Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT( NKT) TRONG VẤN ĐỀ CHĂM SÓC SỨC KHOẺ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.26 KB, 18 trang )

Đề bài: 03
1. Quyền lợi của NKT trong vấn đề chăm sóc sức khoẻ theo quy định pháp luật
hiện hành?
2. Tìm một tình huống thực tế về việc tìm kiếm và đảm bảo việc làm của NKT.
Qua đó phân tích những khó khăn, bất lợi của họ và nhận xét quy định pháp luật
hiện hành về chế độ việc làm đối với NKT

1


MỤC LỤC

I.

QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT( NKT) TRONG VẤN ĐỀ

CHĂM SÓC SỨC KHOẺ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1.
Khái quát chung về chăm sóc sức khỏe NKT
1.1. Khái niệm NKT.
Khái niệm NKT hay cơ sở pháp lý để công nhận ai là NKT và từ đó được bảo vệ
bởi hệ thống pháp luật liên quan, phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu mà luật hoặc chính
sách cụ thể của mỗi quốc gia theo đuổi. Do vậy, không có khái niệm chung về NKT áp
dụng chung cho các nước. Ở Việt Nam, khái niệm NKT có thể được hiểu như sau:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc
bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia
của NKT vào hoạt động xã hội trên cơ sở bỉnh đẳng với những chủ thể khác”.
I.2

. Chế độ chăm sóc sức khỏe NKT.
Theo tổ chức y tế thế giới thì “ Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể


chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương
tật”
Các quan điểm của tổ chức y tế thế giới cũng như pháp luật các nước trong đó có
Việt Nam đặt ra 5 quan điểm cơ bản chủ yếu chỉ đạo công tác chăm sóc sức khỏe con
người nói chung trong đó có NKT. Đó là: 1) Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người
và của toàn xã hội; 2) Đổi mới và phát triển, 3) Thực hiện chăm sóc sức khỏe toàn diện;
4) Xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe; 5) Phát triển nhân lực y tế thực hiện
chăm sóc sức khỏe.Từ các quan điểm nêu trên có thể hiểu chăm sóc sức khỏe NKT bao
gồm chăm sóc y tế và chăm sóc ngoài y tế
Như vậy, chăm sóc sức khỏe NKT được hiểu là mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua
lại giữa các yếu tố môi trường bên ngoài như thức ăn, nước uống, điều kiện vệ sinh…và
các yếu tố môi trường bên trọng gồm gen, tế bào…giữa các hoạt động đề phòng sự phát
dinh ra bện tật, phát hiện sớm bện tật…đến việc điều trị kịp thời và phục hồi sức khỏe
NKT.
2


2.

Nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của NKT theo quy định của

pháp luật hiện hành
2.1 Cơ sở pháp lý
Pháp luật quốc tế quy định nội dung chăm sóc sức khỏe NKT trong các văn bản sau:
Công ước về quyền trẻ em (1989) , văn kiện về Các nguyên tắc bảo vệ người bị bệnh tâm
thần và tăng cường chăm sóc sức khỏe tâm thần (1991), Công ước quốc tế về quyền
NKT (2006). Đặc biệt Công ước quốc tế về quyền NKT 2006 đã liệt kê những quyền
con người có ý nghĩa quan trọng với NKT trong đó có quyền được chăm sóc sức khỏe
Điều 25 (Y tế), Điều 26 (Hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng).
Ở Việt Nam, trong quy định của Hiến Pháp (qua các lần sửa đổi) đều khẳng định

NKT được hưởng các quyền của công dân nói chung trong đó có quyền được chăm sóc
sức khỏe. Trước khi Luật NKT được quốc hội thông qua, chế độ chăm sóc sức khỏe NKT
cụ thể hóa trong Pháp lệnh NKT năm 1998 và các luật chuyên ngành khác. Khi Luật
NKT ra đời, chế độ chăm sóc sức khỏe NKT được quy định tại Chương III, từ Điều 21
đến Điều 26. Ngoài ra, trong các luật chuyên ngành cũng có các điều khoản quy định về
việc chăm sóc sức khỏe NKT, đó là: Luật người cao tuổi (Điều 12), Luật khám, chữa
bệnh (Điều 3), Luật hoạt động chữ thập đỏ (Điều 7), Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân
(Điều 2, Điều 41), Luật bảo hiểm y tế (Điều 12 đến Điều 15), Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em (các Điều 41, 42, 48,52), Luật thanh niên (Điều 27), Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng (Điều 9 đến Điều 29)…Tùy từng đối tượng, dạng tật hoặc
nhu cầu của NKT mà pháp luật quy định chế độ chăm sóc sức khỏe NKT được thực hiện
khác nhau, theo đó NKT được hưởng một hoặc nhiều chế độ trong quá trình chăm sóc
sức khỏe.
Theo đó chế độ chăm sóc sức khỏe cho NKT gồm những nội dung cơ bản sau:


Chăm sóc sức khỏe ban đầu



Khám bệnh, chữa bệnh



Phục hồi chức năng



Các chính sách hỗ trợ thực hiện chế độ chăm sóc sức khỏe NKT.


a.

. Nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của NKT
Quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu
2.2

3


Dưới góc độ của Luật NKT Việt Nam thì chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với NKT
bao gồm các quy định về trách nhiệm của trạm y tế cấp xã trong việc giáo dục sức khỏe
phòng ngừa bệnh tật, khám chữa bệnh và phục hồi chức năng cho NKT, cụ thể:


Giáo dục sức khỏe
Việc giáo dục sức khỏe bao gồm cải thiện điều kiện dinh dưỡng và ăn uống hợp lý,
cung cấp cho NKT nguồn nước sạch, vệ sinh môi trường sạch sẽ. Đặc biệt là chăm sóc
sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em… Với trẻ em khuyết tật, việc giáo dục sức khỏe còn thể
hiện qua chương trình giáo dục đặc biệt.
Nội dung này nhằm mục đích tạo cho NKT có những kiến thức cơ bản và sự hiểu
biết về việc tự bảo vệ sức khỏe của chính họ, những người xung quanh cũng như của
cộng đồng. Từ đó, NKT sẽ tự họ loại bỏ dấn những lối sống, thói quen, thậm chí những
phong tục tập quán có hại cho sức khỏe.



Thực hiện các biện pháp phòng ngừa
Hoạt động phòng ngừa được thực hiện rất đa dạng, phong phú nhưng tựu chung có
các hoạt động sau:


-

Hoạt động phòng ngừa không xảy ra khuyết tật: với các nội dung cung cấp cho NKT
có kiến thức hiểu biết về vệ sinh, rèn luyện thân thể, lối sống lành mạnh để tăng cường
sức đề kháng, chống lại bệnh tật; thực hiện khám thai đầy đủ theo quy định của quốc tế
cho các đối tượng dễ sinh con bị khuyết tật; tiêm chủng, phòng chống các bệnh phổ biến
có thể dẫn đến khuyết tật ở trẻ em.

-

Hoạt động phòng ngừa để ngăn ngừa tình trạng ốm đau, tai nạn, rủi ro trở thành khuyết
tật: Cần phát hiện sớm và có những biện pháp xử lý kịp thời, điều trị phù hợp nhằm giúp
những người trong tình trạng ốm đau, tai nạn, rủi ro tránh trở thành NKT, phục hồi lại
được sức khỏe như ban đầu.

-

Hoạt động phòng ngừa để ngăn ngừa khuyết tật gây nên hậu quả nặng hơn: ở những
NKT mắc những bệnh, tật không chữa được hoặc chữa không khỏi thì hoạt động này có
ý nghĩa vô cùng thiết thực với họ, giúp họ tránh được tình trạng suy giảm chức năng trở
nên nặng hơn.



Quản lý sức khỏe
Quản lý sức khỏe NKT là một trong những nội dung quan trọng trong chăm sóc sức
khỏe ban đầu. Người khuyết tật là một trong những đối tượng bên cạnh trẻ em dưới 5

4



tuổi, phụ nữ có thai, người có công với cách mạng… được ưu tiên thực hiện quản lý sức
khỏe.
Chăm sóc sức khỏe ban đầu đóng một vai trò to lớn trong cộng đồng xã hội và càng
thiết thực hơn đối với NKT: giúp NKT ngăn ngừa khuyết tật xảy ra hoặc hạn chế các yếu
tố ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe của họ từ môi trường sống cũng như các yếu tố
khách quan khác mà NKT phải tiếp xúc đồng thời giúp cho các cơ quan chuyên môn có
những biện pháp khắc phục nhanh chóng, kịp thời các khuyết tật từ đó hạn chế các hậu
quả của khuyết tật gây ra, cũng là một cách giảm bớt các gánh nặng cho Nhà nước và xã
hội.
b.

Khám bệnh, chữa bệnh
Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể khi cần
thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ
định phương pháp điều trị phù hợp đã được công nhận đối với NKT. Chữa bệnh là việc
sử dụng phương pháp chuyên môn kĩ thuật đã được công nhận và thuốc đã được phép
lưu hành để cấp cứu, điều trị chăm sóc phục hồi chức năng cho NKT.1
Khám bệnh, chữa bệnh được quy định chủ yếu tại Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật
NKT năm 2010. Nội dung khám bệnh chữa bệnh cho NKT bao gồm:



Quyền được khám bệnh, chữa bệnh
Trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh NKT được hưởng các quyền như mọi công
dân khác theo quy định từ điều 7 đến điều 13 Luật Người Khuyết Tật 2010 như: quyền
khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế; quyền được giữ bí
mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; ...
Ngoài ra do đặc điểm riêng về tình trạng sức khỏe nên luật còn quy định tại khoản 1
điều 22 và khoản 1 điều 23, NKT được nhà nước bảo đảm khám bệnh, chữa bệnh, sử

dụng các dịch vụ y tế phù hợp và được cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện các biện
pháp khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với NKT. Ngoài ra tại khoản 4 điều 22 Luật NKT
2010 còn quy định nội dung: trường hợp NKT là người mắc bênh tâm thần ở trạng thái
kích động, trầm cảm, có ý gây nguy hiểm cho người khác,… thì buộc phải khám chữa
bệnh tại cơ sở khám chữ bệnh. Đối với trẻ sơ sinh khuyết tật bẩm sinh thì được xác định
khuyết tật kịp thời và có biện pháp điều trị, chỉnh hình phục hồi chức năng phù hợp. Mục

1Điều 2 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009

5


đích của quyền này là nhắm khám và chuẩn đoán đúng bệnh, điều trị kịp thời, chăm sóc
điều dưỡng phù hợp, phục hồi chức năng nhanh chóng để NKT sớm ổn định sức khỏe.


