Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Ô Nhiễm Môi Trường Làng Nghề Dệt Nhuộm Tơ Tằm Và Phân Tích Làng Nghề Dệt Nhuộm Tơ Tằm Vạn Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.74 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG


TÊN ĐỀ TÀI

Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ DỆT NHUỘM TƠ
TẰM VÀ PHÂN TÍCH LÀNG NGHỀ DỆT NHUỘM TƠ
TẰM VẠN PHÚC.

GVHD : Th.S
SVTH : Trần Thị Ánh Thuận

0717109

Nguyễn Thị Thủy Tiên 0717111
Ngô Thị Đoan Trang
LỚP

: 07MT

TP HỒ CHÍ MINH,2010

0717117


MỤC LỤC
Lời mở đầu
I. Tổng quan làng nghề Việt Nam
1. Lịch sử phát triển làng nghề


2. Phân loại và đặc trưng sản xuất của các làng nghề
3. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội
4. Những tồn tại trong quá trình phát triển làng nghề tác động đến môi trường
5. Ô nhiễm làng nghề
II. Làng nghề dệt nhuộm tơ tằm
1. Lịch sử và phân bố của làng nghề dệt nhuộm tơ tằm
2. Các đặc trưng ô nhiễm môi trường của làng nghề dệt nhuộm tơ tằm
a. Môi trường không khí
b. Môi trường nước
c. Chất thải rắn
III. Tác hại của ô nhiễm môi trường làng nghề dệt nhuộm tơ tằm đến sức khỏe cộng đồng, kinh
tế - xã hội
IV. Hiện trạng quản lý môi trường làng nghề và giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề dệt
nhộm tơ tằm
V. Phân tích làng nghề dệt nhuộm tơ tằm Van Phúc
1. Hiện trạng môi trường làng nghề dệt nhuộm, tơ tằm
2. Hậu quả
3. Nguyên nhân
4. Giải pháp

I.

Kết luận và kiến nghị của nhóm báo cáo

VI. Tài liệu tham khảo

LỜI MỞ ĐẦU


Làng nghề là giải pháp phát triển kinh tế nông thôn rất có hiệu quả. Chính sách đổi mới kinh

tế đã đem lại luồng sinh khí mới cho các ngành nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Sau
thời gian ngừng trệ, bế tắc, trong vòng 10 năm trở lại đây, từ các nguồn ngân sách hỗ trợ của
nhà nước, kết hợp với cơ chế thoáng mở cửa của nền kinh tế thị trường và sự năng động cũng
như tâm huyết với nghề của những người dân, các làng nghề thủ công không ngừng thay da
đổi thịt và đã tạo nên một diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam. Lao động nghề tại các làng
đã giải quyết được vấn đề lao động dư thừa và lao động trong thời gian nông nhàn. Làng
nghề ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Như được biết đến là làng nghề làm đẹp cho con
người và có bề dày lịch sử từ rất lâu thì hẳn nhiều người nghĩ đến làng nghề dệt nhuộm tơ
tằm. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, làng nghề cũng có bước đổi mới trong công nghệ
và sản phẩm và một trong những làng nghề có sản phẩm xuất khẩu trên nhiều nước trên thế
giới.
Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng trong phát triển nghề thủ công ở nông thôn Việt Nam,
một nỗi lo lắng và day dứt không kém là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ các làng nghề. Nguy
cơ này phát sinh chính từ đặc thù của hoạt động làng nghề, như quy mô nhỏ, công nghệ thủ
công, lạc hậu không đồng bộ, phát triển tự phát chủ yếu chịu chi phối của thị trường và một
thực tế nữa là do sự thiếu hiểu biết của những người dân về tác hại của hoạt động sản xuất
đến sức khoẻ của chính bản thân mình và những người xung quanh. Trong số đó tiêu biểu là
làng nghề dệt nhuộm tơ tằm. Đó cũng chính là lí do nhóm em thực hiện đề tài này.

I. Tổng quan làng nghề Việt Nam
1. Lịch sử phát triển làng nghề
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước đây,
nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam, việc hình thành các
làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những
lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc trồng lúa nước mà
nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông thường chỉ những ngày đầu vụ, hay
những ngày cuối vụ thì người nông dân mới có việc làm nhiều, vất vả như: cày bừa, cấy, làm
cỏ (đầu vụ) cho đến gặt lúa, phơi khô... còn những ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất



ít việc để làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục
đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng ngày về sau là tăng thêm
thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò ta lớn của nó, mang lại lợi
ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre, lụa... phục vụ sinh hoạt
hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở
thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế ta lớn cho người dân vốn trước đây chỉ
trông chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học
làm theo, nghề từ đó mà lon rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau.
Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại mà trong mỗi
làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh dần, ngược lại
những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt
đầu hình thành nên những làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng
Gốm, làng làm chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng… Các làng nghề thường tập trung chủ
yếu ở các vùng châu thổ sông lớn như châu thổ sông Hồng, tại Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh,
Thái Bình, Nam Định ...
2. Phân loại và đặc trưng sản xuất của các làng nghề
− Làng nghề ươm tơ dệt nhuộm và đồ đồng
− Làng nghề chế biến nông sản thực phẩm
− Làng nghề tái chế phế liệu, thủ công, mĩ nghệ
− Vật liệu xây dựng, gốm sứ
− Làng nghề khác


Phân bố các loại hình làng nghề ở các vùng nông thôn Việt Nam

(Nguồn: Đề tài KC 08-09)
3. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội
Có thể nói đây là một trong những giải pháp phát triển kinh tế nông thôn rất hiệu quả.

Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Do tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, bình
quân ruộng đất sản xuất nông nghiệp tính theo đầu người/ngày càng thấp tạo ra áp lực về
việc làm ngày càng nặng nề thêm. Do áp lực này mà ngày càng có nhiều lao động nông thôn
di chuyển một cách vô tổ chức ra thành phố và các trung tâm thành phố kiếm việc làm, tạo ra
những khó khăn nhất định trong quản lý xã hội. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền
thống là tạo được việc làm cho nhiều lao động tại chỗ, ổn định đời sống cho cộng đồng dân
cư ở địa phương, không chỉ đối với lao động trong độ tuổi, mà còn giải quyết được một số
đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và ngoài độ tuổi lao động. Trước tình hình này
việc phát triển các làng nghề truyền thống là một trong những giải quyết khả thi để giải quyết
vấn đề việc làm ở nông thôn.
Tạo thu nhập cho người lao động. Làng nghề truyền thống tạo công ăn việc làm cho
người lao động ở nông thôn, góp phần để phát triển kinh tế nông thôn. Làng nghề thúc đẩy
kinh tế địa phương phát triển, đa dạng hóa cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phần lớn làng nghề truyền thống đã đem thu nhập và việc làm cho người dân ở nông
thôn, đối với từng thành viên trong một nông hộ. Đối với chủ cơ sở làng nghề có thể tìm
nguồn nguyên liệu tại địa phương, và lao động tại địa phương.


