NỘI DUNG ÔN THI HỌC PHẦN BẮT BUỘC 3
Đảng lãnh đạo xây dựng khối ĐĐK dân tộc và HTCT
1. Tính đúng đắn, sáng tạo của chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng. Ý nghĩa lịch sử và hiện thực?
Ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam mới thành lập, trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tháng
2 năm 1930 đã khẳng định con đường, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta. Cương lĩnh đâu tiên trở
thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập,
nội dung của cương lĩnh nhìn chung ln được thể hiện nhất quán trong suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước
ta qua từng thời kỳ. Việc tìm hiểu để nêu những luận điểm của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là điều
cần thiết để khẳng định giá trị khoa học và tính đúng đắn của con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Chính cương, sách lược tóm tắt đã trở thành cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định đường lối
cách mạng Việt Nam, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo : vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa
Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ. Đặc biệt chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng:
Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên lực lượng cách
mạng là liên minh cơng – nơng làm nịng cốt, trong đó giai cấp cơng nhân giữ vai trị lãnh đạo nhưng đồng thời
phải lôi kéo, tập họp cả những người yêu nước ở tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nơng và lợi dụng, trung lập
phú nơng, trung và tiểu địa chủ, tư sản dân tộc. Đó là chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực
lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước nhằm tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là CNĐQ
Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa
chủ ra thành những nhóm đối tượng khác nhau để có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lơi kéo những người
có lịng u nước, trung lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết trừng trị đối
với kẻ thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp trong xã
hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và sự đóng góp của họ trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước. Đường lối xây dựng lực lượng cách mạng thể hiện rõ nét quan điểm về
đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh từ niềm tin sâu sắc mọi người Việt Nam đều là con Lạc, cháu Hồng. Ai
cũng chịu cái khổ, cái nhục của họa mất nước. Vì vậy, việc cứu nước là việc của mọi người, không phụ thuộc
vào địa vị xã hội, vào hoàn cảnh kinh tế, vào năng lực cá nhân
Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp vơ sản thế giới (như sống tập
trung, đại diện cho phương thức sản xuất hiện đại, có sứ mệnh lịch sử…) đồng thời họ lại có những đặc điểm
riêng của dân tộc như vừa bị áp bức giai cấp, vừa bị áp bức dân tộc cho nên họ có tinh thần triệt để cách mạng
và quyền lợi giai cấp, gắn bó chặt chẽ với quyền lợi của dân tộc, vì vậy họ phải trở thành giai cấp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam với điều kiện là phải giác ngộ lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tự tổ chức ra chính Đảng của
mình. Tuy nhiên, muốn giữ vững và củng cố được vai trị lãnh đạo của mình, giai cấp cơng nhân cịn phải lôi
cuốn được giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đi theo mình, trên cơ sở ấy mới tạo ra được hậu thuẫn mạnh
mẽ để mở rộng quyền lãnh đạo của mình đến các tầng lớp nhân dân lao động khác trong tồn xã hội. Với một
nước có 90% dân số là nơng dân thì thực hiện cho được liên minh cơng nơng vì đó là sự đảm bảo chắc chắn
nhất cho những thắng lợi của cách mạng. Cùng với giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức vốn xuất thân từ nhiều
giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, tuy họ không đại diện cho một phương thức sản xuất nào, không phải
là một lực lượng chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó họ khơng có hệ tư tưởng
riêng. Song đội ngũ trí thức dưới bất cứ chế độ nào cũng có vai trị và vị trí rất quan trọng. Trong giai đoạn
trước 1930, đội ngũ trí thức đa số đều có lòng yêu nước, khao khát độc lập, tự do, dân chủ. Mặc dù vẫn có một
số ít cam tâm làm tay sai như số đồng vẫn giữ được khí tiết dù ở hồn cảnh nào cũng khơng ngi lịng cứu
nước. Khi có điều kiện, những trí thức u nước thường đóng vai trị truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi
pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến, bởi lẽ họ là một lực lượng xã hội có trình độ học vấn
cao, hiểu biết rộng, nắm được tri thức khoa học - công nghệ. Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời
gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hố
thành hai bộ phận. Một số ít tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư
sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ khơng có
khả nǎng lãnh đạo cách mạng và chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định. Thực tế lịch
sử cũng đã chứng minh rõ mọi khuynh hướng coi thường hoặc phủ nhận vai trò của các lực lượng xã hội to lớn
này, không quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng, củng cố khối liên minh công - nơng và trí thức trong các giai
đoạn và các thời kỳ cách mạng, có nghĩa là đặt giai cấp cơng nhân vào một hồn cảnh phải chiến đấu đơn độc
và đó là một sai lầm chính trị nghiêm trọng.chủ nghĩa Mác.