Ưu tiên khám bệnh chữa bệnh
Theo quy định của pháp luật thì cơ sở y tế phải ưu tiên khám bệnh chữa bệnh cho
NKT nặng và đặc biệt nặng, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khyết tật
đang mang thai, người có tật có công với cách mạng. Việc ưu tiên được thông qua các
hình thức như: miễn, giảm viện phí, hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí đi lại, …quy định này
thể hiện sự thống nhất, phù hợp với Luật người cao tuổi, Luật khám bệnh, chữa bệnh.
Khi khám bệnh, chữa bệnh NKT được bảo hiểm y tế thanh toán các chi phí y tế theo quy
định của pháp luật bảo hiểm y tế. Trường hợp họ tham gia loại hình bảo hiểm khác cũng
sẽ được hưởng quyền lợi theo quy định hoặc theo thỏa thuận
Ngoài ra theo quy định tại Điều 7 Luật Người khuyết tật thì nhà nước đảm bảo về
cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ y tế trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh cho NKT.
Với các quy định về khám bệnh, chữa bệnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho NKT
khám bệnh, chữa bệnh kịp thời, hiệu quả. Ngoài ra việc quy định các hình thức phong
phú khám bệnh, chữa bệnh, chữa bệnh nội trú, ngoại trú, lưu động, tại nhà như hiện nay

đã giúp NKT có nhiều cơ hội được khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh về thời gian, tài chính, kinh tế của mình.

c.

Phục hồi chức năng
Trên cơ sở quy định của các tổ chức quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam có thể
hiểu phục hồi chức năng đối với NKT bao gồm quy định về các biện pháp y học, giáo
dục, xã hội nhằm hạn chế tối đa việc suy giảm chức năng của bộ phận cơ thể, đảm bảo
cho NKT có cơ hội bình đẳng để hòa nhập xã hội.
Phục hồi chức năng cũng là một trong những nội dung mà pháp luật về chăm sóc
sức khỏe cho NKT đề cập đến. Luật NKT năm 2010 đã ghi nhận về phục hồi chức năng
tại điều 24, điều 25, điều 26. Ngoài ra thì vấn đề phục hồi chức năng cho NKT còn được
quy định tại một số văn bản khác như: công ước số 159 về phục hồi chức năng lao động
về việc làm cho NKT của Tổ chức lao động quốc tế năm 1983, Công ước về quyền của
NKT năm 2006 của Liên hợp quốc, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật bảo
vệ sức khỏe nhân dân… Nội dung của phục hồi chức năng bao gồm:



Phục hồi chức năng thông qua cơ sở chỉnh hình, cơ sở phục hồi chức năng:

6


Nội dung này được quy định tại điều 24 Luật NKT 2010.Cơ sở chỉnh hình, cơ sở
phục hồi chức năng đối với NKT là cơ sở cung cấp dịch vụ chỉnh hình, phục hồi chức
năng cho NKT. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1019/QĐ-TTg phê duyệt Đề
án trợ giúp NKT giai đoạn 2012-2020. Theo đó, trong giai đoạn 2012-2015, hằng năm
70% NKT được tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các hình thức khác nhau; 70% trẻ em từ sơ

sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và
được can thiệp sớm các dạng khuyết tật; khoảng 60.000 trẻ em và NKT được phẫu thuật
chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp...


Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là một biện pháp thực hiện tại nơi với
những NKT cùng chung sống, nhằm chuyển giao kiến thức về vấn đề kĩ thuật, kĩ năng
phục hồi và thái độ tích cực đến NKT, gia đình của NKT. Phục hồi chức năng dựa vào
cộng đồng được quy định tại điều 25 Luật NKT 2010. Theo đó khi phục hồi chức năng
tại cồng đồng thì NKT được tạo điều kiện, hỗ trợ phục hồi chức năng. Nhà nước còn quy
định trách nhiệm của gia đình, cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng, Ủy ban nhân dân
các cấp đối với NKT khi họ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.
Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là giải pháp hữu hiệu nhất để cân bằng sự
mất cân đối giữa nhu cầu của NKT với mức độ đáp ứng của xã hội là lời giải của bài toán
về chi phí chữa trị cho các gia đình NKT có hoàn cảnh khó khăn.

d.

Các chính sách hỗ trợ thực hiện chế độ chăm sóc sức khỏe NKT
Trong việc hỗ trợ thực hiện chế độ chăm sóc sức khỏe NKT, chúng ta đưa ra các
chính sách sau:



Nghiên cứu khoa học về NKT: những hoạt động nghiên cứu khoa học ở đây phải lâu
dài, ở mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh liên quan đến đời sống thể chất cũng như tâm tinh
thần, xã hội của NKT. Những nghiên cứu khoa học sẽ giúp chúng ta tìm ra những nguyên
nhân gây ra khuyết tật để có những giải pháp chăm sóc sức khỏe cho NKT hợp lý, hiệu
quả hơn. Nhà nước cũng có trách nhiệm đối với vấn đề này khi có những quy định hỗ trợ

kinh phí cho các nghiên cứu khoa học về NKT, cụ thể theo Khoản 1Điều 26 Luật NKT:
“Nhà nước hỗ trợ kinh phí theo dự án cho cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học về
NKT, đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên về chỉnh hình, phục hồi chức năng.”



