Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nghiên cứu Nếp sống có văn hóa của HS THPT huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.33 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
PHỤ LỤC......................................................................................................................
MỞ ĐẦU......................................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu...............................................................
3.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................................................................7
3.2. Khách thể nghiên cứu...................................................................................................................................7

4. Giả thuyết khoa học.......................................................................................
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lí luận tâm lí học về NSCVH của HS................................................................7
5.3 Đề xuất các biện pháp tác động vào nhận thức và hành vi giúp HS có biểu hiện hành vi có văn hóa trong
học tập, sinh hoạt, trong giao tiếp, đồng thời thử nghiệm một số biện pháp tác động........................................7

6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................
6.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận....................................................................................................................7
6.2 Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi............................................................................................................7
6.3 Phương pháp quan sát...................................................................................................................................7
6.4 Phương pháp trò chuyện, tọa đàm.................................................................................................................7
6.5 Phương pháp phỏng vấn................................................................................................................................7
6.6 Phương pháp nghiện cứu trường hợp (case study)........................................................................................8
6.7 Phương pháp thực nghiệm............................................................................................................................8
6.8 Phương pháp giải quyết một số tình huống mô phỏng..................................................................................8
6.9 Phương pháp thống kê toán học....................................................................................................................8

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.........................................................................
8. Đánh giá của luận văn...................................................................................
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN TÂM LÍ HỌC
VỀ NẾP SỐNG CÓ VĂN HÓA


1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về nếp sống ở nước ngoài..............................................................................9
1.1.2. Nghiên cứu nếp sống ở Việt Nam...........................................................................................................10

1.2. Khái niệm nếp sống và các khái niệm liên quan.......................................
1.2.1. Khái niệm nếp sống tiếp cận trên bình diện các khoa học xã hội nhân văn và tâm lí học......................11
1.2.2. Một số khái niệm liên quan đến nếp sống...............................................................................................14
1.2.3. Hệ thống giá trị và nếp sống....................................................................................................................17

1.3. Văn hóa và nếp sống có văn hóa..............................................................
1.3.1. Khái niệm văn hóa..................................................................................................................................18
1.3.2. Chức năng của văn hóa...........................................................................................................................21
- Chức năng nhận thức: Giúp con người nhận thức thế giới tự nhiên, đời sống xã hội, cá nhân trong tất cả các
mặt của hoạt động văn hóa................................................................................................................................21
- Chức năng giáo dục: Bằng các giá trị ổn định văn hóa đã định hướng lí tưởng, đạo đức hành vi con người
theo các khuôn mẫu ứng xử của xã hội.............................................................................................................21
- Chức năng điều tiết các quan hệ xã hội: Thông qua đó con người định vị được trạng thái cân bằng với thế
giới tự nhiên, xã hội và bản thân mình nhằm không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của
môi trường.........................................................................................................................................................21
- Chức năng giao tiếp: Văn hóa gắn liền với con người từ nhận thức, cảm xúc đến hành động và hành vi cá
nhân. Nên văn hóa sẽ là nội dung, công cụ giao tiếp quan trọng của con người với nhau................................21
- Chức năng dự báo: Văn hóa hướng vào các giá trị ổn định hoặc đang và sẽ hình thành. Qua đó sẽ góp phần
hình thành nên phương hướng phát triển cho xã hội ngày càng tiến bộ văn minh hơn.....................................21
1.3.3. Khái niệm nếp sống có văn hóa..............................................................................................................21

1.4. Học sinh THPT và nếp sống có văn hóa của HS THPT...........................
1.4.1. Một số đặc điểm tâm lí, nhân cách của HS THPT..................................................................................23
1.4.2. Các lĩnh vực biểu hiện nếp sống của HS................................................................................................26
1.4.3. Nếp sống có văn hóa của học sinh THPT...............................................................................................27


1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới nếp sống có văn hóa của học sinh THPT.........
1.5.1. Yếu tố chủ quan về phía HS....................................................................................................................30
1.5. 2. Các yếu tố khách quan...........................................................................................................................31

1


CHƯƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổ chức nghiên cứu:.................................................................................
2.2. Các phương pháp nghiên cứu:..................................................................
2.2.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu tài liệu văn bản:..............................................................................36
2.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực trạng:.....................................................................................36
g. Tổ chức thử nghiệm tác động........................................................................................................................39
h. Phương pháp thống kê toán học....................................................................................................................41

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG VÀ THỬ NGHIỆM
3.1. Vài nét về trường THPT Kỳ Anh và trường THPT Lê Quảng Chí..........
3.1.1. Vài nét về trường THPT Lê Quảng Chí..................................................................................................44
3.1.2. Vài nét về trường THPT thị trấn Kỳ Anh................................................................................................44

3.2. Kết quả khảo sát thực trạng nếp sống có văn hóa của HS........................
3.2.1. Nhận thức và mức độ quan tâm của HS THPT về các giá trị quan
trọng trong cuộc sống.......................................................................................
3.2.2. Nhận thức và thể hiện của HS về các giá trị văn hóa trong học tập,
quan hệ ứng xử và sinh hoạt............................................................................
3.2.2.1. Nhận thức và thể hiện của HS về các giá trị văn hóa trong học tập....................................................46
3.2.2.2. Nhận thức và mức dộ thể hiện của HS về các giá trị văn hóa trong ứng xử.......................................48

3.2.2.3. Nhận thức và biểu hiện của HS về các giá trị văn hóa trong sinh hoạt................................................51
3.2.2.4. Nhận thức và mức độ thể hiện NSCVH của HS trong việc đấu tranh phòng chống các hành vi tiêu
cực trong xã hội và thể hiện nếp sống trong thời gian rảnh rỗi.........................................................................52
3.2.2.5. Nhận xét về nhận thức của HS với các giá trị văn hóa trong học tập, giao tiếp, ứng xử và sinh hoạt..54

3.2.3. Thái độ của HS đối với những biểu hiện về nếp sống có văn hóa.........
3.2.3.1. Thái độ của HS đối với những biểu hiện có văn hóa và thiếu văn hóa trong nếp sống.......................55
3.2.3.2. Biểu hiện thái độ trong các mặt cụ thể về nếp sống có văn hóa của HS..............................................57
3.2.3.3. Nhận xét chung về thái độ đối với các mặt thể hiện NSCVH.............................................................60
Nhìn chung HS đã có thái độ đồng tình với những giá trị có văn hóa (tuy chưa phải là tuyệt đối) và mức độ
biểu hiện của HS tương đối ổn định, phù hợp với nhận thức chung. Còn với những yếu tố thiếu văn hóa thì
HS tỏ rõ thái độ, lập trường kiên quyết của mình. Song không vì vậy mà HS đồng tình tuyệt đối với điểm
trung bình bằng 1 cả, ngược lại vẫn có một số cá nhân có lập trường chưa vững vàng dễ dao động. Chưa có
thái độ dứt khoát với những yếu tố không phù hợp với cuộc sống sinh hoạt của HS.......................................60

3.2.4. Biểu hiện về hành vi nếp sống văn hóa của HS THPT..........................
3.5.1. Biểu hiện của hành vi nếp sống văn hóa trong học tập...........................................................................61
Từ bảng 3.8 cho ta thấy:....................................................................................................................................61
3.2.4.2. Biểu hiện của hành vi nếp sống văn hóa trong quan hệ ứng xử...........................................................63
3.2.4.3. Biểu hiện hành vi NSCVH trong sinh hoạt, thời gian rảnh rỗi.............................................................63

3.3. Đánh giá của thầy cô giáo về mức độ biểu hiện hành vi nếp sống
văn hóa của HS................................................................................................
3.4. Nhận xét chung về biểu hiện NSCVH của hai trường được khảo sát.
.........................................................................................................................
3.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến nếp sống văn hóa và thiếu văn hóa của
HS THPT ở trường học, gia đình, trong quan hệ bạn bè và xã hội..................
3.5.1 Những yếu tố tích cực giúp HS hình thành nếp sống có văn hóa.............................................................70
3.5.2. Những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến việc hình thành và biểu hiện NSCVH của HS..........................74
3.5.2.1. Đánh giá của HS về các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến việc hình thành và biểu hiện NSCVH..........74


3.6. Nguyện vọng và ý kiến của HS THPT về nội dung giáo dục rèn
luyện NSCVH cho HS THPT hiện nay...........................................................
3.7. Đánh giá chung về thực trạng nếp sống có văn hóa của học sinh hai
trường THPT Lê Quảng Chí và trường THPT Kỳ Anh Hà Tĩnh.....................
3.8. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm các biện pháp tác động nâng cao
nhận thức của học sinh về nếp sống có văn hóa..............................................
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ....................................................................................