Bên cạnh đó những người phụ nữ trong gia đình có thể vừa làm việc nhà vừa lao động
sản xuất trong làng nghề, đảm nhiệm được công việc nội trợ. Tận dụng triệt để thời gian lao
động. Đối với các trường hợp khác thì lao động sản xuất tại địa phương sẽ hạn chế được các
khoảng chi phí đi lại và sinh hoạt.
4. Thực trạng ô nhiễm tại các làng nghề truyền thống ở Việt Nam

Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng trong phát triển nghề thủ công truyền thống ở
nông thôn Việt Nam, thì có một nỗi lo lắng và day dứt là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ các
làng nghề .
Qua khảo sát 52 làng nghề điển hình hiện nay trong cả nước đã có 46% số làng nghề
trong số này môi trường bị ô nhiễm nặng, 27% ô nhiễm vừa, và 27% ô nhiễm nhẹ. Đáng báo

động là mức độ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề mà còn có xu hướng gia tăng theo thời
gian.
Tùy theo tính chất của từng loại làng nghề mà loại ô nhiễm môi trường cũng khác nhau.
Chẳng hạn như ở làng nghề sản xuất mặt hàng mây, tre đan… thì có tình trạng ô nhiễm
không khí do phải sử dụng lưu huỳnh khi sấy nguyên liệu, với các làng nghề công nghiệp
chất thải là khói bụi và khí độc; ở các làng nghề tái chế nhựa khi làm sạch nguyên liệu người
ta đã thải vào sông hồ một lượng chất thải nguy hiểm như thuốc trừ sâu, hóa chất gây ô
nhiễm nguồn nước, không chỉ thế khi nấu chảy nguyên liệu còn tạo ra mùi rất khó chịu…
• Với môi trường nước
Ô nhiễm hữu cơ thường nặng nề nhất ở các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm
và sản xuất chế biến gỗ, mây tre đan bởi nước thải của các làng nghề này thường có hàm
lượng chất hữu cơ rất cao, dễ bị phân huỷ. Nước thải không được xử lý chảy trực tiếp vào
cống rảnh ao hồ, hàm lượng các chất hữu cơ trong nước thải quá lớn vượt khả năng phân
huỷ, đồng hóa của các vi sinh vật cũng như các loài động thực vật thuỷ sinh gây hiện tượng
phú dưỡng, ô nhiễm môi trường nước đã tác động xấu tới các thuỷ vực. Ví dụ như làng nghề
chế biến nông sản thực phẩm Dương Liễu (Hà Tây) thải ra khoảng 7 nghìn mét khối nước
thải/ngày đêm, các chỉ tiêu COD, BOD, SS đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép (TCCP) 1- 3
lần.


Ô nhiễm nguồn nước do tác nhân là các hợp chất vô cơ độc hại như acid, bazo, muối
kim loại nặng... thường thấy ở các làng nghề cơ khí, mạ, đúc, tẩy nhuộm. Đây là nguồn ô
nhiễm nguy hiểm, không những gây tác động trực tiếp tới nguồn nước mặt mà còn ảnh
hưởng tới nguồn nước ngầm, gây nhiều bệnh hiểm nghèo cho nhân dân làng nghề. Ví dụ, chỉ
tính riêng làng nghề Vân Chàng (Nam Định) có 14 bể mạ, hàng ngày thải trực tiếp ra sông
Vân Chàng 40- 50 m3 nước thải chưa được xử lý, chứa nhiều hóa chất độc hại nguy hiểm
như: HCL, H2SO4, NaOH, Cr, HCN… Kết quả phân tích nước thải cho thấy hàm lượng Cr 6+
vượt 1,8 lần, Cu2+ vượt 1,7 lần, BOD và COD vượt TCCP 3- 4 lần, Niken vượt 8 lần, đặc biệt
hàm lượng CN- trong nước thải vượt 65- 117 lần...
Ô nhiễm nguồn nước do tác nhân là các chất màu, xơ sợi... thường thấy ở các làng nghề

dệt, tẩy nhuộm, sơn mài, ươm tơ... đã làm cho nước chuyển màu, tăng hàm lượng chất hữu
cơ trong nước, gây mùi khó chịu, giảm lượng oxy hòa tan trong nước, ảnh hưởng tới môi
trường sống của các loài động thực vật thuỷ sinh, ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt của nhân
dân.
• Với môi trường không khí:
Ô nhiễm môi trường không khí thường xảy ra ở các làng nghề sản xuất vật liệu xây
dựng, gốm sứ, cơ khí... do quá trình sử dụng than, dầu với số lượng lớn đãtạo ra các khí như
SO2, CO2, CO, NOx.. Ngoài ra còn do sử dụng các loại hóa chất bay hơi như HCL, aldêhyt,
axetan, phenol... Các loại khí này hầu hết chưa qua xử lý, thải trực tiếp ra môi trường xung
quanh gây biến đổi thành phần môi trường không khí của làng nghề.
Ô nhiễm môi trường không khí do tác nhân bụi (bụi lắng và bụi lơ lửng) thường thấy ở
hầu hết các làng nghề ở các mức độ khác nhau. Ở làng nghề cơ khí, dệt, sản xuất đồ mộc,
hàm lượng bụi lớn hơn nhiều so với làng nghề mây tre đan, chế biến thực phẩm. Các làng
nghề tái chế kim loại như: Nấu nhôm, sắt thép, gang, đúc kim loại, dệt,làm chăn bông, chế
biến gỗ, đặc biệt là công đoạn đánh bóng kim loại... không những gây bụi lắng mà còn tạo ra
hàm lượng bụi lơ lửng rất cao. Làng nghề tái chế nhựa, trong quá trình vận chuyển, phơi khô,
nghiền hạt gây ô nhiễm bụi với hàm lượng cao, có nơi cao hơn TCCP 4 lần, tại vị trí sản xuất
cao gấp 8 lần. Hay ở làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hơng Yên), hàm lượng chì trong môi
trường không khí lên tới 46,411 mg/m3, vượt TCCP tới hàng nghìn lần...