Đào tạo nguồn nhân lực y tế: Đây là những người trực tiếp tiếp xúc để chăm sóc cho
NKT. Vì thế, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách giúp nguồn nhân lực y tế không những
7


nâng cao năng lực chuyên môn mà còn phải tạo cho họ có những kỹ năng về cách ứng xử
cũng như giao tiếp với NKT. Hiện tại, Việt Nam đã có những chính sách đào tạo nguồn
nhân lực y tế cộng đồng để chăm sóc sức khỏe cho NKT. Bên cạnh đó, nhà nước cũng hỗ
trợ kinh phí cho các dự án cho các cơ quan, tổ chức đào tạo chuyên gia trong lĩnh vực
chỉnh hình, phục hồi chức năng.


Tài chính: Việc hỗ trợ tài chính được quy định cụ thể tại Điều 26 Luật NKT. Theo đó,
Nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ như: Ưu tiên vay vốn và lãi suất, giảm thuế
cho các cơ sở sản xuất dụng cụ chỉnh hình, phương tiện, thiết bị phục hồi chức năng, trợ
giúp sinh hoạt, học tập, lao động cho NKT; Miễn, giảm thuế cho các dụng cụ chỉnh hình,
phương tiện, thiết bị phục hồi chức năng , trợ giúp sinh hoạt, học tập, lao động cho NKT
từ chương trình, dự án viện trợ không hoàn lại hoặc do tổ chức, cá nhân nước ngoài tặng,
hỗ trợ.



Hợp tác quốc tế:Việc hợp tác hợp tế đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi lẽ hợp tác
quố tế là con đường ngắn nhất giúp chúng ta tiếp thu được những kiến thức y học tiên

tiến trên thế giới, thông qua các hoạt động như: Tham gia các tổ chức quốc tế; kí kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế liên quan đến chăm sóc sức khỏe
NKT; hợp tác của quốc gia với các tổ chức quốc tế, các cơ quan, các tổ chức phi chính
phủ… trong việc xây dựng và thực hiện chương trình, dự án liên quan đến chăm sóc sức
khỏe NKT.

3.

THỰC TIỄN THỰC HIỆN NỘI DUNG QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC SỨC
KHỎE NKT Ở VIỆT NAM

3.1.

Những kết quả đạt được
Theo báo cáo đến năm 2010 các địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100%
NKT thuộc hộ gia đình nghèo, thực hiện chỉnh hình phục hồi chức năng và cấp dụng cụ
chỉnh hình miễn phí cho khoảng 300 ngàn NKT; cung cấp phương tiện trợ giúp như xe
lăn, xe đẩy, chân tay giả cho trên 100 ngàn người; phẫu thuật chỉnh hình và trợ giúp phục
hồi chức năng cho hàng trăm ngàn trẻ em khuyết tật. Mạng lưới phục hồi chức năng dựa
vào cộng đồng đã được phát triển ở 46/63 tỉnh, thành phố với 215 huyện, trên 2.420 xã...
Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 có 52,4% NKT đi
khám bệnh, phục hồi chức năng nhận được sự hỗ trợ về kinh phí (giảm viện phí).2

2 Bài viết: Thực trạng người khuyết tật và kết quả thực hiện chăm sóc người khuyết tật – TS. Nguyễn Quốc Anh

8


Trong chăm sóc sức khỏe ban đầu: Trong thời gian gần đây thì công tác chăm sóc
sức khỏe ban đầu cho NKT đã được các cơ sở y tế nghiêm túc thực hiện trách nhiệm của

mình và đạt được nhiều kết quả quan trọng: Tổ chức được các lớp nhằm tuyên truyền,
giáo dục chuyên biệt và giáo dục hòa nhập, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe cho
mọi người và đặc biệt là NKT, thực hiện các biện pháp phòng ngừa khuyết tật, rủi ro có
thể gặp phải, tuyên truyền, phổ biến, tổ chức khám thai định kỳ sức khỏe sinh sản cho bà
mẹ….
Trong khám bệnh, chữa bệnh: Hiện nay NKT đã được khám bệnh và chữa bệnh ở
các cơ sở y tế. Ngoài ra, họ còn được ưu tiên khám chữa bệnh hoặc khám chữa bệnh
miễn phí ở các cơ sở y tế như: khám, tư vấn, cấp thuốc miễn phí.
Trong phục hồi chức năng:Theo đánh giá của Bộ Y tế, hiện nay mạng lưới phục hồi
chức năng trong toàn quốc đang được củng cố và hoàn thiện, “ tính đến năm 2010,
chương trình PHCN dựa vào cộng đồng cho NKT đã được triển khai rộng khắp tại 51
tỉnh, thành phố với 337 quận, huyện và 4.604 xã, phường trong cả nước” 3. Các bệnh
viện, khoa và các cơ sở phục hồi chức năng từng bước hiện đại hóa để nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
người bệnh. Thông qua chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, Việt Nam
đã điều tra, phát hiện, tạo điều kiện quản lý sức khỏe cho hơn 170.000 NKT, tiến hành
biện pháp phục hồi chức năng cho 23,2% người có nhu cầu và 44,7% người tàn tật,
khoảng 50,35% số hộ có NKT được hưởng các chính sách hỗ trợ y tế, trong đó 38,17%
được khám, chữa bệnh miễn phí và 45,43% được cấp bảo hiểm y tế, tạo điều kiện cho
NKT có thể khắc phục được khó khăn và hòa nhập được với xã hội.4
Các chính sách hỗ trợ thực hiện chế độ chăm sóc sức khỏe NKT: nội dung nghiên
cứu khoa học về NKT được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đạt được nhiều kết quả với nhiều
công trình chất lượng. Bên cạnh đó, Nhà nước tăng cường hỗ trợ kinh phí theo dự án cho
các cơ quan, tổ chức, đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên trong lĩnh vực chỉnh hình, phục
hồi chức năng… Ngoài ra, nhà nước có những chính sách ưu tiên, hỗ trợ vốn, giảm thuế
cho các cơ sở sản xuất dụng cụ chỉnh hình, phương tiện, thiệt bị phục hồi chức năng, hợp
tác với các tổ chức nước ngoài để có kinh phí hỗ trợ công tác chăm sóc sức khỏe cho
NKT…
3Theo số liệu báo cáo của các Sở Y tế và các bệnh viện điều dưỡng phục hồi chức năng.
4Theo số liệu của Bộ lao động, thương binh và xã hội.