Ý nghĩa: Đối với công cuộc đổi mới hiện nay cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có ý nghĩa rất
quan trọng: một là đổi mới phải kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, hai là đổi mới phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, ba là đổi mới phải động viên được đông đảo quần chúng tham gia. Bốn là đổi mới phải mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, đa phương, đa dạng quan hệ ngoại giao.
Tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ chiếm 1,2% dân
số, đã có Cương lĩnh chính trị đầu tiên đúng đắn ngay từ đâu. Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm vững bản
chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác - Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc
và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng
giai cấp cách mạng, đồn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách
mang. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã
nêu thời gian qua đã chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất,
để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc
đổi mới xây dựng CNXH ngày nay.
2. Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh: Đoàn kết là sức mạnh và động lực to lớn để giành
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ý nghĩa hiện thực của vấn đề?
Trong lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm nhận thấy sức mạnh to lớn của quần chúng
nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo đã khẳng định, ý chí của
nhân dân chính là thành trì vững chắc nhất để giữ nước. Nguyễn Trãi lấy tư tưởng “Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân” làm nền tảng quan trọng để phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân, đưa cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn vượt qua khó khăn, đi đến thắng lợi, đánh bại quân xâm lược, giành lại giang sơn, giữ yên biên
cương, bờ cõi của dân tộc.
Không chỉ dừng lại ở đề cao vai trò của nhân dân, trên cơ sở quan tâm đến quyền lợi, lợi ích của nhân
dân, các triều đại phong kiến Việt Nam đã khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để đánh bại các thế lực
ngoại bang xâm lược. Sự đồng thuận, đoàn kết thống nhất trong nội bộ triều đình là một trong những nguyên
nhân hết sức quan trọng góp phần quyết định những chiến công vẻ vang của cha ông ta.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đồn kết được nhân lên gấp bội. Đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức đã trở thành đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam, huy động và chuyển hố sức mạnh của tồn dân tộc và sức mạnh thời đại
thành sức mạnh tổng hợp là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Dưới ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, toàn thể nhân dân từ Bắc chí Nam, từ miền ngược đến miền
xuôi, không kể dân tộc, thành phần xuất thân đã kết thành khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Nhờ có đồn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay
là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tổng kết bài học đoàn kết, rút ra từ Các mạng tháng Tám năm 1945 bằng cách trả lời câu hỏi "Vì sao có
cuộc thắng lợi đó?", Chủ tịch Hồ Chí Minh, phân tích: "Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất
là vì lực lượng của tồn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy
theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết.
Khơng ai thắng được lực lượng đó”. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt, lúc sinh thời, đã khẳng định, nhờ tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh, mà “khơng chỉ
có sĩ, nơng, cơng, thương, binh, mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Nhờ đó, kẻ xâm lược
mất đi chỗ dựa ban đầu. Kẻ thù trong nước bị tê liệt. Cịn những người có tâm huyết với nước, với dân thì được
thu phục và tận tụy đến cùng với cách mạng và kháng chiến”.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nhờ có đồn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, lập lại hịa
bình ở Đông Dương, đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đoàn kết và tập hợp trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam, nhân dân ta đã “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào”, làm nên đại thắng mùa Xn 1975, giải phóng hồn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến hành công cuộc đổi mới và đang đẩy mạnh cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, khối đại đồn kết toàn dân ngày càng mở rộng, thu hút nhiều đối tượng thành phần cả ở
trong nước và ở nước ngoài tham gia, góp phần thiết thực vào thành tựu chung của cả nước, nhất là những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, nhờ tinh
thần đoàn kết, nhân dân ta đã giữ vững được nền độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
trước sức ép và âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền nước ta của các thế lực thù địch.