Ô nhiễm môi trường do tiếng ồn tập trung ở một số làng nghề cơ khí, đúc, mộc, dệt. Các
thiết bị gây ồn là máy cưa, máy bào, máy cán sắt, máy mài, máy đột dập, máy dệt... Ví dụ,
kết quả đa tiếng ồn ở làng nghề Vân Chàng trong khu dân cơ là 65- 87,5dB, vượt quá TCCP
1,2- 1,5 lần; đa tại khu vực máy cán và máy miết xaong nhôm tiếng ồn lên tới 95- 100dB.
Ô nhiễm môi trường do các tác nhân tạo mùi: Một số làng nghề trong hoạt động đã tạo
ra các chất gây mùi khó chịu, có thể ảnh hưởngtới cả các làng lân cận cách xa 1- 2 km. Qua
thống kê chothấy 100% các làng nghề mây tre đan, sản xuất đồ mộc, chế biến lương thực đều
gây ô nhiễm môi trường nước và tạo ra mùi khó chịu.
• Với môi trường đất:

Các chất ô nhiễm từ các làng nghề thải vào môi trường đất đãlàm thay đổi thành phần
hóa, lý của đất, làm cho năng suất vật nuôi, cây trồng giảm và gây ảnh hưởng xấu tới sức
khỏe con ngưới.
Ô nhiễm môi trường đất xảy ra nghiêm trọng nhất ở các làng nghề tái chế kim loại.
Theo số liệu điều tra sơ bộ, hàm lượng các kim loại nặng trong nước thải của các làng nghề
tái chế kim loại hầu hết đều cao hơn TCCP nhiều lần và thải trực tiếp vào môi trường mà
không qua xử lý. Một ví dụ điển hình về các làng nghề tái chế kim loại gây ảnh hưởng tới
môi trường đất là làng nghề tái chế chì ở xã Chỉ Đạo (Hơng Yên). Nguyên liệu để sản xuất
của làng nghề này là các bình ắc quy hỏng, nhiên liệu sử dụng để nấu là than đã qua sử dụng
từ các xưởng đúc kim loại, lò vôi. Các kim loại nặng có trong chất thải phát sinh từ quá trình
sản xuất chì ở xã Chỉ Đạo xâm nhập vào môi trường đất chủ yếu qua hai con đướng là phát
tán vào không khí rồi theo nước mưa lắng đọng vào đất và theo nước thải đổ vào nước tưới
ruộng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, một số mẫu đất ở xã Chỉ Đạo có hàm lượng Cu 2+ 43,6869,68 ppm; hàm lượng Pb2+ 147,06- 661,2 ppm, cao hơn TCCP của Anh, Đức, Ba Lon; hàm
lượng Zn2+ 23,6- 42,3 ppm, thuộc loại đất có hàm lượng kẽm linh động cao. Môi trường bị ô
nhiễm đã ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và sức khỏe của người dân xã Chỉ Đạo. Theo
kết quả tính toán của Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, thiệt hại gây ra cho vấn đề sức
khỏe cộng đồng ở đây là 93,5 triệu/năm, chiếm 17,1% tổng thu nhập do hoạt động này mang
lại.
• Ảnh hưởng của làng nghề tới sức khỏe cộng đồng:


Chất thải trong hoạt động sản xuất của các làng nghề ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
tới sức khỏe của ngưới sản xuất và của cộng đồng nói chung. Số liệu thống kê của các phòng
y tế các huyện và trạm y tế xã về tình hình sức khỏe của nhân dân làng nghề cho thấy rằng ở
các làng nghề khác nhau thì các bệnh nghề nghiệp cũng như tỷ lệ ngưới mắc bệnh nghề
nghiệp có khác nhau: ở làng nghề cơ khí, đúc, sản xuất nguyên vật liệu… do sử dụng lượng
than lớn nên tỷ lệ ngưới mắc các bệnh về phổi, phế quản cao; làng nghề tẩy nhuộm vải sợi,
mạ kim loại sử dụng nhiều hóa chất độc hại, kim loại nặng thì tỷ lệ ngưới bị bệnh ung thơ
cao, tuổi thọ giảm; làng nghề gây ô nhiễm nguồn nước như chế biến lương thực, mây tre đan,
chế biến gỗ thì tỷ lệ ngưới mắc bệnh ngoài do, bệnh mắt hột, bệnh phụ khoa tăng; làng nghề

gây tiếng ồn lớn thì tỷ lệ ngưới mắc bệnh thần kinh, bệnh não cao, tuổi thọ giảm.
Ví dụ như ở làng nghề chế biến lương thực thực phẩm vùng Cát Quế, Dương Liễu (Hà
Tây) hàng năm có tỷ lệ ngưới mắc bệnh ngoài da, đau mắt hột chiếm hơn 70% dân số do ô
nhiễm nguồn nước. Theo số liệu điều tra tại làng nghề tái chế chì thuộc xã Chỉ Đạo (Hơng
Yên) thì tỷ lệ các loại bệnh như ỉa chảy, đau mắt hột, các bệnh đường hô hấp, hiện tượng sẩy
thai, hiện tượng phát triển trí tuệ không bình thường ở trẻ em của xã cao hơn các xã khác
trong vùng do nguồn nước bị ô nhiễm chì. Làng nghề thuộc do xã Liễu Xá (Hưng Yên), do ô
nhiễm nguồn nước với các dư lượng như Cr, phèn, vôi... nên các bệnh liên quan thể hiện rất
rõ ràng và phổ biến như bệnh về phổi, máu, do, những bệnh về hô hấp, mắt... Ở làng gốm
Bát Tràng, ô nhiễm môi trường không khí đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người dân.
Qua điều tra sức khỏe của 223 ngưới dân Bát Tràng thì có 76 người bị bệnh về đường hô hấp
và 23 ngưới bị bệnh lao. Cư dân làng gốm này chiếm 70% số bệnh nhân bị bệnh ung thư ở
các bệnh viện Hà Nội.