9


3.2 Những hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn những mặt hạn chế cần được khắc phục, cụ
thể:
- Mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn quá thấp so với mặt bằng mức sống dân cư
(mới chỉ bằng 60% chuẩn nghèo), chưa bảo đảm được những nhu cầu sống tối thiểu của
NKT.
- NKT vẫn khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ y tế, nhất là NKT ở vùng sâu,
vùng xa khó khăn, điều kiện đi lại không thuận tiện. Có khoảng trên 6 triệu NKT hiện
đang sinh sống ở vùng nông thôn của Việt Nam. Nhiều địa phương do điều kiện khó
khăn nên công tác chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng chưa được quan tâm thực hiện.
- Những NKT cũng có nhu cầu tình dục và sức khoẻ sinh sản như những người bình
thường khác nhưng họ phải đối mặt với những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ không phù
hợp. Họ không có các cơ hội trong mọi khía cạnh của cuộc sống bao gồm cả những dịch
vụ cơ bản nhất. Hơn nữa, do thiếu tiếp cận về vật chất, thiếu các kỹ năng liên quan đến
khuyết tật và sự trợ giúp của cộng đồng, sự kỳ thị và phân biệt đối xử, các dịch vụ sức
khoẻ sinh sản đối với họ cũng hầu như bất khả kháng..
- Hiện Luật NKT đã đi vào đời sống được 3 năm nhưng vẫn còn rất ít nghị định,
thông tư hướng dẫn về luật này khiến cho NKT cũng như các cơ quan chức năng còn có
cách hiểu khác nhau, khiến việc chăm sóc sức khỏe NKT nói riêng và các nội dung khác
nói chung còn bất cập
II.TÌM MỘT TÌNH HUỐNG THỰC TẾ VỀ VIỆC TÌM KIẾM VÀ ĐẢM BẢO
VIỆC LÀM CỦA NKT. QUA ĐÓ PHÂN TÍCH NHỮNG KHÓ KHĂN, BẤT
LỢI CỦA HỌ VÀ NHẬN XÉT QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
CHẾ ĐỘ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NKT
1.


Ví dụ thực tế về tìm kiếm và đảm bảo việc làm của NKT
Trong bài làm của mình, em xin trích dẫn một ví dụ thực tế về việc tìm kiếm việc
làm của chị Ngô Thị Oanh được viết trên báo của Hội NKT thành phố Hà Nội với nhan
đề “NKT gian nan tìm việc”:
Chị Ngô Thị Oanh ở Thường Tín, Hà Nội bị khuyết tật vận động do căn bệnh não
mà chị mắc từ nhỏ dẫn tới chị gặp khó khăn trong việc đi lại. Mặc dù sở hữu một nền
tảng giáo dục vững chắc nhưng người phụ nữ 38 tuổi này không thể chịu được những cái
10


nhìn phân biệt đối xử của các nhà tuyển dụng chỉ vì chị gặp khó khăn trong việc đi lại.
Vài năm sau khi tốt nghiệp Đại học ngoại ngữ Hà Nội và bươn chải tìm việc, chị được
tuyển vào làm việc ở một vài tổ chức phi chính phủ nước ngoài dưới dạng hợp đồng
ngắn hạn để giúp đỡ những NKT khác. Thế nhưng, các dự án này đã kết thúc từ năm
2008, khiến chị lại rơi vào tình trạng thất nghiệp. Sau 4 năm tìm việc mới nhưng đều vô
dụng, chị chán nản và quyết định về quê sống dựa vào bố mẹ già. Theo chia sẻ của chị
thì chị luôn phải gọi điện hỏi trước xem họ có tuyển NKT không và họ nói là có. Thế
nhưng khi cầm hồ sơ đến nộp, họ nhìn chị như người hành tinh khác, có nơi còn không
cho chị vào… Chị cũng chia sẻ rằng việc làm dường như một giấc mơ quá sức đối với
NKT mặc dù họ vẫn có khả năng lao làm việc

Ảnh mang tính minh hoạ
2.