Những năm qua, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng và phức tạp, nhất là cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế, xã hội ở nước ta. Trong bối cảnh đó,
tồn Đảng, tồn qn và tồn dân ta đã ra sức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó
khăn, thách thức; sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực; kinh tế tiếp tục phát triển; an
sinh xã hội được chăm lo thiết thực; quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; vị thế của nước ta trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng cao; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường... Những kết quả trên là
thực tiễn sinh động, khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nhân dân ta.
Ý nghĩa:
Ðại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng việc xây dựng,
củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không
phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam,
tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và
các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc đang tiếp tục phát huy cao độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới CNH, HÐH đất nước. Ðại
đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng nước ta.
3. Phân tích những chủ trương và giải pháp chủ yếu xây dưng khối đại đồn kết dân tộc do Hội
nghi Trung ương 7 khóa IX xác định?
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln khẳng định: Đại đồn kết
tồn dân tộc là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống cịn đối với cách mạng. Trong thời
kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong giai đoạn đổi mới, nhờ phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, không
ngừng nâng cao vị thế của dân tộc ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và
đang đứng trước những thách thức mới.
Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống cịn nhiều khó
khăn, phần vì bất bình trước những bất cơng xã hội và tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí cịn khá phổ biến
và nghiêm trọng, kỷ cương phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự
an tồn xã hội cịn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đơng người vẫn cịn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt.
Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đồn thể, các tổ chức xã hội cịn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư
nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, ở một số vùng có đơng đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu
số...
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX số 23-NQ/TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 về phát
huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" trong đó nêu bật
các chủ trương và giái pháp
chủ trương và giải pháp chủ yếu xây dưng khối đại đoàn kết dân tộc do Hội nghi Trung ương 7 khóa IX
xác định
1- Xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần, lấy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ
trung tâm; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái trong từng bước phát
triển; đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng. Tổ chức việc kết nghĩa, giúp đỡ nhau giữa
các vùng, các địa phương có kinh tế phát triển với vùng nghèo, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát triển văn hoá, y tế, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, phấn đấu nâng dần độ đồng đều về trình độ dân
trí, văn hố và mức độ hưởng thụ, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân các vùng trong nước; gìn giữ và phát huy văn
hố truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi;
thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", coi trọng vai trò của nhân dân trong đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Định hướng chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội :
Giai cấp công nhân : nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, bồi dưỡng tác phong
công nghiệp, thực hiện "trí thức hố cơng nhân".
Giải quyết việc làm, giảm tối đa tỉ lệ công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt pháp luật lao động, bảo
hộ lao động và việc chăm sóc, phục hồi sức khoẻ cho công nhân. Sớm tổ chức thực hiện Quỹ trợ cấp thất nghiệp.
Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với công nhân, viên
chức, lao động; chính sách ưu đãi nhà ở đối với cơng nhân bậc cao.
Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và phát triển đảng trong công nhân. Nghiên cứu việc giao cho
tổ chức cơng đồn giới thiệu những công nhân ưu tú để kết nạp vào Đảng.
Giai cấp nơng dân : Nhà nước có chính sách điều tiết, hỗ trợ, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông sản cho nông dân; đưa
công nghệ sản xuất tiên tiến vào nơng nghiệp, nơng thơn; có chính sách điều chỉnh hợp lý việc sử dụng quỹ đất, vừa
bảo đảm an ninh lương thực, vừa thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất; có
chính sách khuyến khích nơng dân chuyển sang các nghề phi nông nghiệp; thúc đẩy khôi phục làng nghề, phát triển
ngành nghề mới ở nông thôn; mở rộng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với nơng dân hết tuổi lao động... Mở
rộng các loại hình đào tạo nghề, chuyển giao khoa học - kỹ thuật và công nghệ thông qua các hoạt động khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, các trung tâm học tập cộng đồng và các điển hình nơng dân sản xuất giỏi.