2


1. Kết luận.......................................................................................................
2. Kiến nghị.....................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................
.....................................................................................................................................
PHỤ LỤC

DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTƯ

:

Ban chấp hành Trung ương

CNH-HĐH

:


Công nghiệp hóa hiện đại hóa

ĐCSVN

:

Đảng cộng sản Việt Nam

ĐH

:

Đại học

ĐHSP

:

Đại học sư phạm

ĐTB

:

Điểm trung bình

GD & ĐT

:


Giáo dục và đào tạo

HS

:

Học sinh

NSCVH

:

Nếp sống có văn hóa

TB

:

Thứ bậc

THPT

:

Trung học phổ thông



:


Trung ương

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Lối sống, nếp sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội là những yếu tố cơ bản gắn
liền với mọi mặt của đời sống vật chất và tinh thần của toàn xã hội. Lối sống, nếp
sống, có văn hóa của xã hội Việt Nam được hình thành, kết tinh trong suốt hàng ngàn
năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng
các dân tộc.
Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, văn hóa, giáo dục trên toàn
cầu làm cho chúng ta nhìn nhận, đánh giá đúng hơn yếu tố con người. Quan tâm đến
con người không thể không quan tâm đến thanh niên, lực lượng nòng cốt, là những
người chủ thật sự của đất nước trong tương lai. Thanh niên, HS THPT luôn là lớp
người trẻ tuổi, thích ứng với mọi sự thay đổi của thời cuộc và của xã hội. Khi quan
tâm đến thanh niên cần phải quan tâm đến lối sống, nếp sống, thói quen của họ. Vì
đây là tổng thể các phương thức, phương pháp suy nghĩ và hành động tương đối ổn
định đặc trưng cho một xã hội, cộng đồng nhóm hay cá nhân trong hoàn cảnh nhất
định. Do vậy mà trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
Đảng Cộng sản Việt Nam, cố tổng bí thư Lê Duẩn đã phát biểu: “Xây dựng nền văn
hóa mới và con người mới là điều kiện cần và có thể thực hiện từng bước tạo ra một
xã hội đẹp về lối sống, quan hệ giữa con người với con người, một xã hội trong đó

nhân dân lao động cảm thấy hạnh phúc tuy mức sống chưa cao” [7].
HS THPT là những người chủ tương lai của đất nước và sẽ trực tiếp tham gia
vào lao động sản xuất. Do vậy việc hình thành cho HS lối sống, NSCVH có một ý
nghĩa rất lớn. Nếp sống có văn hóa là yếu tố quan trọng để hình thành và phát triển
toàn diện cho HS. NSCVH trong giao tiếp, trong học tập và trong cuộc sống hàng
ngày, sẽ giúp HS xây dựng cho mình những thói quen sinh hoạt lành mạnh bổ ích.
Hiện nay có không ít HS có nếp sinh hoạt chưa thực sự phù hợp với chuẩn mực, thậm
chí còn lộn xộn, tự do. Chúng ta biết rằng hoạt động, hành vi của con người có tác
động rất lớn đến việc hình thành phát triển nhân cách. Nhà trường, cần giáo dục, định
hướng cho HS tự xây dựng cho mình nếp sống có văn hóa trong nhận thức, cũng như
trong hành vi.

4


Nếp sống có văn hoá là một trong những yếu tố cơ bản để xây dựng một xã hội
văn minh. Mỗi con người muốn trưởng thành cần phải có một hệ thống giá trị mang
đậm tính cá nhân đồng thời chứa đựng trong đó những giá trị văn hóa mang tính chất
khuôn mẫu của dân tộc và thời đại. Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X đã nêu “Xây
dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam mới, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế
quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt
là lí tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người
Việt Nam’’. Đối với thế hệ trẻ hiện nay, việc hình thành ở họ NSCVH mang một ý
nghĩa vô cùng quan trọng. NSCVH chính là điểm tựa cho HS vững vàng bước vào
cuộc sống, là những cơ sở để HS đối chiếu giữa cái xấu và cái tốt, giữa những
phương thức sống khác nhau. Chính vì thế Hội nghị lần thứ 9- BCH TƯ khóa VII đã
nhấn mạnh: “Một chính sách phát triển đúng đắn phải là chính sách làm cho các yếu
tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hành động sáng tạo của con
người: văn hóa trong sản xuất, văn hóa trong quản lí, văn hóa trong lối sống, văn

hóa trong giao tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, ngoài xã hội…” [3].
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập, với nền kinh tế tiên tiến trên thế
giới. Thế hệ trẻ đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức đặt ra. Chúng ta cần phải
có nhiều sự thay đổi làm sao bắt kịp thời đại, nhưng không làm mất đi giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Văn hóa là nhân tố kết dính các mối quan hệ kinh tế - chính
trị - xã hội….tạo nên tính đặc trưng của dân tộc và làm động lực thúc đẩy, điều chỉnh
sự phát triển kinh tế xã hội. Nghị quyết lần thứ IV- BCH TƯ khóa VII đã khẳng định:
“ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển, đồng
thời là một mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội” [2]. Chúng ta cần phải quan tâm
đến mọi sự thay đổi của HS. Sự thay đổi đầu tiên mà chúng ta dễ dàng nhận thấy là
những thay đổi trong cách sinh hoạt, trong lối sống, trong nếp sống của HS. Sự thay
đổi đó diễn như thế nào? Tác động ra sao đến cuộc sống sinh hoạt học tập của HS?
Đứng trước tình hình đó nên tôi đã đi sâu Nghiên cứu NSCVH của HS THPT
huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh. Đề tài hoàn thành có thể đưa ra một vài giải pháp giúp
cho việc định hướng, lựa chọn, hình thành phát triển ở thế hệ trẻ những NSCVH
mang tính thời đại và chứa đựng đậm đà bản sắc dân tộc trong nếp sống.

5


2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, khảo sát thực trạng NSCVH của HS
hai trường THPT Huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh, đề xuất một số biện pháp tác động,
góp phần rèn luyện NSCVH cho HS phù hợp với xã hội hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
NSCVH của HS trung học phổ thông.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Nghiên cứu 300 HS, một số giáo viên và phụ huynh của hai trường THPT:
Trường THPT Thị trấn Kỳ Anh và trường THPT Lê Quảng Chí trên địa bàn Kỳ Anh –

Hà Tĩnh năm học 2006 - 2007.
4. Giả thuyết khoa học.
HS THPT có những biểu hiện tương đối tốt về NSCVH, tuy nhiên hiện nay
trong xã hội nhiều yếu tố không có lợi đã tác động đến nếp sống của một số HS, có
nhiều biểu hiện chưa phù hợp với yêu cầu xã hội trong nếp sống, lối sống của mình.
Nếu chúng ta nắm được thực trạng và những nguyên nhân làm hạn chế NSCVH của
HS thì có thể nêu lên một số biện pháp tác động giáo dục góp phần giúp HS rèn luyện
NSCVH hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lí luận tâm lí học về NSCVH của HS.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng NSCVH hiện nay của HS THPT và lí giải
nguyên nhân của thực trạng.
5.3 Đề xuất các biện pháp tác động vào nhận thức và hành vi giúp HS có biểu
hiện hành vi có văn hóa trong học tập, sinh hoạt, trong giao tiếp, đồng thời thử
nghiệm một số biện pháp tác động.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài chúng tôi đã sử dụng phối hợp một số biện pháp:
6.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận
6.2 Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
6.3 Phương pháp quan sát
6.4 Phương pháp trò chuyện, tọa đàm
6.5 Phương pháp phỏng vấn
6


6.6 Phương pháp nghiện cứu trường hợp (case study)
6.7 Phương pháp thực nghiệm
6.8 Phương pháp giải quyết một số tình huống mô phỏng
6.9 Phương pháp thống kê toán học
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.