Những khó khăn, bất lợi mà NKT gặp phải trong quá trình tìm kiếm việc làm:
Từ ví dụ thức tế của chị Oanh có thể thấy rằng, vấn đề tìm kiếm việc làm của NKT
là rất khó khăn. Người khuyết tật là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.Vấn đề
của NKT trong độ tuổi lao động tại Việt Nam là thiếu tài chính (tỷ lệ nghèo trong cộng
đồng NKT rất cao), thiếu học vấn (vì hầu hết đều không được học cao), thiếu nghề
nghiệp (vì không được đào tạo nghề) và thiếu cả cơ hội được làm việc (vì doanh nghiệp

ngại tuyển NKT).
Thứ nhất, về ngoại hình: trong thời đại hiện nay, rất nhiều nhà tuyển dụng khi
tuyển nhân viên còn đề xuất đến vấn đề ngoại hình, đặc biệt là những cơ quan như ngân
hàng, hàng không… Người bình thường còn khó khăn khi phả vượt qua cửa ải này.
Trong khi đó, đối với NKT thì vấn đề ngoại hình càng là trở ngại khiến họ khó đáp ứng
11


được các yêu cầu của nhà tuyển dụng. Ví như trong trường hợp của của chị Oanh, chị bị
khuyết tật vận động, khó khăn trong việc đi lại. Đây cũng là khuyết thiếu mà các nhà
tuyển dụng e ngại khi tuyển chị vào làm bởi việc đi lại khó khăn như vậy khó lòng mà
đáp ứng các công việc được giao
Thứ hai, về tình trạng sức khoẻ: NKT là những người bị khiếm khuyết về thể chất
hay tinh thần nên thường bị suy giảm khả năng lao động. Các đơnvị sử dụng lao động
thường không muốn nhận NKT vì sợ rằng năng suất lao động không cao .NKT thường
thì bị yếu thế hơn so với người lao động khác trong vấn đề sức khoẻ. Do vậy nhà nước
cũng có nhiều quy định ưu tiên đối với họ như về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Tuy nhiên, về phía các nhà tuyển dụng thì đây cũng là điều khiến họ không muốn tuyển
NKT vào làm. Với tâm lý sợ họ không đủ sức khoẻ làm việc, không hoàn thành công
việc mà họ yêu cầu khi cần thiết. Đây cũng là khó khăn mà NKT gặp phải khi tìm kiếm
việc làm
Thứ ba, về trình độ học vấn: Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam,
trình độ học vấn của NKT ở Việt Nam rất thấp. 41% số NKT chỉ biết đọc biết viết;
19,5% học hết cấp một; 2,75% có trình độ trung học chuyên nghiệp hay chứng chỉ học
nghề, và ít hơn 0.1% có bằng đại học hoặc cao đẳng. Nhìn chung, chỉ có khoảng 3%
được đào tạo nghề chuyên môn, và chỉ hơn 4% người có việc làm ổn định. Hiện có hơn
40% người khuyết tật sống dưới chuẩn nghèo (Bộ LĐTBXH, 2005)
Khó khăn trong học tập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xin việc, trình độ học vấn
chung của NKT thấp hơn tương đối so với cộng đồng. Ngoài ra một số công việc có
những yêu cầu mà NKT khó thực hiện tốt được, điều này có thể được giảm thiểu bằng

cách tránh những việc liên quan đến hạn chế của mình, chẳng hạn khuyết tật ở chân thì
không nên tìm những việc phải đi lại quá nhiều. Một số khác thì yêu cầu ngoại hình và
sức khỏe tốt, đây cũng là những công việc mà họ khó có thể tiếp cận
Trong khi đó, ngay cả trường hợp có trình độ học vấn bậc đại học như chị Oanh kể
trên mà còn rất khó khăn trong tìm việc làm, thì đối với những NKT không có học vấn,
không được đào tạo chuyên môn đểcó một công việc ổn định đúng là “như một giấc mơ”
Thứ tư, Khó khăn về việc tiếp cận dành cho người khuyết tật: bao gồm tiếp cận
thông tin về các chính sách, tiếp cận giao thông và tiếp cận cơ sở vật chất. NKT muốn
tham gia vào các hoạt động của xã hội nhưng họ lại không thể tiếp cận giao thông. Người
khiếm thị không thể tiếp cận trường lớp vì thiếu giáo trình (phần mềm đọc chữ, chữ
12


nổi, ..) và chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp. Do đó dẫn tới tìn h trạng khó khăn
trong tìm kiếm việc làm. Họ không đáp ứng được công việc hay yêu cầu mà nhà tuyển
dụng mong muốn
Thứ năm, Về phía các doanh nghiệp: Doanh nghiệp cho rằng tạo việc làm cho
NKT là trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, việc thực thi trách nhiệm này có nghĩa là doanh
nghiệp sẽ có thêm gánh nặng và làm giảm sức cạnh tranh, doanh thu và lợi nhuận.
Doanh nghiệp nhận thấy NKT là những người có năng suất làm việc kém hơn người bình
thường nhưng họ vẫn có khả năng lao động. Hành vi sau cùng của doanh nghiệp là
quyết định tuyển dụng NKT nếu họ đáp ứng đủ 3 điều kiện: năng lực, phẩm chất và loại
khuyết tật. Do đó họ còn phân vân và đắn đo rất nhiều trong việc tuyển dụng lao động là
NKT. Vấn đề về lợi ích của doanh nghiệp vẫn được đặt lên hàng đầu mặc dù doanh
nghiệp vẫn nhận trách nhiệm tạo việc làm bình đẳng cho nguồn lao động này. Ngoài ra,
trong một số trường hợp, nhà tuyển dụng vẫn còn tư tưởng kì thị NKT, không cho họ vào
nộp hồ sơ như trường hợp của chị Oanh thì thật là đáng buồn
Trong xã hội ngày nay, để tìm được công việc phù hợp và ổn định không phải là
chuyện dễ. Người bình thường tìm việc làm đã khó, NKT tìm việc làm lại càng khó hơn.
Hành lang pháp lý của nhà nước dành cho NKT tương đối đầy đủ như: chính sách ưu đãi,

