Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân đặt ra hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.63 KB, 28 trang )

A- MỞ ĐẦU
Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta suốt trong quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng
đồng, ý thức cố kết dân tộc trải qua hành ngàn năm lịch sử trở thành truyền thống
bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn con người Việt Nam. Từ ngàn
đời nay, đối với người Việt Nam, tinh thần yêu nước- nhân nghĩa- đồn kết trở
thành đức tính, lẽ sống, tình cảm tự nhiên của mỗi người.
Kế thừa và phát huy trường thống đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng
củng cố và khơng ngừng mở rộng khối đại đồn kết tồn dân tộc, phát huy sức
mạnh tổng hợp lãnh đạo nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Lịch sử lãnh đạo, đấu tranh vẻ vang của Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định là một pho lịch sử bằng vàng. Đảng cộng sản Việt Nam đã có được
những truyền thống cực kỳ quý báu. Đó là truyền thống chiến đấu kiên cường, bất
khuất, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; truyền thống độc lập tự chủ,
tự lực, tự cường và không ngừng sáng tạo; truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng; truyền thống gắn bó mật thiết với nhân dân, trưởng thành trong phong trào
cách mạng của quần chúng và truyền thống luôn nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt
Nam: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng
ta trong bối cảnh mở cửa, hội nhập kinh kế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện đại,
tình hình thế giới có nhiều biến động khơng lường, việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, tạo nên tổng hợp lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
cần có sự đồn kết thống nhất cao độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam suốt hơn 80 năm qua bắt
nguồn từ nhiều nhân tố. Trước hết là nhờ Cương lĩnh, đường lối và sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng, dựa trên sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, kế thừa và phát huy các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là do sự hi sinh,


chiến đấu, lao động sáng tạo của toàn dân dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây và xây dựng chủ
nghĩa xã nhội, thực hiện công cuộc đổi mới hiện nay, những bài học có giá trị lý
luận và thực tiễn. Đó là bài học phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và
1


xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất; bài học về xây dựng khối liên minh vững
chắc giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức; bài học về tăng
cường xây dựng nhà nước thực sự của dân, do nhân dân và vì nhân dân…
Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề đại đoàn kết dân tộc đang đặt ra khơng ít thách
thức với đường lối chỉ đạo của Đảng. Việc nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh
chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch “ diễn biến hịa bình”, địi đa
ngun, đa đảng, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tơn giáo hịng phá hoại chế
độ xã hội chủ nghĩa là việc làm cần thiết đối với mọi người dân Việt Nam.
Xuất phát từ những lý luận trên, tôi chọn nội dung: "Những vấn đề lý luận và
thực tiễn về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân đặt ra hiện nay" làm đề tài
nghiên cứu.

2


B. PHẦN NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1. Quan điểm của Mác-Lênin về đại đoàn kết
Chủ nghĩa Mác-Lênin dạy rằng: Giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất
có sứ mệnh lịch sử giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây là nhiệm vụ nặng
nề, lâu dài, địi hỏi phải có chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn. Giai cấp

cơng nhân chỉ có thể giải phóng mình nếu giải phóng tồn bộ xã hội chính vì vậy
giai cấp cơng nhân tất yếu phải đoàn kết tất cả các lực lượng, các giai cấp phát huy
được sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế để làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình
Mác- ĂngGhen chỉ rõ: “lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp đó hiện
nay đã phát triển tới giai đoạn trong đó giai cấp bị bóc lột, bị áp bức là giai cấp vơ
sản khơng cịn có thể tự giải phóng khỏi ách áp bức của giai cấp bóc lột và thống trị
mình tức là giai cấp tư sản nếu khơng đồng thời và khơng vĩnh viễn giải phóng tồn
xã hội khỏi mọi ách bọc lột, áp bức khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai
cấp”. Khi sáng lập Đồng minh những người cộng sản và soạn thảo bản "Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản" Mác - ĂngGhen kêu gọi "Vơ sản tất cả các nước đồn
kết lại".
Giai cấp vơ sản là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất mới, là lực
lượng tiến bộ và cách mạng nhất. Sứ mệnh của giai cấp vô sản không chỉ đồn kết
giai cấp mình, nhân dân mình mà cịn có nhiệm vụ đồn kết giai cấp vơ sản các
nước. Sự đồn kết đó xuất phát từ chỗ, họ cùng có sứ mệnh cao cả, có mục đích
chung và kẻ thù chung. Vì vậy sự đồn kết gia cấp vơ sản là một tất yếu khách
quan trên con đường xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội mới,
trong thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản "Trong các cuộc đấu tranh của
những người vô sản thuộc các giai cấp thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên
hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc, họ luôn luôn đại
diện cho lợi ích tồn bộ phong trào".
Khẳng định ý nghĩa to lớn của chiến lược đoàn kết trong sự nghiệp cách
mạng vô sản, trong phần cuối tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác ĂngGhen viết "ở tất cả mọi nơi những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào
cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành. Những người cộng sản
phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hiệp các đảng dân chủ ở tất tả các nước".
Chủ nghĩa Mác-Lênin coi đoàn kết là một nguyên tắc trong cách mạng vô
sản, các ông chỉ rõ: Một nguyên tắc cơ bản của quốc tế đó là sự đoàn kết, cách

3



mạng là phải đồn kết bởi Cơng xã Paris thất bại đã để lại bài học kinh nghiệm về
sự đoàn kết trong cách mạng vơ sản.
Nói về vai trị đồn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
Lênin khẳng định “Nhiệm vụ chủ yếu mà giai cấp vô sản và nông dân nghèo do
giai cấp vô sản lãnh đạo phải hoàn thành trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa nào và do đó phải hoàn thành trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đã bắt đầu tiến hành ở Nga ngày 25/10/1917 nhiệm vụ chủ yếu đó là một
cơng tác tích cực hay là sáng tạo nhằm thiết lập một mạng lưới các quan hệ của tổ
chức sản xuất mới, một mạng lưới cực kỳ quan trọng và tinh tế bao trùm sự sản
xuất và phân phối một cách có kế hoạch các sản phẩm cần thiết cho đời sống của
hàng chục triệu người, một cuộc cách mạng như thế chỉ có thể hồn thành thắng lợi
nếu đa số nhân dân và trước hết là đa số các người lao động chủ động tiến hành
một hoạt động sáng tạo có ý nghĩa lịch sử”.
Đối với vấn đề tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ phải quan tâm đặc
biệt đến quyền bình đẳng thực sự của các dân tộc, hết sức tránh khơng xúc phạm gì
đến tổ chức các tín đồ trong quần chúng, đồng thời nhấn mạnh việc đoàn kết thống
nhất trong đảng, kiên quyết đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc chia rẽ nội bộ
đảng
Những luận điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị
áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn
kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên toàn thế giới để dành
thắng lợi hoàn toàn cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước đầu tiên tiếp
thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về đồn kết. Hồ Chí Minh đã kết
hợp nhuần nhuyễn luận điểm "cách mạng là sự nghiệp quần chúng" với tư tưởng
đại đoàn kết nhằm tập hợp phát huy sức mạnh lực lượng cách mạng trong nước
quốc tế phấn đấu cho cuộc đấu tranh vì độc lập dân chủ và CNXH. Hồ Chí Minh
đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc và Người đã để lại cho Đảng và

dân tộc ta di sản tư tưởng đại đoàn kết dân tộc.
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng
Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh nhất quán và xuyên suốt
trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác

4


nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc phải ln ln được nhận thức là vấn đề sống
còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý:
Đồn kết làm ra sức mạnh; "Đồn kết là sức mạnh của chúng ta".
"Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi"; "Đoàn kết là sức mạnh, là
then chốt của thành cơng".
Đồn kết là điểm mẹ. "Điểm này là thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt".
"Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng"
Tư tưởng đại đồn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt
Nam. Trong Lời kết thúc buổi ra mặt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3 - 3 1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước tồn thể dân tộc: "Mục đích
của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG
SỰ TỔ QUỐC". Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội
chủ nghĩa. người chỉ rõ: "Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì
nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một
là đoàn kết. hai là làm cách mạng hay kháng chiến để địi độc lập. Chỉ đơn giản thế
thơi. Bây giờ mục đích tun truyền huấn luyện là: "Một là đồn kết. Hai là xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Bác là đấu tranh thống nhất Nhà nước".
Đại đồn kết dân tộc khơng phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng mà cịn là mục tiêu, mục đích, nhiệm hàng đầu của cả dân tộc. Như

vậy đại đoàn kết dân tộc chính là địi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân
dân trong cuộc đấu tranh để giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần
chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh tập hợp, hướng dẫn, chuyển
những đòi hỏi khách quan, tự phát của quàn chúng thành những đòi hỏi tự giác,
thành hiện thức có tổ chức, thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phục cho con người.
- Nội dung đại đồn kết dân tộc
Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người
dân và một khối trong cuộc đấu tranh chung. người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn
kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đồn kết để
xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phục sự tổ quốc và phục vụ
nhân dân thì ta đồn kết với họ". Ta ở đây vừa là Đảng vừa là mọi người dân của
Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại
đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết tồn dân trong
suốt q trình của cách mạng Việt Nam.

5


Muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền
thống yêu nước - nhân nghĩa - đồn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan dung,
nội lượng với con người. Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người lầm
đường lạc lối những đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đồn
kết với họ, mà hồn tồn không định kiến, khoét sâu cách biệt. Người đã lấy hình
tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, những cả năm ngón đều thuộc về một
bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi.
Dân tộc, tồn dân là khối rất đơng bao gồm nhiều chục triệu con người.
Muốn xây dựng khối đại đồn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ
đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái
nền tảng đó. Về điều này, Người đã chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn

kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, công dân và các tầng
lớp nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó
là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác". Người cịn
phân tích sâu hơn, đâu là những lực lượng nịng cốt tạo nên cai nền tảng ấy, hay
cũng có thể nói đâu là nền tảng của cái nền tảng ấy: " Lực lượng chủ yếu trong khối
đại kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận
dân tộc thống nhất". Về sau Người nêu thêm: lấy liên minh - công nông - lao động
trí óc làm nền tảng cho khối đại đồn kết tồn dân. nền tảng càng được củng cố
vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng có thể mở rộng, khơng e ngại bất cứ
thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
- Nguyên tắc và phương pháp đại đồn kết của Hồ Chí Minh
Đại đoàn kết phải được xây dựng, củng cố trên nền tảng thống nhất chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, lợi ích tối cao của dân tộc với quyền
lợi của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người.
Cách biểu đạt của Hồ Chí Minh có thể khác nhau, nhưng tư tưởng của Người
về nhận thức, giải quyết mối quan hệ nhân dân - giai cấp - nhân loại là nhất quán,
đúng đắn. Lợi ích tối của dân tộc là độc lập - chủ quyền - thống nhất - tồn vẹn
lãnh thổ. Đó vừa là truyền thống dân tộc, là chân lý, là ngọn cờ đồn kết và ngun
tắc đại đồn kết Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ lý tưởng: độc lập - tự do - chủ nghĩa xã
hội và phương châm: dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết; tất cả do con người, vì con
người, là mẫu số chung, là điểm quy tụ khối đồn kết. Hồ Chí Minh thường nhắc
nhở: "Bất kỳ ai mà tán thành hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dùg những
người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với
họ". "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải

6


đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ

quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ"
Tin dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân là nguyên tắc cơ
bản trong tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh, dân là nhân vật trung tâm: dân là
gốc dễ, là nền tảng của đại đoàn kết; dân là chủ thể của đại đoàn kết; dân là nguồn
gốc sức mạnh vơ tận và vơ địch của đại đồn kết, quyết định thắng lợi của cách
mạng; dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản, của hệ thống chính trị cách
mạng.
Đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đồn kết rộng rãi,
lâu dài, chặt chẽ là nguyên tắc trong tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh. Ngun
tắc này được hình thành trên cơ sở nhận thức khoa học: đại đoàn kết không phải là
một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời mà phải là một tập hợp lâu dài, bền vững
của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức, có lãnh đạo.
Đại đồn kết Hồ Chí Minh không phải là một tập hợp tuỳ tiện, lỏng lẻo mà là
một khối đồn kết rộng rãi chặt chẽ. Tính chất rộng rãi của khối đoàn kết thể hiện ở
việc mở rộng biên độ tập hợp mọi tầng tầng lớp xã hội mọi ngành, giới, lứa tuổi,
tôn giáo, dân tộc, cá nhân trong một tổ chức thống nhất. Tính chặt chẽ, bền vững
lâu dài của đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh biểu hiện qua việc Người địi
hỏi phải củng cố, tăng cường khối liên minh công nhân, nơng dân, trí thức làm nền
tảng cho khối đại đồn kết - Đây là mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai
cấp trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Người thường căn dặn: "Chúng ta
phải đồn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân…, phải đoàn kết tốt các đảng phái,
các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện hợp tác lâu
dài, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ…, phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau
xây dựng Tổ quốc…, phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng báo các
tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc".
Trong khối đại đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là một
thành viên đồng thời lại là lực lượng lãnh đạo. Hồ Chí Minh địi hỏi, Đảng phải
tuyên truyền, giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải tập hợp, đoàn kết
và Đảng phải chỉ đạo cho quần chúng những hình thức, phương pháp tổ chức thích

hợp nhất, tốt nhất, phát huy hiệu quả nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết trong
cuộc đấu tranh cho những quyền lợi thiêng liêng của Tổ quốc và những quyền lợi
chính đáng của nhân dân lao động. Đồng thời trong cuộc đấu tranh đó, Đảng phải
ln ln là người đi đầu. Hồ Chí Minh căn dặn: "Để làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông
làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân. Có như thế mới phát
7


triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối
cùng"; "Mỗi chi bộ của Đảng phải là hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn
khoa họcết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực
lượng vĩ đại của quần chúng".
Tuyên truyền, giáo dục vận động quần chúng một cách khoa học, nghệ thuật
cách mạng. Do vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là việc tìm tịi, lựa chọn
các nội dung tun truyền, giáo dục, vận động phải phù hợp với nguyện vọng,
quyền lợi của quần chúng.
Đồng thời với việc xác định những nội dung tuyên truyền, giáo dục hết sức
độc đáo và sáng tạo, phù hợp với tâm lý, nguyện vọng chung nhất của cả dân tộc,
Hồ Chí Minh cịn rất nhạy cảm, sáng suốt trong việc chỉ ra những nội dung tuyên
truyền, vận động sát hợp với từng giai cấp, từng cộng đồng xã hội. Hồ Chí Minh
thấu hiểu tất cả, cảm thông tất cả, phấn đấu và hy sinh vì tất cả những khát vọng,
ước mơ sâu lắng của dân tộc và của mỗi con người. Do vậy tư tưởng đại đồn kết
của Người có sức mạnh vơ địch, sức sống bất diệt.
Xây dựng hệ thống chính trị cách mạng hoàn chỉnh là vấn đề quan trọng bậc
nhất trong phương pháp đại đồn kết Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản là người khởi xướng, vun đắp, lãnh đạo khối đại đồn kết.
Để hồn thành sứ mệnh đó, Đảng Cộng sản phải được xây dựng trong sạch, vững
mạnh. Đảng Cộng sản phải là một đảng trí tuệ, cách mạng và thống nhất - Chỉ có
một đảng như vậy mới đủ sức tập hợp, xây dựng, lãnh dạo khối đại đoàn kết. Trong