II. Làng nghề dệt nhuộm tơ tằm
1. Lịch sử và phân bố của làng nghề dệt nhuộm tơ tằm
Xuất phát từ nhu cầu may mặc cơ bản, ban đầu chỉ là sản xuất để tự phục vụ, các làng
nghề dệt nhuộm dần dần hình thành theo thời gian và với truyền thống cha truyền con nối, đã
tồn tại và phát triển cho tới ngày nay. Các làng nghề truyền thống, trong đó có nghề dệt
nhuộm, đã đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nghề và làng nghề. Cả nước hiện có
173 làng nghề dệt nhuộm, chiếm 10% tổng số làng nghề. Các làng nghề dệt nhuộm tập trung


nhiều nhất ở phía Bắc, chiếm tới 85,5% số làng nghề dệt nhuộm. Sơn La và Hà Tây là hai
tỉnh có số làng nghề dệt nhuộm nhiều nhất (46 và 22 làng). Công nghệ được sử dụng tại các
làng nghề dệt nhuộm khá phong phú. Tại các vùng, miền khác nhau, thường có công nghệ
sản xuất và mặt hàng truyền thống khác nhau, mang nét đặc trưng riêng. Có thể kể tên một số
làng nghề dệt nhuộm nổi tiếng như dệt lụa Vạn Phúc - Hà Đông, nhuộm sợi chỉ Tân Triều Hà Nội, dệt nhuộm khăn mặt Thái Phương - Thái Bình, ươm tơ Cổ Chất - Nam Định hay dệt
nhuộm Tương Giang - Bắc Ninh.
2. Các đặc trưng ô nhiễm môi trường của làng nghề dệt nhuộm tơ tằm

Ô nhiễm nước thải: Đây là vấn đề môi trường lớn nhất đối với các làng nghề dệt
nhuộm. Do sản xuất có sử dụng nhiều nước, hóa chất, thuốc nhuộm nên thành phần các chất
ô nhiễm trong nước thải làng nghề dệt nhuộm bao gồm: các tạp chất tự nhiên (tách ra từ sợi
vải), chất bẩn, dầu, sáp, hợp chất chứa nitơ, pectin (trong quá trình nấu tẩy), chuội tơ và các
hóa chất (sử dụng trong quy trình xử lý vải như hồ tinh bột, NaOH, H 2SO4, HCl, Na2CO3,)
các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10 - 30% lượng thuốc nhuộm và hóa chất sử
dụng bị thải ra ngoài cùng với nước thải.
Đặc trưng nước thải của một số làng nghề dệt nhuộm điển hình

(Nguồn: Đề tài KC 08-09 về môi trường - làng nghề)
Ô nhiễm môi trường không khí: Ở các làng nghề này chủ yếu là bụi và hơi hóa chất. Bụi
bông sinh ra trong quá trình giàn sợi, đánh ống, xe sợi, dệt vải. Hơi hóa chất phát sinh trong
quá trình nấu, tẩy, nhuộm do sử dụng hóa chất ở nhiệt độ cao và hầu hết các thiết bị sản xuất


đều là thiết bị hở. Hơi hóa chất chủ yếu là bazo, HCl, Cl 2, CH3COOH, chất tẩy giặt. Khí thải
lò đốt chứa nhiều thành phần ô nhiễm môi trường không khí như CO2, SO2, CO, NOx và bụi.
Ô nhiễm rác thải: Rác thải ở các làng nghề dệt chủ yếu là xơ nhộng, vụn bông, tơ vụn.
Ô nhiễm tiếng ồn: thiếu ánh sáng, chế độ gió và ẩm không thích hợp.

III. Tác hại của ô nhiễm môi trường làng nghề dệt nhuộm tơ tằm đến sức khỏe
cộng đồng, kinh tế - xã hội
Kết quả điều tra y tế tại các làng nghề dệt nhuộm tơ tằm cho thấy, bệnh ngoài da, bệnh
hô hấp (viêm mũi, viêm họng), tiêu hóa và suy nhược thần kinh là các bệnh rất thường gặp ở
người lao động tại các làng nghề này. Nguyên nhân tác động đến sức khỏe do sản xuất chiếm
tới 20% ở làng nghề dệt lụa tơ tằm Tương Giang, Bắc Ninh và ươm tơ Đông Yên, Quảng
Nam , chiếm 55% ở làng dệt nhuộm Thái Phương, Thái Bình và tới 70% ở làng ươm tơ Cổ
Chất, Nam Định.
Tỷ lệ người mắt bệnh, nhất là nhóm người trong độ tuổi lao động tại làng nghề dệt
nhuộm tơ tằm đang có xu hướng tăng cao.

Tuổi thọ trung bình của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm, thấp hơn 10 năm
so với tuổi thọ trung bình toàn quốc và so với làng không làm nghề tuổi thọ này cũng thấp
hơn từ 5 đến 10 năm.
Sự ô nhiễm môi trường không những chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của chính bản thân
họ, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó, những tổn thất không nhỏ về
mặt kinh tế và những xung đột môi trường trong cộng đồng nảy sinh ngày càng lớn.

IV. Hiện trạng quản lý môi trường làng nghề và giải pháp bảo vệ môi trường làng
nghề dệt nhuộm tơ tằm
1. Hiện trạng quản lý môi trường làng nghề dệt nhuộm, tơ tằm
Cũng như công tác quản lý môi trường làng nghề nói chung thì các chính sách phát triển
bền vững làng nghề dệt lụa tơ tằm chưa được chú trọng.
Quá trình sản xuất và phát triển của các làng nghề đều mang tính kế thừa qua các thế hệ.
Sự phân công lao động trong làng nghề là sự kết hợp hài hòa giữa từng người trong hộ gia
đình và các mối quan hệ họ hàng làng xóm. Khả năng kinh tế của nhiều làng, nhiều hộ còn


yếu (ít vốn) nên chưa sử dụng được các công nghệ mới và vẫn chưa được sự đầu tư đúng
mức từ Nhà nước.
Trình độ văn hóa của người lao động trong làng nghề thấp nên hạn chế khả năng xây
dựng kế hoạch cũng như quản lý, khả năng kiểm soát thị trường, tiếp thu cái mới, nên năng
suất, chất lượng thấp, dễ bị rủi ro, lãng phí.
Sản xuất của các làng nghề ở quy mô hộ gia đình. Phần lớn máy móc thiết bị sử dụng tại làng
nghề là thiết bị thô sơ, tự tạo hoặc do các cơ sở sản xuất trong nước gia công, lắp ráp, lạc
hậu, không theo một trình tự nào do ghép nhiều công nghệ khác nhau. Phương thức sản xuất
thường là gián đoạn, thiết bị thiếu đồng bộ. Điều này dẫn đến việc giảm hiệu quả sử dụng
nguyên nhiên liệu và đồng thời làm cho những vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề
dệt nhuộm tơ tằm cũng trở nên bức xúc hơn.
Chưa có biện pháp cụ thể xử lý chất thải sau quá trình sản xuất dẫn đến ô nhiễm môi
trường rác thải, nước thải, khí thải ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.