hỗ trợ vốn, ưu tiên đối với. Tuy nhiên, số NKT có được việc làm ổn định hiện nay còn rất
thấp
Hiện NKT muốn làm việc đều chỉ có thể tự tạo việc làm cho mình, tự kinh doanh
sản xuất ở nhà chứ không làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp. Vì chẳng ai tuyển họ,
mà có tuyển thì họ cũng khó theo kịp công việc của công ty.
3. Nhận xét quy định của pháp luât hiện hành về chế độ việc làm đối với NKT


Trách nhiệm của một số chủ thể trong lĩnh vực việc làm đối với NKT
- Trách nhiệm của nhà nước: Điều 13 BLLĐ quy định “Giải quyết việc làm, đảm
bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của
Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”. NKT cũng là công dân, là lực lượng
lao động xã hội nên Nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết việc làm cho họ. Hơn nữa,
NKT lại là bộ phận dân cư cần được quan tâm đặc biệt nên Nhà nước càng cần phải có
trách nhiệm hơn đối với đối tượng này. NKT thường bị suy giảm khả năng lao động nên
Nhà nước phải có trách nhiệm phục hồi chức năng lao động cho họ cùng với những hỗ
trợ khác để NKT có việc làm cũng như ổn định việc làm và duy trì việc làm lâu bền. Cụ
13


thể theo Điều 33 Luật người khuyết tật thì Nhà nước tạo điều kiện để NKT phục hồi
chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với
sức khoẻ và đặc điểm của NKT. Điều 125 BLLĐ quy định “Nhà nước bảo hộ quyền
làm việc của NKT và khuyến khích việc thu nhận, tạo việc làm cho NKT”..
Những quy định cụ thể trên đã đảm bảo quyền được lao động và những chính sách
ưu tiên nhất định cho NKT, phần nào giúp cho họ có cơ hội tìm kiếm việc làm được
thuận lợi hơn.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân:Để tránh tình trạng
kì thị, phân biệt đối xử, tạo ra những rào cản dẫn đến sự hạn chế cơ hội có việc làm của
NKT, Luật người khuyết tật quy định các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cá nhân không

được từ chối tuyển dụng NKT có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu
chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của NKT. Cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là NKT tùy theo điều kiện cụ thể
bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho NKT
đồng thời phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là
NKT.
Đặc biệt, các doanh nghiệp còn có trách nhiệm nhận tỉ lệ lao động là NKT đối với
một số nghề và công việc theo quy định của Chính phủ (theo khoản 3 Điều 125 BLLĐ).
Cụ thể theo Điều 14 Nghị định số 81/NĐ-CP, các doanh nghiệp thuộc các ngành sản
xuất điện năng, luyện kim, hoá chất, địa chấ đo đạc bản đồ, dầu khí, khai thác mỏ, khai
thác khoáng sản, xây dựng cơ bản, vận tải phải nhận 2% lao động là NKT; doanh nghiệp


thuộc các ngành khác là 3%.
Chế độ hỗ trợ đối với NKT trong lĩnh vực việc làm .
Để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận NKT vào làm việc, Nhà nước
đã có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với các cơ sở này. Cụ thể các cơ sở sản xuất,
kinhdoanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là NKT được hỗ trợ cải tạo điều kiện,
môi trường làm việc phù hợp cho NKT; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được
vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho
thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ
sản xuất, kinh doanh theo tỉ lệ lao động là NKT, mức độ khuyết tật của người lao động
và quy mô doanh nghiệp (Điều 30 Luật người khuyết tật). Ngoài ra, Theo quy định của
pháp luật, các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương lập quỹ việc làm cho NKT để giúp
NKT phục hồi chức năng lao động và tạo việc làm.

14


Chế độ hỗ trợ đối với NKT trong vấn đề việc làm phần nào giúp giảm thiểu gánh

nặng cho các doanh nghiệp trong việc hỗ trợ cơ sở vật chất cho họ, từ đó những ưu tiên