Trong điều kiện thời gian cho phép chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thực
trạng NSCVH của HS trường THPT Lê Quảng Chí và trường THPT thị trấn Kỳ Anh
– Hà Tĩnh, bước đầu đề xuất một số biện pháp tác động giáo dục NSCVH cho HS.
8. Đánh giá của luận văn
* Về mặt lí luận: Góp phần tổng hợp, hệ thống hóa, một số vấn đề cơ bản tâm lí
học về NSCVH và các yếu tố ảnh hưởng đến NSCVH ở HS THPT.
* Về mặt thực tiễn: Cung cấp một hiện trạng biểu hiện NSCVH của HS THPT
ở địa bàn Kỳ Anh Hà Tĩnh hiện nay, giúp cho các nhà giáo dục có thêm tài liệu thực
tế để có thể có nhiều biện pháp tác động giúp HS THPT rèn luyện tốt hơn về
NSCVH.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giáo dục nếp sống có văn hóa cho học sinh.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN TÂM LÍ HỌC
VỀ NẾP SỐNG CÓ VĂN HÓA
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về nếp sống ở nước ngoài.
Sự phát triển mạnh mẽ của một quốc gia đó chính là mức sống của nhân dân là
sự tiến bộ văn minh của xã hội đó. Yếu tố quan trọng góp phần tạo ra sự phát triển đó
là lối sống, nếp sống, phương thức sinh hoạt của mỗi cá nhân. Lối sống, nếp sống đây
là những phản ánh chung của xã hội vì lẽ đó mà vấn đề này trở thành đối tượng
nghiên cứu của một hệ thống đa nghành các khoa học như: Triết học, Đạo đức học,
Xã hội học, Tâm lí học, Giáo dục học…Khi nghiên cứu lịch sử của vấn đề lối sống và
nếp sống trên hai bình diện thực tiễn và lí luận thì chúng ta nhận thấy phần lớn các
tác giả trong nước và trên thế giới đều nghiên cứu một cách chung chung chưa có
tính độc lập. Mặc dù chúng ta biết rằng nếp sống là một vấn đề thuộc phạm trù của

lối sống, nên những nghiên cứu về nếp sống ít nhiều liên quan đến lối sống.
Khi bàn về lối sống và nếp sống đã thấy xuất hiện trong các tác phẩm của C.
Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin dù chỉ mới dừng lại mức độ mô tả. Trong hệ tư tưởng
Đức là một tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết “Phương thức sản xuất
không chỉ là tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của con người, mà trên một trình độ
lớn hơn, nó là một phương thức hoạt động nhất định của cá nhân đó, một phương
thức nhất định để biểu hiện đời sống của họ, một phương thức sinh hoạt nhất định” .
Nhà xã hội học người đức Max Weber (1864- 1920) ông đã nghiên cứu về “lối
sống, nếp sống” như một khái niệm khoa học. Ông đã phân chia các tầng lớp xã hội
theo mô hình tam giác, đỉnh của tam giác là tầng lớp trên, đây là tầng lớp chủ của
phương tiện sản xuất. Phần giữa chỉ tầng lớp trung lưu, phần đáy là tầng lớp nghèo
khổ. Qua cách phân tầng xã hội ông đã đưa ra các kiểu sống, lối sống ứng với mỗi tầng
lớp và theo ông con người có thể hành động theo bốn kiểu hành động xã hội sau: Hành
động hợp lí theo một giá trị; hành động theo tập quán; hành động theo truyền thống;
hành động theo tình cảm
Như vậy những điều kiện hình thành lối sống ứng xử mà Weber nghiên cứu có
ảnh hưởng sâu sắc đến kết cấu xã hội. Những người có cùng mức độ uy tín, quyền

8


lực thường có cùng một lối sống, lối ứng xử, lối sinh hoạt cho nên họ thường giao
tiếp với nhau, hình thành nên những nhóm cùng địa vị.
N. M. Kêgiêrốp đã nghiên cứu về lối sống và nếp sống trong tác phẩm: “Vấn đề
lối sống trong chiến dịch tuyên truyền tư sản hiện nay” [14]. Và tác phẩm: “Lối sống
Xô viết hôm nay và ngày mai” của tác giả V. R. Đôbrưnhia đã phân tích đặc trưng của
lối sống Tư Bản khác với lối sống XHCN như thế nào.
Nhà xã hội học V. Đôbơrianôv đã đề cập đến vấn đề lối sống trong tác phẩm: “Xã
hội học Mác - Lênin”. Theo ông “Lối sống là một cơ cấu và phẩm chất nhất định của
hoạt động sống hàng ngày của con người nhằm thể hiện họ về mọi mặt với tư cách là

những thực thể xã hội”[10]. Ông đã nêu ra cấu trúc của lối sống trên cơ sở những hoạt
động sống của con người bao gồm: Hoạt động lao động; hoạt động chính trị - xã hội;
hoạt động văn hóa; hoạt động tái sinh sản; hoạt động giao tiếp
Các tác giả trên đi vào nghiên cứu về cơ cấu của lối sống, mặc dù chưa hoàn
chỉnh và đầy đủ nhưng đã đưa ra một hướng tiếp cận mới trong việc nghiên cứu vấn
đề lối sống, ngay cả các nhà xã hội học của Mỹ và Ấn Độ cũng tích cực tham gia
nghiên cứu về lối sống về phương diện xã hội học chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực
như: việc làm, hôn nhân gia đình, tệ nạn xã hội, vấn đề sắc tộc tôn giáo, về sự bình
đẳng bình quyền trong xã hội. Vấn đề “Nếp sống” của tầng lớp thanh niên HS có thể
xem là một lĩnh vực cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc về lí luận và thực tiễn
1.1.2. Nghiên cứu nếp sống ở Việt Nam
Ở Việt Nam các vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân luôn luôn được
sự quan tâm của cả xã hội và của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V – BCH TƯ
Đảng khóa VIII đã khẳng định nhiệm vụ cấp bách của chúng ta là “Xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội…”. Văn hóa và
NSCVH đây là vấn đề cốt lõi của việc xây dựng đời sống mới cho nhân dân nên được
Đảng, nhà nước quan tâm và chú trọng thực hiện. Tuy nhiên nếu chỉ có chủ trương
chính sách thì vẫn chưa đủ, cần phải tiến hành nghiên cứu khảo sát để có tài liệu thực
tế định hướng cho việc giáo dục NSCVH cho HS.
Từ những năm 1987 trở đi, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lối sống,
NSCVH. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Nghiên cứu chương trình, chính sách, thế hệ trẻ, mô hình nhân cách thanh niên
Việt Nam đến năm 2000 – công trình được tiến hành từ những năm 1980 đến 1990.
9


- Nghiên cứu điều tra xu hướng nhân cách sinh viên – công trình nghiên cứu của
Ban lí luận Giáo dục và Tâm lí học, Viện Nghiên cứu Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp thực hiện năm 1987-1988.
- Đề tài “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay và những phương hướng biện

pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” Mã số QG 94 – 38 – 32 do tác giả Mặc Văn
Trang làm chủ nhiệm.
- Đề tài “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên ĐHSP phục vụ công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” Mã số QG 96/07 do Nguyễn Quang Uẩn chủ
nhiệm
- Đề tài “Nghiên cứu bước đầu về nếp sống, thói quen của xã hội ta hiện nay” của
tác giả: Nguyễn Ngọc Bảo – Trường ĐHSP Hà Nội năm 1993.
- 1996 Tác giả Phạm Xuân Cảnh đã nghiên cứu đề tài “Tình hình nếp sống của
sinh viên Hà Nội” với mục đích tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân đồng thời tìm ra các
giải pháp.
- Các luận văn thạc sĩ như: “Thực trạng và các biện pháp quản lí, giáo dục nếp
sống cho sinh viên nội trú trường ĐHSP – ĐHQG Hà Nội” của tác giả Trần Công
Thanh. Và đề tài “NSCVH của sinh viên sư phạm” của tác giả: Khúc Năng Toàn –
Thực hiện năm 1999.
Ngoài ra đó còn có một số chuyên đề các bài báo khoa học và một số hội thảo
khoa học có liên quan đến vấn đề nếp sống như: Nếp sống xã hội của sinh viên – của
Vũ Dũng (tạp chí ĐH và GD chuyên nghiệp tháng 1/1997) và hội thảo “Thực trạng
nếp sống của sinh viên trường ĐHSP – ĐHQG Hà Nội” – Hội thảo sinh viên sư phạm
xây dựng nếp sống văn hóa (Đoàn trường ĐHSP tổ chức vào tháng 12/1998).
Tóm lại một số đề tài nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung vào phân tích thực
trạng biểu hiện lối sống và nếp sống ở sinh viên. Còn HS THPT ít có các công trình đi
sâu nghiên cứu về NSCVH của các em. Đứng trước tình hình đó tôi thấy đây là vấn
đề mà chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu nghiên cứu một cách nghiêm túc.
1.2. Khái niệm nếp sống và các khái niệm liên quan
1.2.1. Khái niệm nếp sống tiếp cận trên bình diện các khoa học xã hội nhân
văn và tâm lí học.
Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày chúng ta thường nhắc nhiều đến khái
niệm “Nếp sống” “Lối sống” để nhằm nói lên những hành vi, phản ánh các mối quan
10



hệ, hoạt động xã hội của con người. Được hiểu là phong tục tập quán, những thói
quen, nếp nghĩ trong nhân dân đã được xã hội thừa nhận và lưu truyền qua nhiều thế
hệ. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này trên nhiều phương diện khác nhau, chúng ta cần đi
sâu tìm hiểu một số khái niệm:
- Khi nghiên cứu trên các tài liệu nước ngoài chúng ta thấy “Lối sống” và “Nếp
sống” được họ viết ra như sau: Lối sống, cách sống ( Way of life – tiếng Anh) Phong
cách sống, kiểu sống (Mode de vie – tiếng Pháp). Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên cho rằng: Lối là hình thức diễn ra của hoạt động đã trở thành ổn
định mang đặc điểm riêng. Còn Nếp là Lối, cách sống, hoạt động đã trở thành thói
quen. [20]
- Theo L. V. Kakan: “Nếp sống của con người được coi như là sự phản ánh của
cá nhân vào xã hội, còn lối sống của con người được coi như là phản ánh của xã hội
vào cá nhân”
- A. P. Buchencô viết: “Nếp sống là một trong những bình diện của lối sống”
- Trong cuốn Từ điển Xã hội học, tác giả Nguyễn Khắc Viện đưa ra định nghĩa:
“Thói quen in sâu vào cách làm và suy nghĩ gọi là nếp”.
- Tác giả Nguyễn Quang Uẩn khái quát về nếp sống: “Nếp sống là mặt ổn định
của lối sống, là những phương thức hành vi ứng xử đã được lặp đi lặp lại thành nếp,
thành thói quen” [28].
- Tác giả Thanh Lê cho rằng: “Nếp sống là những quy ước được lặp đi lặp lại
trở thành một thói quen trong sinh hoạt, phong tục tập quán, hành vi đạo đức. Nói
đến nếp sống là nói đến một mặt nào đó trong lối sống”
- Tác giả Mặc Văn Trang cho rằng: “Nếp sống là mặt ổn định của lối sống, là
những đặc điểm biểu hiện của lối sống đã được hình thành nề nếp thói quen của cá
nhân, gia đình và xã hội…” [24]
- Trong tác phẩm: Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội. Tác
giả Vũ Khiêu định nghĩa rằng: “Nếp sống là toàn bộ những thói quen được hình
thành trong cuộc sống hằng ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản xuất,
chiến đấu, trong mọi quan hệ xã hội và trong sinh hoạt riêng tư của mỗi con người

những thói quen ấy được gọi là tập quán”. Như vậy theo tác giả thì nếp sống là một
bộ phận của lối sống được lặp đi lặp lại thành nếp, thói quen… được định hình, định

11


tính, đã được xác lập giá trị thành nét văn hóa, được các cá nhân và cộng đồng thừa
nhận, làm theo và được quy định thành điều ước hoặc luật pháp.
Khái quát các công trình nghiên cứu, chúng tôi nêu lên một khái niệm như sau
về nếp sống: “Nếp sống chính là những phương thức hoạt động, hành vi ứng xử của
con người đã được lặp đi lặp lại nhiều lần thành nếp, thành thói quen đã in sâu vào
trong từng cá nhân và được xã hội công nhận”. Ta có thể nêu lên những tính chất đặc
trưng của nếp sống như sau:
- Nếp sống là những phẩm chất, thuộc tính có tính chất ổn định cao. Việc hình
thành, thay đổi một nếp sống bao giờ cũng rất khó khăn, không thể thực hiện ngay
được mà cần phải có thời gian lâu dài. Nếp sống chính là mặt ổn định của lối sống,
mặt khác những hành vi, những phương thức hoạt động, sinh hoạt đã được cũng cố,
định hình thành nếp, thói quen nên càng khó thay đổi.
- Nếp sống bao giờ cũng mang tính chủ thể. Vì khi nói đến nếp sống bao giờ
người ta cũng thường nhắc đến nếp sống của một cá nhân của một cộng đồng nào đó
hoặc của một nhóm xã hội cụ thể. Do tính chất của nếp sống, chịu ảnh hưởng của các
yếu tố giá trị văn hóa, đạo đức mà nếp sống phản ánh nhân cách, bản sắc giá trị xã hội
của chủ thể.
- Nếp sống là những biểu hiện hành vi sống, đã trở thành thói quen ăn sâu vào
nhu cầu của cá nhân có tính tự động hóa cao. Những phương thức hoạt động, hành vi
ứng xử được xem là biểu hiện nếp sống của cá nhân hay cộng đồng xã hội…mang tính
tự động hóa cao, ít có sự tham gia kiểm soát của ý thức nên con người tự giác hành
động theo thói quen. Nếp sống sinh hoạt của cá nhân không thể tách rời khỏi hoàn cảnh
điều kiện cụ thể trong sinh hoạt hằng ngày. Nếp sống của cá nhân hay cộng đồng..…
bao giờ cũng được hình thành trên cơ sở một phương thức quan hệ sản xuất, một hình

thái kinh tế - xã hội nhất định chịu sự chế ước của các chuẩn mực, giá trị xã hội của
hình thái kinh tế đó. Một nếp sống có thể xem là đạo đức ,văn hóa trong xã hội này,
nhưng có thể bị coi là vô đạo đức, thiếu văn hóa trong một xã hội khác. Do vậy nếp
sống của cá nhân hay cộng đồng dân tộc đều mang tính lịch sử. [23]
- Quá trình hình thành nếp sống mỗi cá nhân nói chung HS THPT nói riêng,
diễn ra cũng khác nhau. Quá trình hình thành nếp sống có văn hóa không phải chỉ
theo một con đường duy nhất, mà có nhiều con đường, chẳng hạn như: Thông qua
giáo dục; thông qua hoạt động tập thể; thông qua các tác động văn hóa xã hội, giao
12


lưu văn hóa, phong tục tập quán; thông qua việc học hỏi bạn bè; thông qua cá nhân tự
rèn luyện. Do vậy chúng ta cần phải nghiên cứu các con đường, các phương thức
hình thành biểu hiện NSCVH cho HS THPT một cách tốt nhất.
1.2.2. Một số khái niệm liên quan đến nếp sống.
1.2.2.1. Lối sống
Lối sống là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử liên quan chặt chẽ với
phạm trù phương thức sản xuất của cải vật chất. Lối sống có khía cạnh văn minh
nhân loại, truyền thống dân tộc và có các giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
của từng thời kỳ nhất định. Nên được nhiều tác giả trên thế giới, trong nước nghiên
cứu:
- Theo Max Weber (1864 - 1920) thì lối sống là: “Kiểu sống của một nhóm xã
hội có cùng chung những điều kiện kinh tế xã hội nhất định” [16]
- Tác giả Dear – Mac Connell cho rằng: “Lối sống, trước hết thể hiện cung cách
tiêu thụ, kiểu giải trí trở thành một yếu tố tiêu thụ chính, thậm chí quan trọng hơn cả
những yếu tố tiêu thụ khác”
- Các nhà Tâm Lí học Liên Xô thì cho rằng:
Theo quan niệm của V. I. Tôntuc thì: “Lối sống là một hình thức cố định, điển
hình (đối với những quan hệ lịch sử xã hội cụ thể) của hoạt động sống cá nhân và tập
quán của con người. Những hình thức ấy nói lên đặc điểm giao tiếp hành vi và nếp