− Trong quá trình sản xuất có sử dụng hóa chất, thuốc nhuộm để tẩy, in. Nước thải
dịch nhuộm sau các công đoạn sản xuất không qua xử lý đổ thẳng ra ngoài môi
trường.
− Khí thải, nước thải, rác thải sau quá trình sản xuất không được xử lý gây ô nhiễm
môi trường.
− Tại các làng nghề dệt nhuộm, hiện chưa có cơ sở nào có hệ thống hút bụi, thông
gió để giảm lượng bụi bông trongkhu vực sản xuất. Tình trạng ô nhiễm do hơi hóa
chất cũng không có biện pháp khắc phục. Các cơ sở sản xuất đều không có ống khói
và đều không có hệ thống xử lý khí thải lò đốt.
2. Nguyên nhân
Thiếu mặt bằng sản xuất và sản xuất hỗn hợp nhiều loại hình khác nhau.
− Làng nghề thường tập trung chủ yếu ở các nơi dân cư đông đúc, gần các đô thị, dọc
theo bờ sông hay gần đường giao thông nên thiếu mặt bằng sản xuất
− Các cơ sở sản xuất nằm xen kẻ trong khu dân cư gây khó khăn cho việc bố trí x ử lý

chất thải.


Công nghệ sản xuất lạc hậu, chất thải ở phần lớn làng nghề chưa qua khâu xử lý đã thải
trực tiếp vào môi trường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên.
Ý thức môi trường của người dân tại khu vực làng nghề còn thấp.
− Vì lợi ích kinh tế
− Trình độ học vấn và chuyên môn thấp: tại các làng nghề chỉ có khoảng 7% thợ
giỏi, trên 55 % lao động không có chuyên môn (Báo cáo hiện trạng môi trường quốc
gia phần tổng quan 2005).
Quy mô sản xuất nhỏ, không tập trung, mang tính tự phát nên công tác quản lý, giám
sát, xử lý ô nhiễm khó khăn
Vốn đầu tư ít nên hạn chế bố trí xử lý chất thải.
3. Giải pháp
− Để phát triển bền vững làng nghề dệt nhuộm tơ tằm và khắc phục tình trạng ô

nhiễm như hiện nay thì vai trò của các cơ quan Nhà nước vô cùng quan trọng.
− Nhà nước cần tăng cường đầu tư, hỗ trợ về tài chính (thông qua nguồn vốn vay ưu
đãi) để các làng nghề dệt lụa tơ tằm đổi mới trang thiết bị phục vụ sản xuất thay thế
dần công cụ thủ công lạc hậu.
− Khuyến khích các cơ sở sản xuất trong làng nghề áp dụng các giải pháp sản xuất
sạch hơn để vừa giảm lượng phát thải, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cho vay ưu
đãi với lãi suất thấp đối với các chủ cơ sở áp dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến tạo
ít chất thải.
− Nhanh chóng xây dựng, ban hành và áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường làng nghề.
− Có thể hình thành tổ chức quản lý môi trường tại các làng nghề, tạo nên sự liên kết
chặt chẽ giữa các nhà quản lý, nhà môi trường, nhà lập kế hoạch với cộng đồng làng
nghề.
− Các làng nghề dệt nhuộm tơ tằm tiến hành xây dựng các quy định về vệ sinh, môi
trường dưới dạng các quy định, hiệp ước, cam kết bảo vệ môi trường của chính địa


phương mình. Tăng cường hoạt động giám sát môi trường làng nghề và thực hiện
kiểm kê nguồn thải.
− Xử lý triệt để các cơ sở làng nghề sản xuất gây ô nhiễm môi trường.
− Khuyến khích các cơ sở sản xuất xử lý nước thải, khí thải, quản lý môi trường bằng
cho vay ưu đãi hoặc giảm thuế. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư và khuyến khích sự
tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường làng nghề. Sự phát triển của làng
nghề phải bảo đảm tính bền vững, hài hòa các mặt kinh tế, xã hội và bảo vệ môi
trường.
− Tổ chức thu gom và xử lý chất thải, bố trí bãi rác hợp vệ sinh, thành lập bộ phận
chuyên trách về môi trường, lập quỹ bảo vệ môi trường và thu phí vệ sinh. Quy
hoạch và phát triển làng nghề, các giải pháp về kinh tế (phí môi trường và xử phạt vi
phạm về môi trường).
• Một nhân tố có tác động mạnh mẽ đến bảo vệ môi trường ở các làng nghề dệt nhuộm

tơ tằm chính là người sản xuất và cộng đồng tại làng nghề
− Vì vậy các cơ quan nhà nước cần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục, tuyên
truyền vận động về vệ sinh môi trường cũng như ý thức về bảo vệ an toàn lao động
đến từng hộ sản xuất cá thể và tổ chức sản xuất.
− Nâng cao dân trí nhằm nâng cao ý thức của người dân tại các làng nghề để tự họ
nhận thấy việc bảo vệ môi trường làng nghề chính là bảo vệ lợi ích thiết thực và sức
khỏe lâu dài của cộng đồng cũng như sản phẩm của họ.
− Tăng cường giáo dục môi trường thông qua các hình thức tập huấn, đào tạo, in các
ápphic, tờ poster và tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng như
báo chí, truyền hình, phát thanh...
− Nâng cao trình độ lao động chuyên môn cho người lao động.
• Đối với người chủ sản xuất tại các làng nghề dệt nhuộm tơ tằm
− Cần đầu tư vốn để tăng cường đổi mới công nghệ và thiết bị.
− Cần thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường nơi làm việc.
− Trang bị dụng cụ an toàn lao động cho người lao động.


