: Tình hình lãi suất và lạm phát qua những năm 2001 – 2004
Từ 2005 – 2009:
Trang 17


-

-

-

-


-

Từ năm 2005 – 2009 đã có nhiều thay đổi lãi suất huy động tiền gửi VNĐ của các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Sự thay đổi đáng chú ý nhất bắt đầu vào
tháng 2 năm 2008.
Diễn biến lãi suất năm 2005:
Lãi suất tiền gửi và huy động vốn nội tệ của các ngân hàng thương mại trong năm
2005 bình quân tăng 0,48%/năm - 0,63%/năm của mỗi kỳ hạn so với năm 2004.
Lãi suất trung bình là 8,4%/năm và tăng đều qua các tháng trong năm 2005.
Đến đầu tháng 6 năm 2005, chỉ số giá cả so với năm 2004 là 8,6% đã làm lãi suất
thực tế trong 2 năm này âm . Lạm phát cao ở nhiều nước, cục dự trữ liên bang Mỹ
tăng lãi suất lên cao cũng ảnh hưởng đến Việt Nam.Các ngân hàng đồng loạt tăng
lãi suất do sức ép của việc FED tăng lãi suất đồng ngoại tệ .
Trong 6 tháng đầu năm 2006, lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng
thương mại tăng nhẹ so với đầu năm. Tuy nhiên trong quý 3/2006 các ngân
hàng không tăng lãi suất nhiều như những giai đoạn trước. Thị trường tài chính
tương đối ổn định, chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước vẫn được điều
hành. So với cuối năm 2005 mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tăng nhẹ chủ
yếu trong 7 tháng đầu năm.
Lãi suất năm 2007 không có nhiều biến động giữa các tháng trong năm. Năm
2008 có thể xem là năm của lãi suất khi lãi suất biến động với một biên độ lớn chỉ
trong vòng 12 tháng.

Biểu đồ 3.4: Lãi suất huy động VNĐ từ 2005 - 2009
Những tháng đầu năm 2009, lãi suất huy động của ngân hàng tăng nhẹ.

Trang 18


Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2009, làn sóng đua tăng lãi suất Việt Nam đồng ở

các ngân hàng chưa có dấu hiệu dừng, do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế
tăng cao, lãi suất huy động đang tiến sát về mức trần cho vay.
- Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và cao nhất
lên đến 9,5%.
- Ngân hàng Nhà nước đã nâng cao lãi suất cơ bản lên 8% cuối tháng 11, nhưng
tình trạng căng thẳng vốn vẫn chưa có hướng được giải quyết khiến ngân hàng
Nhà nước có biện pháp răn đe thanh tra toàn diện các ngân hàng nâng lãi suất
huy động lên quá 10,5%.
- Từ 2010 – 2011
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên
thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn
phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Ngân
hàng Nhà nướcđã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8%
trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng
cuối năm trước sức ép của lạm phát.
→Trước những biến động của thị trường tiền tệ, để thực hiện đồng bộ với các giải
pháp của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành chính sách tiền tệ
thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín
dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát
gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả.
-

Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Lãi suất Lãi suất
Lãi suất
Lãi suất cho
Thời gian
cơ bản
tái cấp
tái chiết

vay qua đêm
(%)
vốn (%)
khấu (%)
(%)
1/1 - 4/11/2010
8
8
6
8
5/11 - 12/2010
9
9
7
9
Bảng 3.1: Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Giai đoạn 2011 – 2015
- 2011: NHNN tiếp tục tăng các mức lãi suất chính nhằm hạn chế cung tiền. Sau hai lần
nâng lãi suất vào các ngày 8/3/2011 và ngày 1/4/2011 vừa qua, kể từ ngày 1/5/2011,
NHNN đã tiếp tục có quyết định nâng một số lãi suất chính. Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn
được tăng lên mức 14%; lãi suấ tái chiết khấu được tăng lên mức 13%.
3.1.5.