Di chúc, Hồ Chí Minh đã viết: "Nhờ đồn kết nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên
từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta
hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
người của mắt mình".
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. đã
trở thành sợi chỉ đổ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư
tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu
nước và biến thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo
thành sức mạnh vơ địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

8


II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI
1. Đường lối đổi mới và những chính sách mới trong chiến lược xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng
Trong khoảng 10 năm đầu 1975 - 1985 dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
đã giành được một số thắng lợi quan trọng, đồng thời cũng vấp phải khơng ít sai
lầm. Chúng ta lại phải đánh bại cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới
Phía Bắc của Tổ quốc, giúp đỡ nhân dân Campuchia thốt khỏi bọn diệt chủng Pơn
Pốt, xây dựng và giữ vững chính quyền cách mạng, Chủ nghĩa đế quốc và những
nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chính sách bao vây cấm vận đối với nước ta làm
cho nền kinh tế nước ta càng gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, Liên Xơ và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào khủng hoảng, viện trợ kinh tế của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em đối với nước ta hầu như khơng cịn nữa. Chúng ta lại

mang tư tưởng nóng vội muốn đẩy nhanh quá trình khơi phục, phát triển đất nước
để mau chóng bù đắp những hy sinh tổn thất trước đây. Cùng với tâm lý chủ quan
cho rằng chúng ta đủ sức làm được tất cả. Vì vậy, chúng ta khơng lường hết những
khó khăn và phức tạp sau thời chiến.
Tất cả những nguyên nhân nói trên đã đẩy chúng ta vào các kế hoạch cải tạo
xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế với quy mô lớn được triển khai ồ ạt trên phạm
vi cả nước, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khơng được tính tốn đầy đủ và kết
hợp hợp lý. Những việc làm ấy, trên thực tế, đã vi phạm những nguyên tắc của
chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, dẫn đến đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội; khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh cơng nơng có nguy
cơ rạn nứt; quần chúng giảm sút lòng tin đối với Đảng và Nhà nước.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã tiến hành nhiều bước tìm tịi thử nghiệm. Sự
tìm tịi của Đảng bắt gặp sự sáng tạo của dân đã hình thành đường lối đổi mới tồn
diện mà Đại hội VI (12 - 1986) của Đảng là một bước ngoặt quan trọng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đường lối đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận rất quan trọng trong toàn bộ
đường lối đổi mới của Đảng. Đại đoàn kết toàn dân vốn là bài học lớn trong lịch sử
dân tộc cũng như trong lịch sử cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh. Cái mới ở đây là việc
xác định lại vị trí của nhân dân trong tồn bộ sự nghiệp của cách mạng, từ đó mà
xác định rõ hơn vị trí của đại đồn kết dân tộc trong thời kỳ mới; xác định các yếu
tố cơ bản để thực hiện đại đoàn kết, chỉ rõ trách nhiệm và các hình thức, biện pháp
để xây dựng đại đồn kết tồn dân.

9


Một trong những quyết định có ý nghĩa quan trọng của Đại hội VI là việc rút
ra 4 bài học kinh nghiệm, trong đó có hai bài học lớn của cách mạng Việt Nam là “
lấy dân làm gốc” (lực lượng nhân dân là nền tảng xã hội; sức mạnh nhân dân là

động lực phát triển đất nước; quyền lợi nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng).
Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện nay, yếu tố dân tộc trở thành một đặc điểm
cực kỳ quan trọng. Từ đó, Đảng ta xác định: Đại đồn kết tồn dân là nguồn sức
mạnh và động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Từ sự
tổng kết các bài học lịch sử, Đại hội đã xác định phương hướng cơ bản của chính
sách xã hội của Đảng ta trong những năm tới trong đó thể hiện đậm nét tư tưởng
đồn kết. Khơng những thế tư tưởng ấy cịn được phản ánh trong các chính sách,
biện pháp kinh tế - xã hội.
Về kinh tế, Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong
đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; coi trọng lợi ích của người lao động
nhằm liên kết và phát huy sức mạnh của tất cả các giai tầng xã hội trong suốt thời
kỳ quá độ.
Về chính trị, Đại hội nhấn mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Về chính sách xã hội, Đại hội quan tâm đến “chính sách giai cấp (bao gồm
chính sách đối với mỗi giai cấp và chính sách xử lý mối quan hệ giữa các lợi ích
của giai cấp) và chính sách dân tộc”, coi đó “là bộ phận trọng yếu của xã hội”.
Có thể nói Đại hội VI đã hồn thành sứ mệnh lịch sử: đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, tìm ra lối thốt khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt ra nền
tảng cho việc hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh
Việt Nam, mở đường cho việc thực hiện chiến lược đại đồn kết phù hợp.
Cơng cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, những quan điểm chủ trương về
đại đoàn kết dân tộc càng được phát triển. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng (6
- 1996) đã đánh giá những thành tựu và hạn chế qua 10 năm đổi mới (1986 - 1996).
“ Nhìn tổng quát, công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa rất quan trọng.Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu
thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm
trong nước(GDP) bình quân hàng năm 1991-1995 đạt 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi từ
744,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991 và 12,7% năm 1995. Đầu tư toàn xã
hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8% năm 1995
là 27,4%. Lương thực khơng những đủ ăn mà cịn xuất khẩu được mỗi năm khoảng

2 triệu tấn gạo. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở cơng nghiệp trọng
yếu được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối mới cho bước phát
triển tiếp theo.