nghĩ của các cá nhân và nhóm xã hội trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội –
chính trị sinh hoạt giải trí” [6]. Quan niệm này tiếp cận lối sống trên một phạm trù
rộng lớn có liên quan đến mức sống, những tập quán sinh hoạt, những hành vi giao
tiếp, nếp nghĩ cá nhân,…đây là một cách tiếp cận buộc nhà nghiên cứu phải tìm hiểu
trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Có đồng quan niệm với ông, tác giả M. N.
Rutkevich cũng cho rằng: “Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ
yếu nói lên hoạt động các nhóm dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân
trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”
- Tác giả Xô Viết E. V. Sôrôkhôva cho rằng: “Lối sống là toàn bộ những hình
thức hoạt động sinh sống tiêu biểu xuất hiện trong các quan hệ kinh tế xã hội nhất
định của các dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, cá nhân trong sản xuất vật chất và
tinh thần, trong phạm vi xã hội – chính trị và riêng tư hàng ngày, trong những mối
quan hệ qua lại của mọi người và trong đời sống cá nhân”. Trong khi đó tác giả V.
13


Đôbrianôv đưa ra quan niệm: “Lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan hóa của hệ
thống các quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể điều kiện sống, thể hiện trong hoạt
động sống của con người”
- Khi nghiên cứu về lối sống tác giả NI. Caputxtin lại cho rằng: “Cái chủ yếu
trong khái niệm lối sống là những khía cạnh của xã hội như sự hài lòng về lao động,
không khí tâm lí trong các tập thể sản xuất sinh hoạt, trong gia đình, trong thái độ đối
với xã hội, với tổ quốc, những lí tưởng sống mà các thành viên xã hội tự chọn lấy cũng
như phương pháp đạt tới những lí tưởng ấy – đời sống tinh thần của con người” [6]
- Nhà giáo dục học Nhật Bản Tsunesaburô cho rằng: “Đời sống con người thật
đa dạng, những cách sống được xem như là những giai đoạn trong sự phát triển của
con người. Ông cho rằng dùng thuật ngữ lối sống là để chỉ một mô hình liên tục của
các hoạt động cần thiết để duy trì cuộc sống” [27]
- Ở bình diện xã hội một số tác giả nêu lên ba lối sống tổng quát của con người:
Một là lối sống phụ thuộc: sống bằng hưởng thụ, hoặc là bằng chiếm đoạt.

Hai là lối sống trao đổi: lối sống kinh tế, lối sống chính trị, lối sống văn hóa.
Ba là lối sống đóng góp: tức là nhằm nói đến tính chất hợp tác trong cuộc sống.
- Theo tác giả Hà Thị Đức: “Lối sống là văn hóa của đời sống, phản ánh mối
quan hệ phức tạp giữa con người với thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy; phản ánh
mối quan hệ chằng chịt giữa cá nhân và tập thể, giữa người với người trong gia
đình, xã hội và cộng đồng” [9]
- Tác giả Hà Xuân Trường đã viết: “Lối sống là sự thể hiện đời sống thông qua
cách thức và hình thức hoạt động xã hội có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản
xuất theo những lí tưởng nhất định. Lối sống của chúng ta là lối sống xã hội chủ
nghĩa, thể hiện một mặt của nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa”. Qua đó khẳng định
mối quan hệ phương thức sản xuất với sự tác động của các yếu tố xã hội, giúp cho
việc định hướng tương lai của cá nhân. [26]
Trong cuốn “Xã hội học Mác – Lênin”. Các nhà xã hội học Việt Nam đã nêu ra
quan điểm về lối sống: “Lối sống là tổng thể (hệ thống) các nét căn bản đặc trưng
cho hoạt động của các dân tộc các giai cấp, các tập đoàn xã hội trong những điều
kiện nhất định về mặt lịch sử”. Ở góc độ tiếp cận xã hội học chúng ta thấy quan hệ
giữa các yếu tố lịch sử đóng một vai trò to lớn trong việc hình thành lối sống. Từ đó
tác động tới các nhà giáo dục là cần phải chú ý đến các điều kiện tồn tại của lịch sử
14


xung quanh môi trường sống. Đưa ra các phương pháp đạt hiệu quả cao trong giáo
dục.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong đề tài: “Xây dựng lối sống và đạo đức mới
cho sinh viên đại học sư phạm phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” đã
định nghĩa khái quát về lối sống: “Lối sống là một khái niệm có tính tổng hợp, bao
gồm nhiều mối quan hệ xã hội, tư tưởng, đạo đức, tâm lí, văn hóa, kinh tế và các mối
quan hệ khác của con người, nói lên đặc trưng của hoạt động và các mối quan hệ
của con người trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định” [28]
Vậy lối sống chính là phương thức hoạt động sống của con người, của cá nhân,

của nhóm hay cộng đồng người
1.2.2.2. Lẽ sống
Trong Từ điển tiếng Việt – nhà xuất bản KHXH – 1988 định nghĩa: “Lẽ là điều
thường thấy ở đời được coi là hợp lí với quy luật đạo lí; đều được coi là lí do giải
thích là nguyên nhân của sự việc”. Ở khái niệm này nhằm giúp chúng ta hiểu thêm
về “Lẽ” chứ chưa phải là một định nghĩa về lẽ sống.
Khi bàn về lẽ sống là một phạm trù của đạo đức học, tác giả Trần Hậu Kiêm đã
định nghĩa: “Lẽ sống chính là nội dung mối quan hệ giữa hạnh phúc và nghĩa vụ của
con người”.
Chúng ta biết rằng lẽ sống là một phạm trù của đạo đức học. Do vậy lẽ sống và
đạo đức là quan điểm sống của con người
Khi con người hình thành, lựa chọn cho mình một lẽ sống phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức của xã hội, lúc đó họ sẽ luôn hướng tới những giá trị chân chính,
luôn biết hi sinh những lợi ích của cá nhân, thoát khỏi được những cám dổ vật chất
tầm thường, biết cống hiến cho xã hội, phục vụ cho tổ quốc, luôn luôn tôn trọng
những giá trị của cuộc sống.
- Tác giả Khúc Năng Toàn trong luận văn của mình đã cho rằng: “Có thể hiểu
một cách khái quát lẽ sống là quan niệm sống của con người, là sự tự nhận thức, tự
giác hành động vì một lí tưởng, vì một mục tiêu cao cả. Nó phản ánh tính mục đích
của lối sống định hướng cho lối sống ” [23]
- Tác giả Trần Công Thanh: “Lẽ sống là nhận thức của lối sống. Nó đề cập tới
mục đích, ý nghĩa của cuộc sống. Lẽ sống chính là sự thống nhất biện chứng giữa
nghĩa vụ và hạnh phúc.”. Vậy chúng ta có thể nói rằng lẽ sống chân chính của con
15


người chính là quá trình hoạt động sáng tạo và cống hiến cho đất nước với một mục
đích là xây dựng một xã hội phồn vinh giàu mạnh.
Vậy “lẽ sống chính là một mặt của lối sống, nó đề cập tới mục đích, ý nghĩa, lí
tưởng của cuộc sống. Lẽ sống cuối cùng cũng nhằm giải thích sống như thế nào cho