- Trong 6 tháng đầu năm 2011, thị trường tiền tệ có nhiều biến động. Bên cạnh lãi suất
huy động thì lãi suất cho vay cũng diễn biến phức tạp, tuy nhiên đầu tháng 7 lãi suất
giảm xuống do các ngân hàng cải thiện thanh khoản cùng với sự hạ nhiệt của CPI
Trang 19


- 10/10/2011 Ngân hàng Nhà nước bất ngờ tăng một số lãi suất chủ chốt. Ngân hàng

Nhà nước điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm lên 15%/năm; lãi suất cho
vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 14%/năm lên 16%/năm
- Năm 2013 : Việc lãi suất giảm liên tục trong thời gian từ tháng 6/2013 đến nay
nằm trong lộ trình giảm lãi suất mà ngân hàng nhà nước đã thực hiện từ năm 2012
và tiếp tục được thực hiện trong năm 2013 và năm 2014. Trong năm 2013, NHNN
đã 2 lần điều chỉnh mức lãi suất cơ bản, cụ thể mức lãi suất tái cấp vốn giảm xuống
mức 8%/năm vào tháng 3/2013, và tiếp tục giảm xuống 7%/năm vào tháng
5/2013. Tiếp đó, lãi suất này lại giảm về mức 6,5%/năm vào tháng 3/2014.
- Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm các mức lãi suất trên cơ sở bám sát diễn
biến vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ để giảm lãi suất cho vay. Đến 2015, mặt bằng
lãi suất đã giảm mạnh, chỉ bằng khoảng 40% lãi suất vào nửa cuối năm 2011 và
thấp hơn mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006 là giai đoạn kinh tế phát triển ổn
định,lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 6-9%/năm, lãi suất cho vay trung và
dài hạn ở mức 9-11%/năm, các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh,
minh bạch, có phương án/dự án khả thi thì lãi suất chỉ còn 5-6%/năm.
→Những năm qua,để góp phần tiếp tục tháo gỡ khó khăn, góp phần hỗ trợ giảm chi
phí vốn vay của doanh nghiệp và hộ dân cho sản xuất kinh doanh, chính sách tiền tệ
được điều hành linh hoạt, chủ động dẫn dắt thị trường, đồng thời có sự phối hợp hài
hòa với chính sách tài khóa đã mang lại nhiều kết quả tích cực đối với kinh tế vĩ mô
nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng.
Đến năm 2016:
Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, 2 tháng đầu năm 2016 có 15 tổ chức
tín dụng tăng lãi suất với mức tăng bình quân từ 0,1 - 0,2%/năm, trong khi có 6 tổ
chức tín dụng lại giảm, bình quân từ 0,1 - 0,3%/năm. Vì vậy, mức lãi suất huy động
hiện tại vẫn cơ bản ổn định so với cuối năm 2015. Cụ thể, mặt bằng bình quân kỳ
hạn dưới 6 tháng từ 4,5 - 5,4%/năm, còn kỳ hạn 6 tháng trở lên từ 5,5 - 7,2%/năm.
→ Kết quả đó cho thấy, việc tăng lãi suất huy động không phải xu hướng chung mà
chủ yếu mang tính chất tạm thời để dự trù nguồn vốn cho vay ở một số đơn vị, đáp
ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh những tháng sau Tết. Về cơ bản, việc tăng lãi suất
của các ngân hàng này không phải xu hướng chung của toàn thị trường vì trên thực

tế, cũng có nhiều ngân hàng thực hiện giảm lãi suất huy động.

CHƯƠNG 4: NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI
PHÁP

Trang 20


4.1 Những hạn chế của chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới:
- Tác động của cơ chế điều hành lãi suất đối với lãi suất thị trường tiền tệ còn yếu
- Mối liên hệ giữa các loại lãi suất thị trường tiền tệ và lãi suất chính thức của Ngân
hàng nhà nước còn lỏng lẻo.
- Chưa có lãi suất chuẩn, mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ sơ cấp và thứ cấp còn cát
cứ, độ nhạy của hành vi tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng với lãi suất còn hạn chế.
- Ngân hàng nhà nước chưa xác định lãi suất mục tiêu, mô hình điều hành và kiểm soát
lãi suất thị trường phức tạp.
- Chính sách lãi suất vẫn còn mang tính chính sách xã hội nên ảnh hưởng nhiều đến
hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại, chưa xem xét đến mức độ rủi ro
của các tổ chức tín dụng gặp phải trong hoạt động kinh doanh tiền tệ.
- Trong suốt một thời gian dài vẫn tồn tại chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất
ngoại tệ và gây khó khăn trong việc thu hút các nguồn vốn ngoại tệ từ lưu thông về, tạo
trục trặc cho những người vay vốn ngoại tệ từ ngân hàng.
- Dù đã áp dụng chính sách lãi suất cho vay vốn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất cho
vay vốn ngắn hạn song chính sách lãi suất đã không chú trọng đến cơ cấu nguồn vốn,
chưa bám sát với tình hình của nền kinh tế, chưa đưa ra được mức khống chế điều
chỉnh linh hoạt để giúp cho các tổ chức tín dụng giải quyết tốt nguồn vốn trung và dài
hạn.
- Việc liên tục giảm lãi suất trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến quyền lợi của người