10


Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình độ và u
cầu của sức sản xuất, giải phóng và phát huy tiềm năng to lớn trong nước, tạo thuận
lợi khai thác nguồn lực bên ngoài. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa được xây dựng một cách đồng bộ hơn và có hiệu quả hơn.
Số việc làm tạo thêm hàng năm gần đây đã xấp xỉ số người mới bổ sung vào
lực lượng lao động. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân khá hơn trước. Các phong
trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo được tồn dân hưởng ứng. Dân chủ
được phát huy. Lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ đất nước, với Đảng
và Nhà nước được khẳng định.
Ổn định chính trị- xã hội được giữ vững. Quốc phòng, an ninh được củng cố.
Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ; phá được thế bị bao vây, cô lập; mở rộng
hợp tác và tham gia tích cực đời sống cộng đồng quốc tế.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
tăng cường đại đoàn kết tồn dân có nhiều chuyển biến tích cực.
Trong khi đánh giá đúng thành tựu, chúng ta cần thấy rõ những tồn tại và yếu
kém: nước ta còn nghèo và kém phát triển; chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm
trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dành vốn cho đầu tư, phát triển. Tình hình
xã hội cịn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Việc lãnh đạo xây dựng
quan hệ sản xuát mới có phần vừa lúng túng, vừa buông lỏng. Quản lý nhà nước về
kinh tế, xã hội cịn nhiều thiếu sót. Hệ thống chính trị cịn nhiều nhược điểm.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực cửa nước ta có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước

ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15
năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để
chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Có được những thành cơng ấy là nhờ “Đảng và nhân dân ta đã thể hiện trí
tuệ và bản lĩnh cách mạng của mình, phát huy truyền thống đoàn kết, đấu tranh
kiên cường, lao động sáng tạo, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, đưa sự nghiệp
đổi mới tiếp tục tiến lên”. Đại hội đã tiếp tục khẳng định những quan điểm trên,
đồng thời đề ra 6 bài học kinh nghiệm cần tiếp tục quán triệt, trong đó có bài học
“Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước, ý
chí tự lực tự cường, động viên sức mạnh của cả dân tộc, nỗ lực phấn đấu vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đại hội nêu bật những
chính sách lớn của Đảng trong sự nghiệp đổi mới và q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố trong đó có chính sách: “Thực hiện đồn kết tồn dân, phát huy vai trị
làm chủ của nhân dân”, thực hiện đoàn kết toàn dân tộc cùng nhau xoá bỏ định
11


kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy
lẫn nhau...”. Đến đây, vấn đề đại đoàn kết đã được đặt ra ở một tầm cao mới, nhằm
phát huy sức mạnh của toàn dân trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. Đại hội chủ trương: “Mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Đoàn kết
các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi
người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở nước
ngoài, phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống u nước và lịng
tự hào dân tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, đồng
thời chấp nhận những điểm yếu kém, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh
thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau”.
Ngày 26 - 6 - 1999, lần đầu tiên luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được

ban hành, trong đó khẳng định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ
thống chính trị nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí,
nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, nơi hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp
phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đây là một bước phát triển mới của mặt
trận dân tộc thống nhất, của khối đại đoàn kết toàn dân để chuẩn bị đưa đất nước
tiến vào thế kỷ XXI.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, được xác định “là đường lối chiến lược, là
nguồn sức mạnh và là động lực chủ yếu để phát triển đại đoàn kết toàn dân” - quan
điểm cơ bản quán triệt trong toàn bộ các văn kiện của Đại hội IX. Đại hội chủ
trương đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, xem “Xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội”
Đại hội khẳng định: “Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp,
thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong
Đảng và người ngồi Đảng, người đang cơng tác và người nghỉ hưu, mọi thành
viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài.
Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác nhau
khơng trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối
xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau,

12


hướng tới tương lai”. Điểm mới của đại hội IX là đã đưa vấn đề dân chủ làm mục
tiêu phấn đấu của tồn đảng, tồn dân ta.
Cụ thể hố nội dung cơ bản của Đại hội IX về chiến lược đại đoàn kết dân

tộc trong thời kỳ mới, từ ngày 13 đến ngày 21 - 1 - 2003, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã tiến hành Hội nghị lần thứ 7. Đây là Hội nghị chuyên đề đầu tiên của
Đảng ta với vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Hội nghị thông qua 4 Nghị
quyết quan trọng: Về phát huy sức mạnh đồn kết tồn dân vì “dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; về công tác dân tộc; công tác tôn
giáo; về tiếp tục đổi mới, chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Nhằm tăng cường khối đại đồn kết dân tộc, vấn đề quan trọng là Hội nghị
đã xây dựng những chính sách đúng đắn, đảm bảo lợi ích của các giai tầng. Trong
điều kiện kinh tế thị trường, lợi ích cơ bản của các giai cấp và các tầng lớp nhân
dân trong xã hội có điểm chung, thống nhất, nhưng cũng có những điểm khác biệt.
Vì vậy, việc tăng cường sự đồn kết nhất trí trước hết phải xuất phát từ việc xây
dựng cơ chế chính sách đúng đắn, bảo đảm lợi ích chính đáng của các giai cấp và
tầng lớp trong xã hội.
2. Thực trạng của khối đại đồn kết dân tộc
Đối với giai cấp cơng nhân:
Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng chú trọng
đến chính sách đối với giai cấp xã hội khác nhau nói chung và lợi ích của giai cấp
cơng nhân nói riêng để giai cấp cơng nhân hồn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.
Đại hội VIII (6 - 1996) của Đảng khẳng định: Phải “tạo thêm việc làm, cải
thiện điều kiện lao động, thực hiện an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp, hạn
chế đến mức thấp nhất tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Tổ chức tốt việc đào
tạo lại nghề nghiệp. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hồn chỉnh chính sách tiền cơng
lao động và các chính sách bảo đảm về mặt xã hội. Tạo điều kiện cho cơng nhân có
cổ phần trong các doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc phát triển Đảng trong công nhân;
quan tâm bồi dưỡng, đào tạo cán bộ xuất thân từ công nhân”.
Đại hội IX của Đảng xác định: Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát
triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hố cơng nhân”, nâng cao năng lực ứng
dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả

ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. Bảo vệ
quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân trong
điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý
13


và kết nạp Đảng viên từ những công nhân ưu tú; tăng thành phần công nhân trong
đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành”. Tiếp theo, Hội nghị lần thứ 7 (khố
IX) đã bổ sung những chính sách như: “Giải quyết việc làm, giảm tối đa tỷ lệ công
nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt pháp luật lao động, bảo hộ lao
động, và việc chăm sóc, phục hồi sức khoẻ cho cơng nhân. Sớm tổ chức thực hiện
quỹ trợ cấp thất nghiệp. Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính
sách, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với công nhân... Chính sách ưu đãi nhà ở
đối với cơng nhân bậc cao”.
Chủ trương chính sách đúng đắn phù hợp của Đảng và Nhà nước đã động
viên được giai cấp công nhân tham gia phát triển sản xuất, đi đầu trong công cuộc
đổi mới, xứng đáng là hạt nhân của khối đại đồn kết dân tộc, giai cấp cơng nhân
ngày càng có trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Đội ngũ cơng
nhân trẻ cịn vượt mọi khó khăn để học tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức, nắm
vững công nghệ mới, thi đua làm giàu cho đất nước, cải thiện đời sống của mình.
Cụ thể, giai cấp cơng nhân có những biến đổi cả về số lượng ,chất lượng cũng như
về cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các
cơ sở sản xuất kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực tiếp
làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39
triệu người, chiếm 17,49% lao động xã hội. Trình độ học vấn và kỹ năng hành nghề
nhìn chung đã được nâng lên thể hiện rõ nhất là ở một số ngành như bưu chính viễn
thơng , dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tàu…Trong giai cấp công nhân đã
xuất hiện công nhân “cổ trắng” bên cạnh những công nhân “ cổ xanh” truyền
thống; công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng.