phù hợp với đạo lí phong tục truyền thống của dân tộc”
1.2.2.3. Phong cách sống
Phong cách sống chính là tác phong, cung cách xử sự, kiểu cách, hình thức diễn
ra trong đời sống hằng ngày của con người. Phong cách sống nói lên nét riêng biệt
của từng cá nhân với một lối sống cụ thể trong cộng đồng hay xã hội. Chẳng hạn như:
phong cách nghệ sỹ, phong cách doanh nhân..
“Phong cách sống là sự thể hiện kiểu sống, cách sống, là biểu hiện độc đáo
riêng biệt của lối sống, nếp sống ở cấp độ cá nhân hay xã hội”
1.2.3. Hệ thống giá trị và nếp sống
Bản thân mỗi con người chúng ta ai cũng hình thành cho mình một hệ thống giá
trị nhất định. Vì đây là những tiêu chí để phấn đấu và mong muốn ngày càng hoàn
thiện bản thân. Quá trình nghiên cứu nếp sống của HS với một mục đích giáo dục
cho HS những hệ thống giá trị phù hợp với các chuẩn mục đạo lí, nhân phẩm của
người Việt Nam. Trong một hệ thống giá trị có nhiều khái niệm cụ thể:
- Thứ nhất: là “giá trị”: Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Giá trị là cái gì
làm cho một vật có ích, có ý nghĩa là đáng quý về một mặt nào đó. Giá trị nghệ thuật,
giá trị tinh thần….”
Hiểu một cách thông thường “giá trị” là những yếu tố nằm trong bản thân sự
vật, hiện tượng có ích cho con người, cho xã hội. Một trong những tính chất quan
trọng của giá trị đó là tính khách quan. Giá trị chính là những thành tựu mà con người
tạo ra góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của xã hội. Nguồn gốc của giá trị chính
là mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, và thực tiễn hoạt động của
con người với con người.
- Thứ hai: là “thang giá trị” Thang giá trị là tổ hợp các giá trị được sắp xếp
theo một trật tự ưu tiên nhất định”. Thang giá trị còn gọi là thước đo giá trị. Thang
giá trị có sự biến đổi theo hoàn cảnh lịch sử, điều kiện xã hội nhất định. Vì đây là
những cơ sở, yếu tố quan trọng để sắp xếp thang giá trị.

16



- Thứ ba: là “hệ giá trị” Là tổ hợp những giá trị khác nhau được sắp xếp theo
một nguyện tắc, một trật tự nhất định, thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ
thống thực hiện chức năng đánh giá con người theo những phương thức vận hành
nhất định của giá trị.
- Thứ tư: là “chuẩn giá trị” Là các giá trị giữ vị trí cốt lõi trong hệ giá trị và
thang giá trị, là chuẩn mực chung cho nhiều người. Đây là những phẩm giá, phẩm
chất tốt đẹp của con người. Hạt nhân cơ bản của thang giá trị nhân phẩm con người
Việt Nam hiện nay là các giá trị nhân văn truyền thống như: lòng tự hào dân tộc, bản
sắc văn hóa truyền thống….
Mục tiêu giáo dục hướng vào việc nâng cao dân trí đào tạo nhân lực bồi, dưỡng
nhân tài. Do vậy chúng ta cần hoàn thành cho HS những hệ thống giá trị đồng bộ toàn
diện, vì đây sẽ là hành trang cho HS bước vào cuộc sống độc lâp. Cần tập trung bồi
dưỡng tính độc lập tự chủ, năng động, biết phát huy nội lực, học hỏi vượt khó, phát
triển một nhân cách toàn diện có lối sống, nếp sống trong sáng lành mạnh.
1.3. Văn hóa và nếp sống có văn hóa
1.3.1. Khái niệm văn hóa
Khái niệm “Văn hóa” xuất hiện ở Đông Á rất sớm. Lưu Hướng (khoảng năm
77-6 trước công nguyên) thời Tây Hán (Trung Quốc) là người đầu tiên đưa ra khái
niệm “Văn hóa”. Trong sách: “Thuyết uyển bài Chi Vũ” ông viết: “Bậc thánh nhân
trị thiên hạ, trước dùng văn đức sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối
phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt”
- Tác giả E. B. Taylor nhà nhân chủng học người Anh định nghĩa trong cuốn
“Văn hóa nguyên thủy” xuất bản năm 1871 cho rằng: “Văn hóa là một tổng thể phức
tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, phong tục và cả những năng lực thói
quen mà con người đạt được trong xã hội”. Tác giả muốn nói đến những thành quả
mà con người đạt được trong cuộc sống trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
- Các học giả người Mỹ cho rằng: “Văn hóa là tấm gương nhiều mặt phản chiếu
đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc” [30]. Ngày nay đã có hơn 400 định
nghĩa về văn hóa. Khái niệm văn hóa của UNESCO hướng vào cái cơ bản nhất và

cũng là cái chung tốt đẹp nhất của mọi nền văn hóa là xu hướng hoàn thiện và tôn
vinh con người – mà với hình thức biểu hiện cụ thể của nó khiến các nền văn hóa
mang đặc điểm riêng. Cách tiếp cận này được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại hội
17


nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa, họp vào năm 1970 tại Venise. Theo
UNESCO “văn hóa được định nghĩa là tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, lối sống và lao động, nhờ đó con người tự định vị mình trong
không gian, thời gian nhất định để có thể giải thích thế giới, phát triển các năng lực
biểu hiện, giao lưu sáng tạo”.
- Nội dung của khái niệm văn hóa thường được UNESCO xem xét trên bốn bộ
phận hợp thành: hệ thống ý niệm; hệ thống giá trị, chuẩn mực biểu tượng; hệ thống
biểu hiện văn hóa; hệ thống hành động và ứng xử văn hóa
- Tổng Giám đốc UNESCO, Federico Mayor cho rằng: “Văn hóa là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ,
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống, thẩm mỹ
và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [22]
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nói tới văn hóa là nói tới con
người, nói tới tính phát huy những năng lực thuộc bản chất người, nhằm hoàn thiện con
người và xã hội. Tác giả Nguyễn Chí Mì viết: “Văn hóa là tổng thể các hoạt động của
con người tạo ra các giá trị Chân – Thiện – Mỹ. Văn hóa đã trở thành nhu cầu thiết
yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, nó vừa thể hiện trình độ phát triển chung, vừa
là phương thức tồn tại của mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi đất nước, mỗi thời đại.
Trong quá trình phát triển phức tạp của nhân loại, văn hóa là cái đúng cái đẹp cái
thiện, nó khẳng định và chắp cánh cho con người nó góp phần loại bỏ cái xấu, cái ác
cái phản văn hóa và đưa con người tới gần với tự do ”. Cũng trên cơ sở đó các nhà lí
luận văn hóa Mác – Lênin cho rằng: “Văn hóa là thiên nhiên thứ hai, là cái do con
người cải biến, sáng tạo và vun trồng, xuất hiện nhờ kết quả hoạt động của con người

trong tiến trình phát triển của lịch sử [15]
- Trong cuốn “Từ điển Hán Việt” GS. Nguyễn Lân viết: “Văn hóa là toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong qúa trình lịch sử và
tiểu biểu cho trình độ mà xã hội đạt được trong từng giai đoạn về các mặt học vấn,
khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật, triết học, đạo đức, sản xuất…”
GS. Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh
thần, do con người, cộng đồng, dân tộc, loài người sáng tạo. Có văn hóa của nhân
loại, văn hóa dân tộc, văn hóa cộng đồng, văn hóa gia đình và văn hóa của từng con
18


người”[12]. Nhà tư tưởng, văn hoá của nhân loại chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” . Người đã xem xét văn hóa
trong sự thống nhất với kinh tế, chính trị, xã hội và việc xây dựng nó thực sự là một
“mặt trận”. Nghị quyết TƯ 5 (khóa VIII) của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trình bày
khái quát; xác định tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa là những lĩnh vực
quan trọng nhất hiện nay, cần đặc biệt quan tâm trong nghiên cứu và hoạt động văn
hóa ở Việt Nam.
Ở đây chúng ta tiếp cận khái niệm văn hóa theo quan điểm phức hợp, bao gồm
nhiều khái niệm trong một chỉnh thể đó là: Lối sống, nếp sống, đạo đức, giá trị xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay việc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN tất yếu diễn ra quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và sâu
sắc về đạo đức, lối sống, nếp sống…để góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững nhằm
giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa trong điều kiện biến động thường xuyên
của nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước. Do vậy vấn đề đặt ra là phải cố gắng
nắm bắt được sự vận động của lối sống, nếp sống và của văn hóa hiện nay. Từ những
quan điểm đó chúng ta tiếp cận văn hóa trên bốn hàm nghĩa sau:

- Tri thức, kinh nghiệm hiểu biết về thiên nhiên xã hội và con người
- Các giá trị và chuẩn mực văn hóa
- Các thể thức biểu hiện văn hóa của cá nhân (hành vi văn hóa, lối sống có văn
hóa) và của xã hội (văn học, nghệ thuật, khoa học…)
- Hoạt động sáng tạo, giao lưu và phát triển các giá trị tinh thần và vật chất
Các hàm nghĩa trên có những điểm tương đồng nhau. Hàm nghĩa thứ nhất là
nền tảng tích lũy từ các thế hệ trước và là kết quả hoạt động sáng tạo, giao lưu đồng
thời phát triển văn hóa. Hai hàm nghĩa sau là thể chế, hình thức biểu hiện văn hóa để
thông qua đó diển ra các hoạt động sáng tạo, giao lưu và phát triển văn hóa. Chúng
tôi tán thành quan niệm: “Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật
chất do con người sáng tạo, giao lưu, tích lũy và phát triển thông qua hoạt động cải
biến và ứng xử với thiên nhiên, xã hội và bản thân, được biểu hiện dưới các thể thức

19


ngày càng sâu sắc, da dạng để tôn vinh và phát triển toàn diện con người, nhằm làm
cho thế giới có tính người” [30]
1.3.2. Chức năng của văn hóa
- Chức năng nhận thức: Giúp con người nhận thức thế giới tự nhiên, đời sống xã
hội, cá nhân trong tất cả các mặt của hoạt động văn hóa
- Chức năng giáo dục: Bằng các giá trị ổn định văn hóa đã định hướng lí tưởng,
đạo đức hành vi con người theo các khuôn mẫu ứng xử của xã hội.
- Chức năng điều tiết các quan hệ xã hội: Thông qua đó con người định vị được
trạng thái cân bằng với thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân mình nhằm không ngừng
tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường.
- Chức năng giao tiếp: Văn hóa gắn liền với con người từ nhận thức, cảm xúc
đến hành động và hành vi cá nhân. Nên văn hóa sẽ là nội dung, công cụ giao tiếp
quan trọng của con người với nhau.
- Chức năng dự báo: Văn hóa hướng vào các giá trị ổn định hoặc đang và sẽ

hình thành. Qua đó sẽ góp phần hình thành nên phương hướng phát triển cho xã hội
ngày càng tiến bộ văn minh hơn.
1.3.3. Khái niệm nếp sống có văn hóa
Chúng ta biết rằng nếp sống là tổng thể các phương thức, phương pháp suy nghĩ
và hành động tương đối ổn định đặc trưng cho một xã hội, cộng đồng nhóm hay cá
nhân trong hoàn cảnh nhất định.
NSCVH tức là nếp sống của cá nhân hay nhóm phù hợp với thói quen, chuẩn
mực và trình độ phát triển xã hội.
Nghị quyết TƯ 5 (khóa VIII) xác định rõ phải xây dựng con người Việt Nam
theo các chuẩn mực sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý thức vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết
với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ
- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.

20


- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỷ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
mỹ và thể lực. Những chuẩn mực trên đã phần nào phản ánh bản sắc dân tộc của văn
hóa Việt Nam. Đây là cơ sở để con người luôn luôn phấn đấu và phát triển để hoàn
thiện nhân cách của mình một cách toàn diện có văn hóa. Đồng thời phải kế thừa
được các giá trị truyền thống, giao lưu và phát triển các giá trị mới mà không làm lu
mờ bản sắc dân tộc.
Việc giáo dục hình thành NSCVH cho HS có một vai trò vô cùng quan trọng và

mang ý nghĩa lâu dài. Thấm nhuần tư tưởng đó nên Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể
hóa thành đường lối chính sách trong giáo dục, nhằm xây dựng con người mới văn
minh, thanh lịch: “Giáo dục văn hóa, thẩm mỹ, nâng cao chất lượng giáo dục khoa
học xã hội và nhân văn, giáo dục đạo đức, lối sống trong nhà trường từ phổ thông
đến đại học…”
Yếu tố văn hóa trong nếp sống góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng con
người Việt Nam mới, với một lối sống, nếp sống văn minh hiện đại mang đậm tính
dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước bước vào hội nhập quốc tế với việc
xây dựng công nghiệp hóa – hiện đại hóa thì hoạt động kinh tế văn hóa là nhiệm vụ
trung tâm, nhưng “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội” vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội. Như vậy kinh tế và văn hóa luôn
luôn song hành, không thể xem thường yếu tố nào hết. Chúng ta không thể sáng tạo
ra của cải vật chất mà đánh mất đi những giá trị cao đẹp của văn hóa trong nếp sống,
lẽ sống của mình. Chính văn hóa là yếu tố định hướng điều tiết sự phát triển kinh tế,
thấm sâu vào mọi hoạt động lành mạnh cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung
trong môi trường học tập của HS nói riêng.
Trong quá trình hoạt động con người luôn tìm mọi cách để nhằm thỏa mãn nhu
cầu của mình. Tùy thuộc mức độ nhu cầu, điều kiện thỏa mãn, mà con người có
phương thức hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Quá trình hoạt
động dần dần tạo thành nếp sống thói quen trong cuộc sống. Trong thực tiễn những
hành vi hướng tới sự thỏa mãn các nhu cầu của con người không phải bao giờ cũng
thực hiện được một cách trực tiếp mà còn chịu sự tác động của thang giá trị được xã
hội chấp nhận, căn cứ vào hệ thống chuẩn mực để từ đó điều chỉnh hành vi của mình
21


cho phù hợp. Muốn có phương thức hợp chuẩn trong hành vi, hoạt động con người
cần phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn những hệ thống chuẩn giá trị. Nếp sống với tư
cách là phương thức ổn định của hành vi, hoạt động của con người được hình thành
trên cơ sở kiểm duyệt và chèn ép của hệ thống thang chuẩn giá trị của xã hội, tạo

thành những nét chung trong nếp sống giữa các thành viên trong cộng đồng.
Như vậy NSCVH không chỉ nói lên sự tương đối ổn định về phương thức hoạt
động, hành vi ứng xử của con người mà còn phản ánh tính chất của hoạt động, hành
vi ứng xử đó trong tương quan với các giá trị văn hóa. NSCVH là trình độ cao của
một nếp sống, ở đó tính nhân bản, tính giá trị được phản ánh rõ nét như là phương
thức thực sự của cá nhân trong hoạt động và ứng xử. Tóm lại: “NSCVH là tổng hòa
những phương thức hoạt động, hành vi ứng xử hợp chuẩn (phù hợp với những chuẩn
mực, giá trị văn hóa xã hội) của con người đã được định hình thành nếp, thành thói
quen trong những điều kiện, hoàn cảnh sống nhất định”
Từ định nghĩa trên cho chúng ta thấy rằng khi nghiên cứu về NSCVH nói chung
và của HS THPT nói riêng, ta cần tiến hành trên ba mặt đó là:
- Nhận thức của HS về các giá trị văn hóa trong nếp sống. Ở đây chính là khả
năng nhìn nhận hiểu biết của HS thế nào là NSCVH, thế nào là nếp sống chưa văn
hóa. Từ đó HS nắm rõ bản chất của việc hình thành cho mình một nếp sống phù hợp
với các chuẩn mực đạo đức xã hội
- Thái độ của HS đối với những biểu hiện văn hóa trong nếp sống, là thái độ
nghiêm túc đồng ý với những NSCVH phù hợp với các chuẩn mực xã hội, đồng thời
có thái độ phê phán, kiên quyết loại bỏ những lối sống, nếp sống thiếu văn hóa trong
đời sống của HS hiện nay.
- Biểu hiện NSCVH của HS trong hành vi giao tiếp, học tập, sinh hoạt.
1.4. Học sinh THPT và nếp sống có văn hóa của HS THPT
1.4.1. Một số đặc điểm tâm lí, nhân cách của HS THPT
Tuổi đầu thanh niên là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực, nhưng
sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể của người lớn. Tuổi thanh
niên bắt đầu thời kì phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lí. Nhịp độ tăng trưởng về
chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay
đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát

22



triển. Tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp trong
quá trình học tập.
Hoạt động xã hội của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp, nên vai trò
xã hội và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi,
mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở thanh niên ngày càng xuất hiện nhiều các vai trò
của người lớn và họ thực hiện các vai trò đó ngày càng có tính độc lập và tinh thần
trách nhiệm hơn.
Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ, đó là tri giác có mục đích đã đạt tới mức cao.
Quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Bên cạnh đó ghi nhớ có
chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ
lôgic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. HS đã tạo được tâm thế phân
hóa trong ghi nhớ.
Sự phát triển về tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách
của thanh niên mới lớn, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lí của tuổi
thanh niên. Sự hình thành tự ý thức ở lứa tuổi thanh niên là một quá trình lâu dài, trải
qua những mức độ khác nhau, ở tuổi thanh niên quá trình phát triển tự ý thức diễn ra
mạnh mẽ, sôi nổi và có tính chất đặc thù riêng. HS có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá
những đặc điểm tâm lí của bản thân theo quan điểm và mục đích cuộc sống của mình.
Đặc điểm quan trọng trong sự tự ý thức của thanh niên là sự tự ý thức của học
sinh xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động, địa vị mới trong tập thể, những
quan hệ mới với thế giới xung quanh buộc HS phải ý thức được những đặc điểm nhân
cách của mình. Nội dung tự ý thức cũng khá phức tạp HS không chỉ nhận thấy cái tôi
của mình trong hiện tại mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội, trong tương
lai. Ở giai đoạn này thanh niên không chỉ đánh giá những cử chỉ hành vi riêng lẻ,
từng thuộc tính riêng biệt mà biết đánh giá nhân cách nói chung trong toàn bộ những
thuộc tính nhân cách [14].
Khi nói về khả năng nhận thức và tự nhận thức của HS THPT nhà Tâm lí học
Erick Erickson đã viết: “Nếu một HS có khả năng nhận định được bản thân, sẽ có
nhiều cơ hội thực hiện được sự phát triển về nhiều lĩnh vực về cả phương diện vật chất

lẫn tinh thần như thành công trong học tập, hòa nhập với xã hội, hoàn thành nhiệm vụ
một thành viên trong gia đình, có lối sống lành mạnh…”

23


Cùng với việc phát triển của ý thức thì ở giai đoạn này HS đã xây dựng cho
mình một hệ thống quan điểm riêng. Những cơ sở của thế giới quan đã được hình
thành từ rất sớm, ngay từ khi còn nhỏ. Khi HS theo học ở phổ thông đã lĩnh hội được
những tâm thế, thói quen đạo đức nhất định, thấy được cái đẹp cái xấu, cái thiện cái
ác..dần dần những điều đó được ý thức và quy vào các hình thức, các tiêu chuẩn,
nguyên tắc hành vi xác định…chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự
phát triển của hứng thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất
của vũ trụ, những quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài
người.. HS cũng cố gắng xây dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học đối với
các vấn đề xã hội, tư tưởng chính trị, đạo đức.
Giao tiếp và đời sống tình cảm của HS THPT có bước phát triển và đã có phần
tạo nên đời sống riêng cho mình rất sinh động. Ở lứa tuổi này quan hệ bạn bè chiếm
một vị trí tương đối lớn so với người lớn tuổi hoặc ít tuổi hơn, ở giai đoạn này sự dựa
dẫm của HS đã giảm hẳn thay, vào đó là quan hệ bình đẳng tự lập. Trong hoàn cảnh
giao tiếp tự do, rỗi rãi thì việc phát triển nhu cầu sở thích của HS hướng vào bạn bè
nhiều hơn là cha mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị sâu sắc hơn trong chọn nghề, thế
giới quan, những giá trị đạo đức thì ảnh hưởng của cha mẹ lại lớn hơn. Sự mở rộng
phạm vi giao tiếp và sự phức tạp hóa hoạt động riêng của thanh niên HS khiến cho số
lượng nhóm quy chiếu của HS tăng lên rõ rệt. Việc HS tham gia vào nhiều nhóm sẽ
dẫn đến những sự khác nhau nhất định và có thể xung đột về vai trò nếu cá nhân phải
lựa chọn giữa các vai trò khác nhau ở các nhóm.
Đời sống tình cảm của HS giai đoạn này rất phong phú đa dạng. Một đặc điểm
nổi bật đó là nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân được tăng lên. HS cũng rất chính
chắn trong việc lựa chọn bạn bè cho mình và muốn chọn cho mình một người bạn

thân sẵn sàng chia sẽ những niềm vui và nổi buồn. Tình bạn ở lứa tuổi này khá bền
vững, có thể kéo dài suốt cả cuộc đời. Trong mối quan hệ giữa nam và nữ được tích
cực hóa một cách rõ rệt. Nhu cầu về tình bạn khác giới được tăng cường và ở một số
em đã xuất hiện những sự lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ, xuất hiện nhu cầu chân
chính về tình yêu và tình cảm sâu sắc.
Sự hình thành phát triển nhân cách của HS chịu sự tác động của hoàn cảnh xã
hội, mối quan hệ cá nhân và cha mẹ, áp lực của văn hóa. Nếu trong một xã hội thuần
nhất ít xáo trộn thì vai trò gia đình được tôn trọng, nhân cách của HS có cơ hội phát
24


triển điều hòa và có tính đồng nhất. Còn trong một xã hội phức tạp với sự chuyển
biến mạnh mẽ từ kinh tế chính trị và xã hội thì việc phát triển nhân cách cho HS phải
làm cho chính bản thân HS tự thích nghi với cách sinh hoạt mới và biết lựa chọn cho
mình lối sống, nếp sống thích hợp. Nên ở đây nhà trường, gia đình và xã hội đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong vấn đề giáo dục và trau dồi nhân cách cho HS.
1.4.2. Các lĩnh vực biểu hiện nếp sống của HS
Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quá trình hình thành cũng như
phát triển về mặt tâm lí của mình con người cần phải tham gia vào các hoạt động xã
hội. Từ đó nhân cách của con người được hoàn thiện và bộc lộ. Do vậy việc con người
lựa chọn và thể hiện những lối sống, nếp sống của mình cũng rất phong phú và đa
dạng. Lối sống là tổng hòa các hoạt động sống của con người, nên lối sống cũng biểu
hiện rất đa dạng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người.
Tác giả M. N. Rutkêvich xuất phát từ quan điểm của lối sống như: “Một hệ
thống các đặc điểm cơ bản về hoạt động sống của con người”. Từ đó Ông đã nêu ra
các lĩnh vực chủ yếu của lối sống trên cơ sở các hoạt động sống cơ bản của con người
bao gồm: Lao động; phúc lợi, tiêu dùng, sinh hoạt hằng ngày; sức khỏe của nhân dân;
giáo dục và văn hóa; hoạt động chính trị - xã hội
Tác giả Mạc Văn Trang với đề tài: “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay
và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên”[25]. Nêu lên các

lĩnh vực biểu hiện của lối sống: định hướng giá trị; hoạt động học tập; hoạt động lao
động; hoạt động văn hóa thể thao; hoạt động chính trị xã hội; các quan hệ giao tiếp xã
hội; đời sống cá nhân
Từ những quan điểm trên cho thấy rằng biểu hiện của lối sống, nếp sống chính
là thông qua hệ thống các hoạt động của cá nhân. Lối sống, nếp sống chính là sự phản
ánh những đặc trưng của cá nhân trong hoạt động sống trong xã hội, trong cộng đồng.
Chúng ta có thể khái quát những lĩnh vực cơ bản biểu hiện nếp sống của HS như sau:
Những định hướng giá trị phản ánh xu hướng lựa chọn lối sống, nếp sống của HS; hoạt
động lao động (trí óc và chân tay); các quan hệ ứng xử; sinh hoạt (cá nhân, sinh hoạt
xã hội)
Biểu hiện nếp sống của HS THPT đó là quá trình HS bộc lộ những hành vi của
mình có tính lặp đi lặp lại thành thói quen, thành nếp, trong khi HS tham gia vào hoạt
động học tập, giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày của mình.
25


×