Hội Nơng dân là trung tâm và nịng cốt cho phong trào nơng dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Đội ngũ trí thức : có cơ chế cụ thể phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; mở
rộng dân chủ, khuyến khích sáng tạo, phát minh, sáng kiến và bảo vệ sở hữu trí tuệ; mở rộng vai trị tư vấn, phản
biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn và văn học nghệ thuật chuyên ngành đối với các đề
án phát triển kinh tế - văn hố - xã hội. Có chính sách động viên các nhà khoa học, kể cả những người đã nghỉ hưu
và những người đang sinh sống ở nước ngoài tham gia các chương trình kinh tế - xã hội của quốc gia và xây dựng đường
lối, chính sách, pháp luật. Đẩy mạnh phát triển đảng và nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng đối với trí thức và
sinh viên.
Thanh niên : đẩy mạnh giáo dục nhận thức chính trị, giáo dục truyền thống và đạo đức cách mạng, nâng cao giác ngộ
lý tưởng và hoài bão cho thanh niên, động viên thanh niên xung kích trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực tạo việc làm cho thanh niên. Khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao
tay nghề, tự tạo việc làm. Tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên có tài năng đi học ở nước ngồi để trở về phục vụ đất
nước. Chú trọng bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ, dạy nghề cho thanh niên trong lực lượng vũ trang khi hết thời gian làm
nghĩa vụ quân sự. Tăng cường tuyên truyền về Đảng và công tác phát triển đảng trong thanh niên. Thu hút rộng rãi
thanh, thiếu niên và nhi đồng vào các tổ chức do Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt.
Phụ nữ : tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và trong tồn xã hội về cơng tác phụ nữ và vấn đề
bình đẳng giới. Khẩn trương thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ và công tác cán
bộ nữ trong tình hình mới; lồng ghép vấn đề giới trong quá trình xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch
chung. Coi trọng các chính sách xã hội, các chính sách về giới để giảm nhẹ lao động nặng nhọc cho phụ nữ. Nâng
cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ. Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Tạo điều kiện để phụ
nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp.
Cựu chiến binh : phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính
quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau cải thiện đời sống; xố đói, giảm nghèo; góp phần giáo dục truyền thống
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; là chỗ dựa tin cậy của Đảng và chính quyền ở cơ sở.
Người cao tuổi : xây dựng chính sách chăm sóc sức khoẻ, quan tâm hơn đến người cao tuổi về y tế, hưởng thụ văn
hoá, nhu cầu được thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội,
nêu gương tốt, giáo dục lý tưởng và truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp
nghĩa, chăm sóc người có cơng với nước. Xây dựng Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi. Phát huy
vai trò Hội Người cao tuổi Việt Nam.
Các nhà doanh nghiệp : coi trọng vai trò của các doanh nhân trong phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện khung pháp
lý chung để các nhà doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất - kinh doanh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với các tổ chức hiệp hội các nhà doanh nghiệp.
Các dân tộc thiểu số : thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam; chống kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần, xố đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố, tiếng nói, chữ
viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Nêu cao ý thức tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số,
đồng thời tăng cường sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, nhân sĩ, trí thức dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của mọi tầng lớp nhân dân trong việc
bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Đồng bào các tơn giáo : bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo, quyền sinh hoạt tơn giáo
bình thường theo pháp luật. Đồn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
khơng theo tơn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của đạo lý và truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
và nhớ ơn những người có cơng với nước, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan. Đồng bào theo đạo và
các chức sắc tơn giáo có trách nhiệm sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị văn hố, đạo đức tốt đẹp của
tơn giáo. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo luật pháp và được luật pháp bảo hộ. Tăng cường công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo.
Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động gây chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, làm tổn hại đến an ninh quốc gia.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi : có chính sách động viên và tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước
ngoài hướng về quê hương tham gia xây dựng đất nước. Khuyến khích đồng bào đầu tư về trong nước, có chính
sách thu hút, phát huy sự đóng góp của trí thức Việt kiều. Vận động đồng bào chấp hành tốt pháp luật ở các nước sở
tại, đồng thời có biện pháp tích cực bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đồng bào. Làm tốt công tác thông tin, tuyên
truyền về tình hình trong nước và các chủ trương, chính sách của Nhà nước ta trong cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngồi. Có chính sách khen thưởng người Việt Nam ở nước ngồi có nhiều thành tích đóng góp cho Tổ quốc.