Tuy nhiên, đời sống và điều kiện lao động của đa số cơng nhân cịn gặp
nhiều khó khăn; tâm trạng phổ biến là muốn có việc làm ổn định, tiền lương và thu
nhập đủ sống và ngày càng được nâng cao; muốn được đào tạo, nâng cao tay nghề,
có định chế đảm bảo quyền lợi cho công nhân. Bộ luật lao động cần được thực hiện
tốt. Trong cơng nhân vẫn cịn chênh lệnh về thu nhập và phân hoá giàu nghèo. Vì
thế, Đảng và Nhà nước cần quan tâm, giáo dục bồi dưỡng và có đường lối chính
sách phù hợp nhằm phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, ý thức tự lực tự cường
cho công nhân. Chăm lo nâng cao tay nghề cho công nhân đáp ứng các yêu cầu các
ngành nghề mũi nhọn và cơng nghệ mới. Hồn chỉnh các chính sách nhằm giải
quyết những vấn đề bức xúc về đời sống của công nhân.
Đối với giai cấp nông dân:
Đại hội VIII của Đảng (6 - 1996) khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách giao
đất, giao rừng; ngăn chặn và khắc phục tình trạng nơng dân khơng có ruộng đất sản
xuất; giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, các dịch vụ cung ứng vật tư; tiêu thụ sản phẩm, phát
14


triển công nghiệp chế biến và các nghề tiểu thủ công... mở rộng cho nông dân
nghèo vay vốn sản xuất, chống nạn cho vay nặng lãi, mua lúa non, buôn bán trái
phép ruộng đất. Giúp đỡ nông dân phát triển các hình thức kinh tế hợp tác. Có
chính sách bảo hộ sản xuất cho nông sản”.
Chỉ thị số 10 - 1998 - CT/TTG về việc đẩy mạnh hoàn thành việc giao đất,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp. Nghị quyết số 06 - NQTW
(11 - 1998) của Bộ Chính trị khố VIII về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng, tích
tụ, và tập trung lao động là hiện tượng sẽ diễn ra trong q trình phát triển nơng
nghiệp nền sản xuất hàng hố lớn. Việc tích tụ và tập trung phải được kiểm sốt,
quản lý chặt chẽ của Nhà nước, khơng để q trình này diễn ra tự phát làm cho
người nơng dân mất ruộng đất mà khơng tìm được việc làm, bị bần cùng hố. Tăng
thời gian giao đất nơng nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân để nơng dân n tâm đầu

tư phát triển sản xuất. Có thể nói rằng, Nghị quyết đã tạo ra sự an tâm, phấn khởi
cho nông dân trong sản xuất, là nguồn cổ vũ để nơng dân tích cực đóng góp cho sự
nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thơn và phát
huy vai trị của giai cấp nơng dân trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự chỉ đạo và
các nguồn lực cần thiết cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, phát triển
nơng thơn. Thực hiện tốt các chính sách về ruộng đất, phát triển nơng nghiệp tồn
diện, tiêu thụ nơng sản hàng hố, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội. Phát huy
lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn; phân bố dân cư theo quy hoạch, phát
triển ngành nghề, giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng
cao dân trí, xây dựng nơng thơn mới”.
Những chủ trương chính sách trên đã thực sự là cơ sở pháp lý bảo hộ quyền
lợi thêm cho nông dân, động viên người dân hăng hái sản xuất góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. Năm 2000, sản lượng lương thực qui ra thóc
đạt 35,64 triệu tấn ( vượt mục tiêu đề ra 11-18%) tăng 6,4 triệu tấn so với năm
1996 , bình quân mỗi năm tăng 1,28 triệu tấn (4,2%). Tốc độ tăng sản lượng lương
thực cao hơn tốc độ tăng dân số(1,8%) nên số lượng lương thực bình quân đầu
người tăng dần qua các năm. 1996: 357 kg đến 1997 tăng lên 398 kg, 1999 :444kg
đến năm 2000 là 455kg. Thời kỳ 1996-2006: cây trồng đã được đa dạng hóa, xóa
dần thế độc canh cây lúa. “đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất
cá thể, những xã viên kiểu mới của những hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích
ứng với cơ chế kinh tế thị truờng, tham gia tích cực vào cơng cuộc phát triển đất
nước theo đường lối đổi mới”. Một số cây trồng có sản phẩm xuất khẩu như cà phê,
cao su, hồ tiêu…tăng nhanh về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2000, Việt
15


Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới (sau brazin). Bên cạnh những
thắng lợi đã đạt được, vận động nông dân trong xây dựng khối đại đồn kết dân tộc,
phát triển nơng nghiệp vẫn cịn những trở ngại: sức cạnh tranh của nông sản kém,

cạnh tranh trên thị trường nơng sản ngày càng gay gắt, trình độ khoa học và công
nghệ thấp. Thu nhập của nông dân tăng chậm, tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm
ở nông thôn cao, môi trường bị phá hoại, thiên tai diễn biến phức tạp. Mặt khác,
nền kinh tế thị trường tác động đến mọi mặt của đời sống nhân dân theo hướng vừa
tích cực vừa tiêu cực.
Đối với trí thức:
Đại hội VIII của Đảng (6 - 1996) nhấn mạnh: Đối với trí thức cần tạo điều
kiện cho họ thu nhận thông tin, tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học và
văn hoá thế giới, nâng cao kiến thức chun mơn, trình độ chính trị, khuyến khích
họ tự do sáng tạo, ứng dụng thuận lợi khoa học và công nghệ; phổ biến các tác
phẩm, chương trình văn hố nghệ thuật có giá trị; bồi dưỡng, phát triển, sử dụng và
đãi ngộ xứng đáng các tài năng.... Các Nghị quyết Trung ương khoá VIII, đặc biệt
là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 về phát triển giáo dục đào tạo và về khoa học cơng nghệ đã có tác dụng lớn trong việc phát triển và huy động tiềm năng sáng tạo
của trí thức. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 khẳng định: Xây dựng đội ngũ tri thức
giàu lòng u nước, u chủ nghĩa xã hội, có chí khí quật cường, quyết tâm đưa đất
nước lên những đỉnh cao mới.
Đảng cũng nhấn mạnh cần khuyến khích và tạo điều kiện để đội ngũ trí thức
là người Việt Nam ở nước ngồi trở thành cầu nối để chuyển giao cơng nghệ,
những tri thức và công nghệ tiên tiến về nước. Có chính sách thoả đáng để trí thức
Việt Nam ở nước ngoài về làm việc trong nước, tham gia các cơng trình và dự án ở
Việt Nam. Một trong những biện pháp để tập hợp, thu hút trí thức là Đảng và Nhà
nước ta đã cho phép thành lập các hội trí thức theo từng chun ngành nhỏ. Thơng
qua các hội chuyên môn này, Đảng đã tạo lập được các mối quan hệ, nắm được tâm
tư, nguyện vọng của từng nhóm trí thức để từ đó hoạch định các chính sách đối với
trí thức tốt hơn.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX (4 - 2001) chủ trương tiếp tục thực
hiện nghị quyết trên của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
Với những chủ trương đúng đắn, chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước,
phần lớn trí thức có tâm huyết đều mong muốn đem tài năng, trí tuệ cống hiến cho
sự nghiệp đổi mới. Nhiều trí thức với tinh thần trách nhiệm cao đã mạnh dạn đi sâu

nghiên cứu các đề tài thực tế, giải đáp các bài toán kinh tế - xã hội, tham gia các
chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, khai thác giá trị nhân văn của dân tộc. “Hiện nay, đội ngũ trí thức nước ta
16