− Tuân thủ các quy định về vệ sinh môi trường một cách chặt chẽ
• Quy hoạch lại khu vực sản xuất như:
− Quy hoạch làng nghề khoa học: chia thành nhiều khu với các chức năng khác nhau:
Khu xử lí nguyên liệu, khu dệt, khu tẩy nhuộm, khu đổ rác thải, nước thải, khu dân
cư.
− Bố trí khoảng cách sản xuất sao cho thông thoáng, hợp lý.
− Phân cụm các hộ sản xuất theo mức độ ô nhiễm để bố trí hệ thống xử lý chất thải
tập trung.
− Quy hoạch khu vực sản xuất tách khỏi khu dân cư, là biện pháp tích cực giảm tác
động ô nhiễm nhưng cũng rất khó khăn đối với các làng nghề.
− Quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Di rời các cơ sở gây ô
nhiễm nặng ra khỏi khu vực dân cư. Quy hoạch tập trung theo cụm công nghiệp nhỏ
cần tránh xa khu dân cư và quy hoạch đồng bộ mặt bằng sản xuất, cơ sở hạ tầng như

đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống thông tin, thu gam và xử
lý nước thải, chất thải rắn để xử lý tập trung.

V. Ví dụ và phân tích làng dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc
1. Giới thiệu chung về làng lụa Vạn Phúc
Làng lụa Hà Đông hay Làng lụa Vạn Phúc (nay thuộc phường Vạn Phúc, thuộc quận
Hà Đông, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15km) là một làng nghề dệt lụa tơ tằm đẹp nổi tiếng
có từ ngàn năm trước. Lụa Vạn Phúc có nhiều mẫu hoa văn và lâu đời bậc nhất Việt Nam.
Lụa Hà Đông từng được chọn may trong phục cho triều đình.
Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng lụa Vạn Phúc vẫn còn giữ được ít nhiều nét cổ kính quê
ngày xưa như hình ảnh cây đa cổ thụ, giếng nước, sân đình, buổi chiều vẫn họp chợ dưới gốc
đa trước đình. "Lụa Hà Đông" cũng như các sản phẩm thủ công truyền thống của các làng
nghề Hà Nội, thường được nhắc đến trong thơ ca xưa.
Làng Vạn Phúc vốn có tên Vạn Bảo, do kị húy nhà Nguyễn nên đã đổi thành Vạn Phúc.
Theo truyền thuyết, cách đây khoảng 1200 năm, bà A Lã Thị Nương là vợ của Cao Biền, thái


thú Giao Chỉ, từng sống ở trong Vạn Bảo. Trong thời gian ở đây, bà đã dạy dân cách làm ăn
và truyền nghề dệt lụa. Sau khi mất, bà được phong làm thành hoàng làng.
Lụa Vạn Phúc được giới thiệu lần đầu ra quốc tế tại các hội chợ Marseille (1931) và
Paris (1932), được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảa của vùng Đông Dương
thuộc Pháp. Từ 1958 đến 1988, sản phẩm lụa Vạn Phúc hầu hết được xuất sang các nước
Đông Âu, từ 1990 xuất khẩu ra nhiều quốc gia trên thế giới.
Năm 2009, làng Vạn Phúc có khoảng 1000 khung dệt, sản xuất nhiều loại lụa cung cấp
cho thị trường trong và ngoài nước, trong đó có các loại lụa cao cấp như lụa vân quế hồng
diệp, lụa vân lưỡng long song phượng.
Năm 2010, để kỉ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Hữu
Chỉnh, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, đã thiết kế mẫu lụa Long Vân với hoa
văn mang hình tượng lưỡng long chầu Khuê Văn Các được cách điệu trong hình ảnh hoa sen.
Mặt hàng dệt tơ lụa Vạn Phúc có nhiều loại: Lụa, là, gấm, vóc, vân, the, lĩnh, bằng, quế,

đoạn, so, kỳ, cầu, đũi. Khổ vải thường là 90-97cm. Theo ca daotruyền miệng, nổi tiếng nhất
trong các loại lụa Vạn Phúc có lẽ là lụa vân - loại lụa mà hoa văn nổi vân trên mặt lụa mượt.
Ðể tạo ra những sản phẩm tơ lụa tuyệt hảo, những người thợ Vạn Phúc đã tiến hành một quy
trình kỹ thuật phức tạp gồm nhiều công đoạn như khâu tơ, khâu hồ sợi, khâu dệt, khâu
nhuộm. Mỗi khâu đều phải tiến hành theo những quy định khá nghiêm ngặt.
Ngày nay, lụa Vạn Phúc qua các thế hệ, những nghệ nhân và thợ dệt đã không ngừng
cải tiến, nâng cao kỹ thuật sản xuất. Bởi thế, lụa Vạn Phúc dù ở loại nào cũng đạt tới mức
hoàn mỹ, mịn óng, mềm mại với màu sắc óng ánh, đường nét tinh tế khi nổi khi chìm, có loại
trong nhã, có loại rực rỡ.
Trải qua bao thế hệ, lụa Vạn Phúc vẫn luôn giữ được những thủ pháp nghệ thuật truyền
thống. Hoa văn bao giờ cũng trong trí đối xứng, đường nét trong trí không rườm rà, phức tạp
mà luôn mềm mại, phóng khóang, dứt khóat. Bởi vậy, lụa Vạn Phúc không chỉ được ưa
chuộng ở trong nước mà đã vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam tới tay những người sành điệu
bốn phương.
Tuy nhiên có 1 vấn đề hết sức nghiêm trọng đó là cũng như nhiều làng nghề khác,
người dân làng dệt lụa Vạn Phúc – Hà Đông – Hà Nội luôn phải từng ngày, từng giờ sống


trong sự ô nhiễm nặng nề. Lụa Vạn Phúc càng nổi tiếng bao nhiêu thì tình trạng ô nhiễm nơi
đây lại càng đáng báo động bấy nhiêu.
2. Thực trạng
Sự ô nhiễm trầm trọng đang bao trùm toàn hệ thống kênh, mương tại đây. Chỉ trong vài
giờ đồng hồ buổi sáng, con mương dẫn nước thải chủ lực của Vạn Phúc liên tục đổi màu hết
xanh, đỏ rồi lại chuyển qua những màu tím tái kinh sợ. 100% mẫu nước thải đều có thông số
vượt quá tiêu chuẩn cho phép; nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm. Nước ngầm
của địa phương này bị nhiễm quá nhiều các thành phần hóa chất. Trong đó nhiều nhất là các
chất như N2CO3, CH3COOH, H2S, Na2S. Tất cả các thành phần này đã nhiễm xuống nguồn
nước ăn của các hộ.
Vạn Phúc có khoảng 100 gia đình chuyên nhuộm lụa. Ông Đỗ Văn Minh, chủ một
xưởng nhuộm khá khang trang ở đây cho biết: “Để nhuộm 40 m 2 lụa cần dùng 3kg thuốc