gửi tiền. Người gửi tiền nhận được lợi nhuận trên số tiền gửi của mình ở hệ thống
ngân hàng. Khi được áp mức lãi suất cao thì lợi nhuận trên số tiền đó lớn, còn khi mặt
bằng chung lãi suất thấp đi thì số tiền mà người gửi tiền nhận được cũng ít đi.
4.2 Một số giải pháp về chính sách lãi suất trong thời gian tới.
4.2.1 Hoàn thiện môi trường tự do hóa sản xuất bằng VNĐ:

Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ:
Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi quy định về cơ chế tài chính đối với các tổ chức tín
dụng và tiến hành đồng bộ các biện pháp đồng bộ.
• Ở tầm vĩ mô:
-Chính sách lương thưởng cần tiến hành theo phương thức phân cấp thu thập thay vì
bảo đảm tính bình quân để thúc đẩy sự sáng tạo, nhiệt tình của các nhân viên, lãnh đạo
các Ngân Hàng thương mại Quốc Doanh.
Trang 21


-Thay đổi quy định về cơ chế tài chính tạo điều kiện cho các ngân hàng tự chủ động
trong tài chính là động lực để các ngân hàng hoạt động lành mạnh, phát triển tránh
tình trạng chảy máu các cán bộ giỏi về chuyên môn vững vàng trong điều hành hoạt
động kinh doanh tiền tệ.
-Sớm ban hành các văn bản đánh giá lại giá trị tài sản cố định hiện có tại các ngân
hàng, từ đó xác định được số vốn nhà nước tham gia vào các Ngân hàng thương mại
Quốc doanh.
- Các Ngân hàng thương mại Quốc Doanh nhanh chóng cơ cấu lại nợ, vay ngân hàng.
Xử lý dứt điểm các khoản nợ khó đòi, tách hoạt động cho vay chính sách sang Ngân
hàng chính sách để xóa bỏ các hình thức cho vay ưu đãi trong hệ thống NHTM.
- Hoàn chỉnh đề án và tiến hành cổ phần hóa từng bước các NHTM cho phép phát hành
cổ phiếu mới nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn của ngân hàng,
• Ở tầm vi mô:
NHTM phải tăng cường khả năng cạnh tranh về chất lượng phục vụ, phát triển dịch vụ

với các biện pháp tiếp thị. Đồng thời phải đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng tốt
qua các công tác tín dụng vừa huy động vốn hiệu quả vừa sử dụng hợp lý.
Cụ thể như sau:
+ Điều hành lãi suất phải bảo đảm tính thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng.
+ TCTD cần thành lập bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu về lãi suất.
+ TCTD cần xác định lãi suất điều hòa vốn nội bộ và tự chủ trong việc đưa ra biên độ
dao động hợp lý so với lãi suất trên thị trương phi Ngân hàng.
Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ:
+ NHNN cần thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận.
+ Cần phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của thị trường tiền tệ và NHNN phải làm tốt
vai trò là người mua bán cuối cùng khi tiến hành can thiệp vào thị trường này.
+ Tăng cường phạm vi, hiệu quả đièu tiết thị trường tiền tệ của NHNN, đáp ứng nhu
cầu đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế cần đẩy mạnh quá trình
chuyển đổi, điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ và của thị trường tiền tệ từ
trực tiếp sang gián tiếp.
4.2.2 Nâng cao hiệu quả các công cụ sản xuất:
- Trên Thế giới hiện nay có nhiều cách xác định mức lãi suất điều hành của thị trươngf
tiền tệ, nhưng xu thế sử dụng lãi suất liên ngân hàng đang phổ biến trên các quốc gia
đang phát triển. Thị trương liên ngân hàng có thể hiểu là thị trường vốn “ bán buôn”
giữa các ngân hàng. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng được coi là lãi suất tham
chiếu và đo lường sự biến động của thị trường liên ngân hàng nói riêng và thị trường
tiền tệ nói chung.
- Hiện nay, lãi suất riêng dựa trên cơ sở lãi suất thỏa thuận(lãi suất cho vay dựa trên
cơ sở tự thẩm định và thương lượng đối với khách hàng).