có 1,8 triệu người với trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 16000 thạc
sĩ, 14000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Đây là một lực lượng có vai trị quan trọng đối
với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tuy nhiên cơng tác lãnh
đạo của Đảng với trí thức cịn bất cập. Một số nơi, cấp uỷ Đảng, chính quyền cịn
chưa quan tâm đúng mức đến vai trò của khoa học và công nghệ, đến lực lượng
chuyên môn khoa học, đầu tư cho phát triển khoa học vẫn còn thấp so với u cầu.
Tình trạng phân bố và sử dụng trí thức chưa hợp lý.
Đối với thanh niên:
Ngày 13 - 2 - 1998, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 36 - 1998 QĐ/TTG về việc thành lập Uỷ ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam.
Đại hội VIII (6 - 1996) của Đảng khẳng định: “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở mọi cấp, mọi ngành. Quan
tâm đào tạo nghề và giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu học tập, hoạt động văn
hoá, nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh thiếu niên. Tạo điều kiện
cho đoàn thanh niên thực hiện tốt đối với đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
Tạo mơi trường lành mạnh, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm độc hại.
Chăm lo giáo dục, đào luyện thế hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước các tổ
chức trong hệ thống chính trị, của gia đình, nhà trường, và của toàn xã hội. Nghiên
cứu ban hành luật thanh niên.”.
Đại hội IX của Đảng khẳng định, đối với thế hệ trẻ cần phải “chăm lo giáo
dục, bồi dưỡng, đào tạo, phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và
sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”
Những chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước đã đi vào cuộc sống,

tạo điều kiện và thúc đẩy thế hệ trẻ, nhiều địa phương đã chủ động giành những
chương trình kinh tế - xã hội đào tạo nghề và việc làm, giúp cho thanh niên tạo vốn,
giao dự án kinh tế gia đình, trang trại cho thanh niên, giao khối lượng cơng trình
giao thơng, thuỷ lợi... phát huy lực lượng thế mạnh của tuổi trẻ, tham gia sản xuất,
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp phần làm chuyển biến tình hình kinh
tế - xã hội, an ninh quốc phịng ở địa phương. Trong những năm qua, số lượng
đoàn viên mới, đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng tăng đáng kể. Theo số liệu
tổng hợp của văn phòng trung ương Đoàn năm 1991 chỉ kết nạp 170000 đoàn viên,
thì năm 1999 đã kết nạp được 848629 đồn viên tăng 13,4% so với năm 1998, gấp
năm lần so với năm 1991. Năm 2000 là “ năm thanh niên”, trong 6 tháng đầu năm,
đã kết nạp được 559944 đoàn viên ( tăng 18% so với 6 tháng đầu năm 1999).

17


Tuy nhiên, cơng tác thanh niên cũng cịn nhiều khó khăn hạn chế. Bên cạnh
những mặt tích cực, chủ động, vẫn còn một bộ phận thanh niên cơ hội, sống tiêu
cực, lười lao động, lãng phí thời gian, sức lực của tuổi trẻ, sống thiếu hoài bão,
sống thực dụng ăn chơi. Đồng thời vấn đề phạm pháp, các tệ nạn xã hội của thanh
niên như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, rượu chè vẫn đang là vấn đề nổi cộm trong xã
hội.
Nguyên nhân của những tồn tại , yếu kém trên là do những tác động của mặt
trái cơ chế thị trường; công tác vận động thanh niên chưa đổi mới kịp so với những
chuyển biến trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước; nhận thức về vai trị của
thanh niên và nội dung cơng tác vận động thanh niên chưa sâu sắc, thiếu nhất quán
từ trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước.
Đối với phụ nữ:
Đại hội lần thứ VIII (6 - 1996 ) và lần thứ IX của Đảng tiếp tục nhất quán
chủ trương đối với phụ nữ: Tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị
và trong tồn xã hội về cơng tác phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới, khẩn trương thể

chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ và công tác cán bộ
trong tình hình mới; lồng ghép vấn đề giới trong quá trình xây dựng và thực hiện
các chương trình, kế hoạch chung, coi trọng các chính sách xã hội, các chính sách
về giới để giảm nhẹ lao động nặng nhọc cho phụ nữ. Nâng cao trình độ học vấn và
kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ. Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Tạo điều
kiện để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan
lãnh đạo và quản lý các cấp.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể: Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lĩnh vực
chính trị khá so với các quốc gia trong khu vực. Điều kiện chăm sóc y tế đối với
cộng đồng nói chung và phụ nữ nói riêng cũng có những bước cải thiện đáng kể.
Các phong trào “xây dựng mẫu hình người Việt Nam” trong thời kỳ đổi mới, xây
dựng gia đình Việt Nam và phịng chống các tệ nạn xã hội thu hút đông đảo phụ nữ
tham gia. Chương trình hỗ trợ vốn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ cũng rất
phát triển. Với những thành tựu đó, Đảng và Nhà nước ta đã và đang khơi dậy
truyền thống “Anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang” của phụ nữ Việt Nam
trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Tuy nhiên trong giới nữ còn nhiều vấn đề bức bách. Nhiều phụ nữ phải lao
động nặng nhọc, độc hại, mơi trường ơ nhiễm. Phụ nữ cịn nhiều thiệt thịi về cơ
hội tìm việc làm, chăm sóc sức khoẻ, hưởng thụ văn hố, phụ nữ thất học cịn
nhiều. Vì thế, để có thể phát huy hơn nữa vai trị, vị trí của phụ nữ trong việc xây

18


dựng khối Đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta cần
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là tiếp tục bổ sung và hồn thiện hệ thống chính sách đối với phụ nữ,
phát huy tính năng động , sáng tạo của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, mọi cấp, mọi
ngành.

Hai là, tăng cường công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về giới đến với
toàn xã hội để nâng cao nhận thức về sự bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội
Vấn đề dân tộc:
Đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Chính phủ tiếp tục ra
các Nghị quyết, Nghị định, chính sách đối với đồng bào dân tộc như chương trình
135 - 1998 - QĐ/TTG của Thủ tướng Chính phủ về chương trình phát triển kinh tế
- xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa và Nghị quyết số 10
- NQ - TW (18 - 1 - 2002) của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 - 2010.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn.
Thực hiện “bình đẳng, đồn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong thời kỳ đổi mới,
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước... Bằng nhiều biện pháp tích cực và vững
chắc thực hiện cho được ba mục tiêu chủ yếu: xố được đói, giảm được nghèo, ổn
định và cải thiện được đời sống, sức khoẻ của đồng bào dân tộc, đồng bào vùng
cao, vùng biên giới, xố được mù chữ, nâng cao dân trí, tơn trọng và phát huy bản
sắc văn hố tốt đẹp của các dân tộc”.
Đại hội IX chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc và đồn kết các dân tộc ln ln có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình
đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp đỡ cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xố
đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hố
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, giữa miền núi và miền xi, quan tâm đến
vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến.
Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc
thiểu số, đảng viên phát huy vai trò của những người tiêu biểu. Chống kỳ thị chia rẽ
dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan”.
Trải qua 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, những thành tựu đã đạt được
thực sự góp phần to lớn trong việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc,
đặc biệt một số chủ trương , chính sách của Đảng, Nhà nước đối với dân tộc thiểu
số đã đi vào đời sống và đã tạo nên bước chuyển mới. “ Quyền bình đẳng giữa các

dân tộc cơ bản đã được Hiến pháp xác định và được thể hiện trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố.Nền kinh tế nhiều
19