nhuộm và sẽ thải ra 20 lít nước thải có chứa nhiều loại chất độc như BOD, COD”.
Trong khi ở làng lụa Vạn Phúc, hầu hết các xưởng nhuộm chưa có hệ thống xử lí nước
thải và khí thải mà thứ nước thải này đổ trực tiếp ra kênh và chảy ra sông Nhuệ khiến nước
sông khu vực này ngả màu đen đặc. Các loại sinh vật như cây cỏ hay tôm cá trong sông đều
khó có cơ hội tồn tại lâu dài bởi cả tầng nước mặt và mặt nước ngầm đều nằm trong tình
trạng ô nhiễm báo động. Ngày trời nắng, không khí bốc mùi hôi thối nồng nặc. Ngày trời
mưa, trên mặt sông lềnh bềnh những rác thải.
Dùng hóa chất thay thế thuốc nhuộm từ thiên nhiên là một nguyên nhân hủy hoại môi
trường. Theo số liệu Hợp tác xã Dệt lụa Vạn Phúc đưa ra thì mỗi năm các cơ sở của địa
phương này sản xuất khoảng trên 2 triệu mét khối lụa, với số lượng hàng trăm ngàn kilôgam
lụa. Tính ra, để tẩy và làm màu cho toàn bộ số lụa này thì phải dùng tới hàng trăm kilôgam
hóa chất. Và cứ mỗi kilôgam lụa thành phẩm phải mất tới 30 lít nước tẩy rửa, số hóa chất
được đưa vào phục vụ cho quá trình nhuộm tạo màu cho lụa luôn chiếm một tỷ lệ cao, cứ
10kg lụa phải mất tới 300g hóa chất nhuộm.... hoặc đổ trực tiếp xuống mương, rãnh mà
không qua xử lý. Ở đây tất cả nước thải từ làng lụa đều đổ ra sông Nhuệ.
Mỗi năm sản lượng sản xuất của địa phương đạt 2,5 triệu mét lụa các loại. Trong đó 1,5
triệu mét phải qua công nghệ tẩy nhuộm. Để có được 1m lụa cần qua hai giai đoạn là nấu tẩy


và tẩy nhuộm. Trung bình 1m lụa phải dùng từ 8-10 lít nước. Số lít nước dùng cho việc tẩy
nhuộm có thể sẽ lớn hơn vì còn tuỳ thuộc vào việc nhuộm đậm hay nhạt.
Mặc dù nhuộm, tẩy là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường làng nghề, song khâu
nhuộm vải vẫn còn thủ công hoàn toàn khi phải dùng bếp lò than công suất rất nhỏ. Người
dân sử sụng thuốc nhuộm có nguồn gốc từ Trung Quốc, được bán tràn ngập trên thị trường.
Những loại hóa chất hay dùng trong sản xuất: N 2CO3, H2O, CH3COOH, H2S, thuốc nhuộm
axít, thuốc nhuộm lưu huỳnh (đá, Na2S), thuốc nhuộm trực tiếp.
Làng Vạn Phúc hiện có trên 700 cơ sở tham gia sản xuất lụa, trong đó hơn 22 cơ sở làm
công việc nhuộm và tẩy rửa lụa chịu trách nhiệm tẩy, nhuộm cho toàn bộ số lụa của làng Vạn
Phúc sản xuất ra mỗi ngày. Trung bình mỗi hộ có từ 3 đến 4 máy. Vào thời điểm cao điểm,
tất cả máy dệt của làng đều được vận hành hết tốc lực. Theo nghiên cứu của các nhà môi

trường thì tiếng ồn ở đây đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 10 tới 35 đêxiben.

Không ai có thói quen dùng phương tiện bảo hộ lao động khi làm việc. Hóa chất nhuộm
tác động trực tiếp vào tay.
Một tác nhân nữa góp phần gây ô nhiễm môi trường là thành phần trong tơ tằm, bởi qua
khâu tẩy, thải ra 25% tạp chất. 1m lụa có trọng lượng 80g sẽ thải ra ngoài nước 20g tạp chất.
Đặc biệt môi trường làng nghề còn bị ô nhiễm bởi nước tẩy nhuộm hàng nghìn mét vải lụa
mỗi ngày đựơc thóat ra trong các cụm dân cư mà không qua xử lý chảy thẳng ra hệ thống
cống rãnh trong khắp làng nghề.
3. Hậu quả
Tính mạng của người dân bị đe doạ nghiêm trọng với các căn bệnh về đường hô hấp, da
liễu, đặc biệt là bệnh ung thư (số ca tử vang vì ung thư chiếm 60%)
Môi trường làng nghề suy thóai trầm trọng: rác thải, nước thải, không khí, tiếng ồn…
Nguồn nước ngầm cạn kiệt và bị ô nhiễm từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt của các hộ
gia đình.
Ô nhiễm môi trường có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, không những với môi
trường sinh thái mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người (ví dụ: Không chỉ hít


khí độc, thợ nhuộm còn thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với các loại dung dịch nhuộm cũng
rất độc hại).
Ô nhiễm tiếng ồn có thể gây những tác hại khó lường như: ù tai, rối loạn giấc ngủ, ảnh
hưởng tới tim mạch, giảm sự ca bóp của hệ tiêu hóa…
Người dân sống tại các làng nghề này có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn khoảng 15- 25 % so
với các làng thuần nông, trong đó tỷ lệ mắc bệnh chủ yếu là phụ nữ và trẻ em là 30-45%.
Tại các làng nghề dệt, người lao động luôn phải tiếp xúc với tiếng ồn, độ ẩm cao, bụi
bông và hóa chất nhiều nên hay mắc các bệnh về thần kinh, viêm xaong, viêm họng, đau
mắt… Ngoài những người mắc phải các căn bệnh về đường hô hấp, mắt, viêm mũi, viêm
xoang thì những người mắc phải các căn bệnh và tử vang do ung thư mà được trạm Y tế của
địa phương biết tới thì trong vài năm trở lại đây khá cao.