Trang 22


- Giải pháp chung: Cần nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường liên ngân hàng đảm
bảo lãi suất thị trường này là cơ sở để ngân hàng trung ương xác định lãi suất điều

hành VNĐ.
Cụ thể:
- Nên chọn các ngân hàng uy tín và dựa vào lãi suất chào của các ngân hàng trên thị
trường làm cơ sở để xác định mức lãi xuất giao dịch bình quân trên thị trường liên
ngân hàng ( lãi suất được công bố hàng ngày để các TCTD tham khảo)
- NHNN cần xây dựng đề án lãi suất trên cơ sở lãi suất liên ngân hàng và các tỷ lệ lãi
suất khác.
-Bên cạnh đó, các lãi suất khác cũng phải được điều chỉnh để phù hợp với xu thế phát
triển trong thời gian tới.
- Lãi suất tín phiếu kho bạc:NHNN kết hợp cùng Bộ tài chinh đấu thầu tín phiếu kho
bạc, giá trị của tín phiếu phải phù hợp với nhu cầu thực tế của ngân sách, lãi suất của
tín phiếu kho bạc phải nhr hơn lãi suất chiết khấu của NHNN thì chính sách tiền tệ mới
phát huy tác dụng.
Lãi suất tái chiết khấu: phụ thuộc vào sự thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Việc xác định và điều chỉnh phải vừa tạo điều kiện cho các ngân
hàng hoạt động kinh doanh nhưng không ảnh hưởng đến điều hòa và quản lý khối
lượng tiền tệ trong lưu thông.
+ Để công cụ này phát huy tác dụng trong điều hành lãi suất trên thị trường cần tạo
lập môi trường pháp lý cho sự lưu thông các chứng từ có giá.
+ NHNN cần ban hành các văn bản pháp lý, nghiên cứu và hoàn thiện luật thương
phiếu để tạo điều kiện cho các loại hình dịch vụ mới phát triển
Lãi suất trên thị trường mở:là công cụ chủ động của NHNN. Để nó trở thành một công
cụ chủ yếu của việc điều hành chính sách tiền tệ và trở thành lãi suất mang tính chất
định hướng cần:
+ Bổ sung và đa dạng hóa các công cụ tài chính, thời gian giao dịch, tập trung phát
triển các loại hàng hóa và các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường mở.
+ Phát triển hoạt động thông tin thị trường và đẩy mạnh hoạt động ứng dụng các công
nghệ thông tin hiện đại trong quá trình thu thập, phân tích và xử lý thông tin, nâng cao
khả năng phân tích và dự báo tình hình thị trường.
+ Tổ chức tốt hệ thống thông tin giữa các TCTD trên thị trường liên ngân hàng, từng

bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của
các TCTD, đảm bảo cung cấp kịp thời về NHNN làm cơ sở đưa ra các biện pháp xử lý
kịp thời, chính xác và đem lại hiệu quả tốt nhất.

Trang 23


Trang 24


CHƯƠNG 5 : KẾT LUẬN
Công cụ lãi suất là một công cụ rất nhạy cảm và có tác động rất lớn đến nền kinh tế, do
đó, ngân hàng trung ương phải thận trọng khi đưa ra quyết định liên quan đến chính
sách lãi suất, đồng thời phải đưa ra các biện pháp kịp thời, chính xác để can thiệp
nhằm ổn định thị trường. Các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ chỉ điều hành
thực sự có hiệu quả khi cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận được thực hiện và phát
huy hiệu quả.Tuy nhiên cơ chế điều hành lãi suất ở nước ta hiện nay vẫn chưa hoàn
chỉnh, còn nhiều tác động đến toànn bộ nền kinh tế. Vì vậy cần phải nhìn nhận chính
sách lãi suất là một chính sách tiền tệ chung và phải kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với
các chính sách tiền tệ khác.
Vớ vốn kiến thức và thời gian có hạn, bài tiểu luận chắc chắn không thể tránh khỏi
những sai sót, mong thầy đóng góp ý kiến để bài tiểu luận của chúng em trở nên hoàn
thiện hơn.
Chúng em xin cảm ơn!

Trang 25


×