thành phần ở miền núi và các vùng dân tộc từng bước hình thành và phát triển, cơ
cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Việc triển khai thực
hiện nhiều chính sách ,chương trình, dự án đầu tư đã làm cho kết cấu hạ tầng kinh
tế- xã hội và đời sống nhân dân ở nhiều vùng đồng bào dân tộc được cải thiện rõ
rệt. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt đựơc những kết quả to lớn.Mặt bằng dân trí
được nâng lên. Mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ đã được thực
hiện; hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành từ tỉnh, đến
huyện. Văn hóa phát triển phong phú hơn; đời sống văn hóa của đồng bào được
nâng cao một bước; văn hóa truyền thống của các dân tộc được tơn trọng, giữ gìn
và phát huy. Các loại bệnh dịch cơ bản được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi; việc
khám chữa bệnh cho người nghèo vùng sâu, vùng xa được quan tâm hơn.
Hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc và miền núi bước đầu được tăng
cường và củng cố. Tình hình chính trị, trật tự xã hội cơ bản ổn định, an ninh, quốc
phòng được giữ vững.”
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác vận động dân tộc trong thời
gian qua cũng còn có những hạn chế, yếu kém. Với quan điểm dám nhìn thẳng vào
sự thật, Hội nghị Trung ương 7 khố IX đánh giá: Về kinh tế, nhìn chung kinh tế ở
miền núi và các dân tộc còn chậm phát triển, nhiều nơi còn lúng túng trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, canh tác còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, tiêu
thụ rất khó khăn. Tình trạng du canh du cư cịn diễn biến phức tạp. Tỷ lệ đói nghèo
ở vùng dân tộc miền núi hiện còn cao so với bình quân cả nước. Chất lượng, hiệu
quả giáo dục đào tạo còn thấp, việc đào tạo nghề chưa được quan tâm, cơng tác
chăm sóc sức khoẻ cịn gặp nhiều khó khăn.Một số tập qn lạc hậu, mê tín dị đoan
có xu hướng tăng. Một số bản sắc tốt đẹp trong văn hoá của các dân tộc tiểu số
đang bị mai một. Mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào cịn thấp. Tổ chức hệ thống

chính trị cơ sở ở nhiều vùng dân tộc và miền núi còn yếu, một số nơi đồng bào bị
thế lực thù địch và kẻ xấu lợi dụng, kích động lơi kéo vào các hoạt động gây chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc dân tộc.
Đối với tôn giáo:
Tiếp tục mở rộng và củng cố khối đại đồn kết dân tộc trong tình hình mới,
nhằm huy động sức mạnh của cả dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Thi hành nhất quán chính sách tơn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân. Các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật” và “đảm bảo cho sinh hoạt tơn giáo bình
thường theo đúng pháp luật Nhà nước. Nghiêm cấm việc xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để làm trái pháp luật và chính
20


sách của Nhà nước. Nhà nước chăm lo phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, giúp đỡ
đồng bào có đạo xố đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống, tham gia các công việc
xã hội, từ thiện”.
Ngày 2 - 7 - 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 37 - CT - TW, nêu rõ các
chính sách: Tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo của cơng dân.
Mọi cơng dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật. Không phân
biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như giữa các tơn giáo khác nhau; đồn
kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn
kết toàn dân. Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tơn giáo phải tn thủ
Hiến pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; những hoạt động tơn giáo
ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín
đồ được đảm bảo, những giá trị văn hố, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn
trọng và khuyến khích phát huy, mọi hành vi lợi dụng hoạt động tơn giáo để làm
mất trật tự an tồn xã hội, làm hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn

kết toàn dân, chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa, làm băng hoại các giá trị
đạo đức, lối sống, văn hố của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực
hiện nghĩa vụ đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín phải được phê phán và
loại bỏ. Đại hội IX của Đảng tiếp khẳng định đường lối của Đại hội VIII về tơn
giáo.
Thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cơng cuộc
vận động đồng bào có đạo “đồn kết xây dựng đời sống văn hố mới” được các cấp
quán triệt. Các tôn giáo được bảo đảm sinh hoạt bình thường. Nhà thờ, chùa chiền,
miếu mạo đã được tu sửa, xây dựng mới ở nhiều nơi. Việc in ấn và phát hành kinh
sách được thuận lợi. Bên cạnh đó tình hình tơn giáo cịn có những diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Đối với người Việt Nam ở nước ngoài:
Đối với nước ta, để đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau,
trong đó, quan trọng nhất và quyết định nhất là nguồn lực con người. Là sức mạnh
nội sinh vô cùng to lớn của đại gia đình dân tộc Việt Nam, trong đó có cộng đồng
Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đại hội VIII nhấn mạnh: Họ là “một bộ phận không tách rời của cộng đồng
dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo hộ quyền lợi chính đáng,
giúp đỡ nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đại đoàn kết tương trợ, giữ gìn bản
sắc và truyền thống văn hố dân tộc tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào về thăm
q hương, giúp đỡ gia đình, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự nghiệp xây
21


dựng đất nước thông qua việc hợp tác giữa các ngành, các địa phương trong nước
trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học và cơng nghệ văn hố nghệ thuật”.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đồng bào định cư ở nước ngồi là
bộ phận khơng tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đảng
và Nhà nước chăm lo cung cấp thông tin về tình hình đất nước, bảo hộ quyền lợi

chính đáng của đồng bào, nâng cao lòng yêu nước và trách nhiệm công dân, ý thức
cộng đồng, tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tơn trọng pháp luật nước sở tại và góp phần
tăng cường đoàn kết hữu nghị với nhân dân các nước. Có những chính sách tạo
điều kiện thuận lợi để kiều bào về thăm quê hương, mở mang các hoạt động văn
hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, sản xuất kinh doanh góp phần
thiết thực xây dựng đất nước”.
Việc thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
người Việt Nam ở nước ngoài chuyển biến tốt đẹp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới. Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, bổ sung và thể chế hoá một số chủ trương
nhằm đáp ứng một số những nguyện vọng chính đáng cho kiều bào tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi cho kiều bào có nguyện vọng hồi hương tham gia xây dựng
đất nước, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh và hoạt động nhân đạo từ thiện. Đồng
thời Đảng và Nhà nước cũng đẩy mạnh công tác tuyên truyền quan điểm, đường lối
chính sách đối với kiều bào, cảnh giác âm mưu dùng một số người Việt Nam ở
nước ngoài để thực hiện chiến lược diễn biến hồ bình của các thế lực thù địch.
Những năm gần đây, số bà con ta ở nước ngoài về nước thăm người thân, du lịch,
về đầu tư, đóng góp lên đến gần 400000 lượt người mỗi năm. Lượng kiều hối gửi
về nước năm 2003 đạt gần 2,7 tỉ USD và đạt trên 3 tỉ USD trong năm 2004. Hàng
trăm lượt kiều bào đã về nước đóng góp tri thức, chuyển giao cơng nghệ.
Bộ máy công tác của ủy ban ngày càng đựơc củng cố. Năm 2003, quĩ hỗ trợ
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được thành lập và đi vào hoạt động, đã và
đang có những đóng góp hiệu quả cho cơng tác vận động người Việt Nam ở nước
ngồi.
Do những thành tích, đóng góp của nhiều thế hệ cán bộ trong 47 năm qua, kể
từ ngày thành lập, ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài đã vinh dự được Đảng
và Nhà nước trao tặng huân chương Độc lập hạng nhất (1999) và huân chương lao
động hạng nhất (2004).
Tuy nhiên, đồng bào định cư ở nước ngồi thiếu thơng tin về quê hương và
được nghe những thông tin xuyên tạc. Việc thực hiện chính sách đối với kiều bào

thời gian qua còn nhiều bức xúc, đầu tư của kiều bào còn nhỏ bé, đặc biệt chưa
khai thác được nguồn chất xám của kiều bào.
22