nhất định trong việc tuyển dụng NKT vào làm tại những cơ sở này.
Quyền và nghĩa vụ của NKT trong lĩnh vực việc làm
Khi tham gia vào quan hệ lao động thì NKTcũng trở thành chủ thể của quan hệ lao
động. Vì vậy, cũng như những người lao động khác khi đã trở thành chủ thể của quan hệ
lao động, NKT cũng sẽ có các quyền đồng thời cũng phải thực hiện các nghĩa vụ của
người lao động trong quan hệ lao động.Tuy nhiên, vì NKT là đối tượng lao động đặc thù
nên pháp luật cũng có một số quy định riêng cho phù hợp với yếu tố đặc thù của họ. Cụ
thể khi tham gia quan hệ lao động, NKT được giảm thời gian làm việc. Họ chỉ phải làm
7h trong một ngày và 42h trong một tuần. Đặc biệt để bảo vệ sức khoẻ cho NKT, pháp
luật còn quy định NKT không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao động, thương binh và xã hội và Bộ y
tế ban hành và NKT bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên không phải làm thêm
giờ, làm việc ban đêm.
Những quy định này ở một góc độ nào đó chính là nhằm bảo vệ NKT, đảm bảo sức
khoẻ cho họ khi tham gia quan hệ lao động. Tuy nhiên, ngày nay có quan điểm cho rằng
sự quy định mang tính chất ưu đãi NKT đó lại chính là rào cản đối với NKT trong lĩnh
vực việc làm. Với những quy định mang tính riêng biệt trong việc sử dụng lao động này,
người sử dụng lao động sẽ không muốn sử dụng lao động là NKT. Bởi vậy, cần phải
hướng tới việc đảm bảo điều kiện lao động để không xảy ra những rủi ro sức khoẻ cho
cả NKT và người không khuyết tật thay vì giảm thời gian làm việc hay cấm NKT không



được làm một số công việc nào đó.
Nhận xét chung về chế độ việc làm của NKT theo quy định của pháp luật hiện




hành:
Về ưu điểm
+Pháp luật về lao động cho NKT đã thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước nhằm
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT thực hiện quyền bìnhđẳng các quyền kinh
tế văn hóa và xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hòa nhập cộng
đồng, tham gia các hoạt động xã hội;
+Chế định việc làm cho NKT phù hợp với thực tiễn và với quan điểm chính sách
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta và cũng là phát huy truyền thống tốt đẹp“tương thân
tương ái”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta;

15


+Pháp luật bước đầu đã hình thành được một hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ
- từ Bộ luật lao động, Pháp lệnh người tàn tật, Nghị định và Thông tư hướng dẫn phù
hợp với chính sách hiện có và tình hình thực tế củađất nước, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho NKT và các tổ chức của NKT tiếp cận các dịch vụ sản xuất và các dịch vụ
cơ bản;
+Cùng với hệ thống pháp luật về người tàn tật trong nước ra đời, kết hợp với việc
gia nhập Công ước quốc tế về quyền của NKT, nhận thức của cộng đồng về NKT được
nâng cao, lao động khuyết tật được cộng đồng quan tâm đầy đủ hơn. Thay vì coi trợ giúp
NKT là việc làm nhân đạo thì nay cộng đồng đã nhận thức được hoạt động đó là trách
nhiệm xã hội;
+ Pháp luật đã tạo điều kiện, phá bỏ những rào cản để NKT hòa nhập, tiếp cận cộng
đồng , có cơ hội làm việc, lao động, có thu nhập để ổn định cuộc sống, hạn chế dần dần
sư phụ thuộc vào gia đình, vào sự cưu mang của xã hội, góp phần làm cho xã hội ta ngày
càng trở nêntốt đẹp hơn, thể hiện tính nhân văn sâu sắc.



Về hạn chế
Bên cạnh những thành công của hệ thống pháp luật về lao động khuyết tật vẫn còn
một số hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội:
-Pháp luật lao động khuyết tật thiếu chính sách và đường lối chỉ đạo các hoạt động
hỗ trợ cho lao động khuyết tật thực hiện chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng
đồng và giáo dục hòa nhập để có thể học nghề, tìm việc làm;
-Pháp luật lao động chưa huy động được nguồn lực của xã hội và của cộng đồng
cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc dạy nghề cho lao động khuyết tật. Nguồn lực đầu tư
cho dạy nghề còn hạn hẹp, nhất là việc thu hút nguồn lực để đầu tư dạy nghề cho nhóm
yếu thế ở các vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn;
-Qua 15 năm triển khai, một số quy định của pháp luật về lao động khuyết tật khi áp
dụng vào thực tế tỏ ra lúng túng và bất khả thi;
-Pháp luật còn thiếu các quy định về cưỡng chế thực hiện, mức xử phạt hành chính
đối với hành vi vi phạm pháp luật lao động với lao động là NKT còn nhẹ, chưa đủ sức
răn đe đối với các doanh nghiệp

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam ( Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB.
Công an nhân dân, 2011)

2.

Luật người khuyết tật 2010

3.


Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007

4.

Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
5.
6.

Nghị định số 81/NĐ-CP
Nghị định số 16/NĐ -CP ngày 23/4/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị đị nh số 81/NĐ-CP về lao động là người khuyết tật
7.

Báo cáo thường niên về thực trạng người khuyết tật Việt Nam năm 2010 (NXB. Lao
động - Xã hội)

8.

Báo cáo số 62/BC-LĐTBXH, ngày 15 /7/2009 tổng kết việc thực hiện Pháp lệnh
người khuyết tật và các văn bản pháp lý có liên quan

9.

Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PGS.TS Trần trọng hải chủ biên, NXB. Giáo
dục Việt Nam, 2010)

10.


Đề cương tuyên truyền Luật người khuyết tật, Hà Đình Bốn, Bộ lao động thương
binh và xã hội, 2010

11.

Bài viết: Thực trạng người khuyết tật và kết quả thực hiện chăm sóc người khuyết tật
– TS. Nguyễn Quốc Anh

12.

/>
13.

/>14.

/>
option=com_content&task=view&id=3322
\

17



×