Trong năm 2007, đã có cả gần chục ca tử vang do mắc phải căn bệnh này. Phần lớn
những người chết tuổi trung bình từ 32 - 40, chiếm tới 60% số ca tử vang của Vạn Phúc.
4. Nguyên nhân
− Chất tẩy nhuộm .
− Nước thải.
− Tạp chất tơ tằm.
− Quá trình cơ giới hóa.
Ngày trước, các nghệ nhân của làng nghề thường dùng thuốc nhuộm màu hay tẩy trắng
cho lụa là những nguồn nguyên liệu dân gian được lấy từ thực vật, lá cây hay các loại hoa,
quả. Giờ đây người ta đã sử dụng hóa chất vào việc này. Thuốc nhuộm chủ yếu được mua từ
hàng không rõ nguồn gốc.
Làng nghề đã hoạt động lâu năm mà đến nay vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải. Tất
cả nước khi sử dụng xong đều được thải trực tiếp ra môi trường, hoàn toàn không qua khâu
xử lý chất thải. Chúng đã ngấm dần xuống nguồn nước ăn của bà con và trở thành nguyên
nhân chính gây nên không ít bệnh.
Phẩm màu và hóa chất đã giúp những thợ lụa nơi đây cho ra thị trường những thước lụa
không mất quá nhiều công sức. Song, khi khâu xử lý nước thải chưa được đảm bảo


Một tác nhân nữa góp phần gây ô nhiễm môi trường là thành phần trong tơ tằm
5. Biện pháp
− Quy hoạch làng nghề khoa học: chia thành nhiều khu với các chức năng khác nhau:
• Khu xử lí nguyên liệu
• Khu dệt
• Khu tẩy nhuộm
• Khu đổ rác thải,nước thải
• Khu dân cư.
− Sử dụng một cách hiệu quả các nguồn hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài n ước
để cải tạo môi trường làng nghề.
− Cải tạo nơi đổ nước thải cũ, nạo vét kênh mương

− Cải tạo các phương tiện máy móc theo hướng hiện đại hóa để giảm thiểu ô nhiễm.
− Trích một phần lợi nhuận từ việc bán lụa thành phẩm để cải tạo môi trường .
− Liên kết chặt chẽ với sở tài nguyên và môi trường cùng một số ban ngành khác để
có thể kiểm soát việc sử dụng chất gây ô nhiễm.
− Tuyên truyền về hiện trạng và hậu quả môi trường để người dân trong làng biết
cách tự bảo vệ mình và những người xung quanh.
− Để giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm môi trường trong các làng nghề tại Hà Đông đang
có chiều hướng gia tăng, rất cần quy hoạch gọn các cơ sở sản xuất vào khu vực nhất
định để xây dựng hệ thống xử lý nước thải, khí thải trước khi xả ra môi trường xung
quanh.
− Bên cạnh đó việc đề ra một chính sách cho các hộ, cơ sở sản xuất vay lãi suất thấp
thực hiện xây dựng hệ thống xử lý chất thải cũng là một biện pháp để từng bước
giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Lồng ghép phổ biến các chính sách, quy định về bảo
vệ môi trường trong các cuộc họp dân sẽ nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh công cộng.

VI. Kết luận và đề xuất của nhóm báo cáo:
Sự phát triển của các làng nghề dệt nhuộm tơ tằm nói riên và các làng nghề khác nói
chung có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở nông thôn. Tuy


nhiên, chúng ta cần phải quan tâm đến những hệ quả xấu từ việc sản xuất và phát triển của
các làng nghề. Từ thực trạng trên cho thấy mức độ ô nhiễm và tình hình sức khỏe của người
dân tại nơi có làng nghề ô nhiễm là vấn đề cần quan tâm giải quyết hàng đầu.
Việc áp dụng các giải pháp phải tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng loại hình làng
nghề và từng địa phương. Công tác bảo vệ môi trường sản xuất tại làng nghề đang là đòi hỏi
cấp thiết. Làm sao để vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ môi trường sản xuất tại các làng nghề
hiệu quả hơn.

Đề xuất của nhóm:
Công tác bảo vệ môi trường làng nghề nên tiến hành đồng bộ theo hướng xã hội hóa.

Khai thác tiềm năng du lịch từ làng nghề. Hiện nay, các tour du lịch từ các làng nghề cũng
bắt đầu phát triển khá rầm rộ như tuyến du lịch từ thành phố Hồ Chí Minh tới chợ nổi Cái Bè
- làng nghề Vĩnh Long hay các tour du lịch trong ngày từ Hà Nội đến làng gốm Bát Tràng
(Hà Nội); làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh)... có thể áp dụng vào các làng nghề dệt nhuộm tơ
tằm mà lại giữ được bản sắc văn hóa của từng địa phương.
Nhà nước nên tiến hành quy hoạch tập trung theo mô hình các khu công nghiệp vừa và
nhỏ ở nông thôn
Xử lý nghiêm những trường hợp tái phạm gây ô nhiễm môi trường.
Tổ chức tuyên truyền, vận động về an toàn lao động và vệ sinh môi trường cho người
dân tại làng nghề trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền thanh, báo chí,...và có
những đợt tuyên truyền thiết thực, cụ thể cho những hộ gia đình ở khu vực làng nghề dệt
nhuộm tơ tằm.

Tài liệu tham khảo
Bộ Tài Nguyên Và Môi Trường, 2005 -2008. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia phần tổng
quan năm 2005-2008.
Đặng Kim Sơn, , Công nghiệp hóa từ nông nghiệp lý luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt
Nam. Hà Nội: NXB Nông nghiệp, 2001.
Lê Thúy Cương.2007. Phát triển làng nghề Hà Tây bền vững trong hội nhập quốc tế [Trực
tuyến].Tỉnh ủy Hà Tây. Đọc từ: www.baohatay.com.vn/news_detail.asp?
newsid=77740&CatID=11
Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình Thắng, iáo trình kinh tế nông nghiệp, Hà Nội: NXB thống kê, 2004
Nguyễn Mạnh Dũng. 2004. Phát triển ngành nghề ở nông thôn. Hà Nội :NXB Nông nghiệp.






/>




×