III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC HIỆN NAY
2.1 Đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” của tư tưởng Mác - Lênin với tư tưởng truyền thống “nước lấy dân
làm gốc”. Tư tưởng đại đoàn kết nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân chủ, hồ bình và chủ nghĩa xã hội là nội dung
nổi bật của Đảng ta. Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã
chỉ rõ phải tập hợp lực lượng của tất cả các giai tầng trong xã hội vào Mặt trận dân
tộc thống nhất. Khi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên nguyên tắc và
lập trường của giai cấp cơng nhân, lấy liên minh cơng nơng và trí thức làm nền
tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là vấn đề cơ bản, xuyên suốt, nhất quán
trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta từ Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930)….cho đến Đại hội VI, VII, VIII, IX của Đảng.
Như vậy, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đại
hội IX chỉ rõ: “Đó là đường lối chiến lược, nguồn sức mạnh và động lực to lớn để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội”.
2.2 Trong thời kỳ đổi mới Đảng phải có đường lối đúng đắn để tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc
Đây là bài học quan trọng, khối đại đồn kết dân tộc có giữ vững và phát huy
được sức mạnh hay không là tuỳ thuộc vào yếu tố này. Thực tiễn của 20 năm đổi
mới (1986 - 2006) đạt được những thành công đã chứng minh đúng đắn mà Đảng
ta đề ra.

Trước hết, đó là đường lối phản ánh được sự vận động của quy luật khách
quan, đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích thiết thân của tồn dân. Đường lối đúng
cịn thể hiện được định hướng cho sự phát triển của sự nghiệp xây dựng đất nước;
tạo cho quần chúng nhân dân niềm tin vào tương lai tươi sáng. Từ đó, tạo động lực
để toàn dân sáng tạo và phấn đấu vào sự nghiệp chung. Đường lối đúng thể hiện ở
việc đảm bảo tính cơng bằng xã hội, đảm bảo tính dân chủ và kỷ cương. Đường lối
đúng còn thể hiện ở sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu nhưng không xem nhẹ yếu tố giai cấp.
Như vậy về Đường lối, Đảng đã thành công trong việc từng bước thực hiện
chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới, Đồng chí Đỗ Mười đã khẳng
định: cơng nghiệp hố, hiện đại hố chỉ có thể hồn thành khi cả dân tộc đồng tâm,
nhất trí, triệu người như một mang hết tinh thần, năng lực và tiềm năng cống hiến
23


cho đất nước. Do đó, muốn tập hợp được lực lượng, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, trước hết Đảng phải có đường lối đúng. Bài học đó đã được Đảng thực
hiện một cách đúng đắn qua những bước thăng trầm của lịch sử nhất là trong sự
nghiệp đổi mới.
3 Muốn tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước phải có
chính sách phù hợp đối với các mối quan hệ xã hội và các tầng lớp xã hội.
Đây là một bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Đảng ta định ra đường lối
cách mạng đúng đắn, phù hợp với đặc điểm dân tộc, nguyện vọng bức thiết của
nhân dân.
Trước hết, những chính sách của Đảng và Nhà nước phải nhằm đảm bảo sự
kết hợp hài hồ giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích cá nhân người lao
động trong thời kỳ đổi mới. Chính sách phù hợp là chính sách khơng chỉ đảm bảo
sự kết hợp hài hồ giữa lợi ích dân tộc, lợi ích cá nhân người lao động mà chính
sách đó cịn đảm bảo lợi ích của từng giai tầng cụ thể.
Cùng với những chính sách cụ thể đối với các giai tầng xã hội, Đảng ta còn

đặc biệt chú ý đến chính sách phân phối và chính sách xã hội. Những chính sách đó
là những địn bẩy quan trọng để khơi gợi và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc và Nhà nước ta đã thực hiện được một phần quan trọng của chính sách.
Nhưng còn rất nhiều việc phải làm nhất là về luật pháp. Cần rà sốt lại, sửa đổi
những chính sách khơng phù hợp, bổ sung những gì chưa đủ và ban hành chính
sách mới, luật mới phù hợp. Có chính sách phù hợp, có luật pháp đúng, lại phải bảo
đảm thực hiện nghiêm chỉnh nhất quán mới đạt được hiệu quả mong muốn, tăng
thêm lòng tin với nhân dân và giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc.
4 Phải bảo đảm phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, đẩy mạnh
công tác dân vận để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực tiễn cách mạng phản ánh một vấn đề cơ bản là muốn có đường lối đúng
đắn, chính sách phù hợp khơng thể khơng phát huy trí tuệ tập thể và tranh thủ lắng
nghe những ý kiến đóng góp của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội VI của Đảng đã nêu ra bài học: “Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động”. Đến Đại hội VII, Đảng tiếp tục khẳng định: “Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ”.
Để Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cơ sở để
thực hiện đại đồn kết dân tộc, cần nâng cao trình độ cán bộ về quản lý Nhà nước,
xây dựng quy chế công chức; cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp bộ máy Nhà
nước, cơ cấu cán bộ theo hướng tinh giảm, làm cho Nhà nước thật sự là Nhà nước
kiểu mới của dân, do dân, vì dân.
24


Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng việc bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công tác dân vận, kết hợp với xây dựng một nước
trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với việc tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới. Đây là bài học cần được quán triệt đặc biệt
là trong hoàn cảnh hiện nay.

5 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị gắn liền với
xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ mới
Đây là bài học quan trọng nhất của cách mạng nước ta. Kinh nghiệm chỉ ra
rằng, nếu Đảng mất vai trò lãnh đạo, thì cách mạng chệch hướng, nhân dân bị mất
quyền làm chủ. Vì vậy, để mở rộng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, hơn bao
giờ hết, nhân dân ta cần có một Đảng cách mạng chân chính, trung thành với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, một Đảng trong sạch, vững mạnh, có
đội ngũ cán bộ gương mẫu nhất là trong hệ thống chính trị.
Trong giai đoạn mới, việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng đặc biệt quan tâm
nhằm tăng cường củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đồng thời phải kiên
quyết đưa ra ngồi Đảng những đảng viên khơng đủ tư cách, kết nạp thêm nhiều
đảng viên mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đảng phải được xây dựng ngang tầm
với nhiệm vụ mới làm tròn sứ mệnh là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung
thành của nhân dân. Cần quán triệt Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 (lần hai)
khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII về
nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng. Hơn nữa phải tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận, phát huy trách nhiệm của Nhà nước đối với
mặt trận, khắc phục những quan điểm, tư tưởng sai lầm coi mặt trận là tổ chức
tượng trưng hình thức. Những chủ trương, chính sách lớn, Đảng cần chủ động trình
bày trước hội nghị Mặt trận để mọi thành viên cùng bàn bạc, đóng góp ý kiến trên
tinh thần dân chủ, xây dựng. Cần kiện toàn tổ chức, cải tiến lề lối làm việc, mở
rộng hoạt động của Mặt trận. Giao cho mặt trận và các đoàn thể đảm nhiệm một số
mặt cơng việc có liên quan đến đời sống nhân dân làm cho mặt trận thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình và hoạt động đạt hiệu quả thiết thực, thực hiện tốt
chiến lược đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất của
Đảng.

25



×