2- Phát huy mạnh mẽ vai trị của chính quyền Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân tộc.
- Khơng ngừng hồn thiện các cơ chế dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt Quy
chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong tất cả
các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, kể cả trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân. Khắc phục mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Phát
huy dân chủ đồng thời đề cao pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã hội.
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng đắn và
nhanh chóng các cơng việc có quan hệ trực tiếp đến đời sống nhân dân; thực hiện đúng đắn chính sách đại đồn kết
tồn dân tộc của Đảng.
Nhà nước có cơ chế phối hợp và bảo đảm các điều kiện cần thiết để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh
trung thực tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương, chính sách,
pháp luật; tập hợp, động viên nhân dân đồng tâm, hiệp lực thực hiện thắng lợi những chủ trương, nhiệm vụ của Nhà
nước; đồng thời, làm tốt vai trò giám sát đối với các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, cơng chức, góp
phần xây dựng và bảo vệ chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Đối với những vấn đề lớn và đặc biệt quan trọng của đất nước, cần có những hình thức thích hợp để nhân dân tham
gia ý kiến. Trước khi ban hành những chủ trương, chính sách quan trọng, cần tổ chức chu đáo, thiết thực việc lấy ý
kiến các tầng lớp nhân dân có liên quan, bảo đảm để nhân dân có thể thẳng thắn bày tỏ được ý kiến đóng góp.
Khuyến khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến khác nhau, tránh chụp mũ, áp
đặt.
- Nhà nước chăm lo đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức cho cán bộ chính quyền các cấp. Xây
dựng phong cách và phương thức công tác của cán bộ, công chức phù hợp với đạo đức cách mạng và đáp ứng yêu
cầu tăng cường khối đại đoàn kết tồn dân tộc.
Giáo dục cán bộ, cơng chức xây dựng và thực hành phong cách “ trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".
Cán bộ, cơng chức phải có thái độ chân thành, tơn trọng dân, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân; không thành kiến,
phân biệt đối xử khi làm việc với dân.
Bổ sung, hồn chỉnh Pháp lệnh cán bộ, cơng chức, chú ý phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của cán bộ, công chức.
Thực hiện phương thức dân chủ trong lãnh đạo và quản lý điều hành, khắc phục lối làm việc mệnh lệnh, hành chính
đơn thuần.
3- Mở rộng và đa dạng hố các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đa dạng hố các hình thức tập hợp nhân dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và các tổ chức nhân
dân. Sớm ban hành luật về hội quần chúng. Xây dựng các văn bản dưới luật để cụ thể hoá những nội dung nói trên
và để Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy hiệu lực tốt hơn trong đời sống xã hội.
Xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở các thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, hoạt động trên cơ sở hương ước,
quy ước không trái pháp luật. Chú trọng bồi dưỡng và hướng dẫn những người có uy tín trong cộng đồng tham gia
đóng góp cho phong trào chung.
Phát huy những mặt tốt của các hình thức cộng đồng truyền thống như làng, bản, dịng họ, gia đình; đồng thời, kịp
thời uốn nắn những biểu hiện cục bộ, lệch lạc.
- Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phối hợp với các cơ quan nhà nước hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến
từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân xố đói, giảm nghèo,
vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở từng cộng đồng dân cư. Đi sát để
hiểu tâm tư, nguyện vọng nhân dân, phát huy, nhân rộng những sáng kiến tích cực; vừa làm tốt chức năng tuyên
truyền, giáo dục, vừa quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Cử đại diện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia các uỷ ban, hội đồng, ban điều hành một số dự án,
chương trình kinh tế - xã hội có quan hệ trực tiếp đến quyền lợi và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân ở cơ sở.
Nghiên cứu việc đại diện cơng đồn tham gia hội đồng quản trị trong các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hoá mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối và việc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế trích quỹ lương để tạo kinh phí cho cơng đồn hoạt động.
4- Tăng cường cơng tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước.
- Đa dạng hố các hình thức tun truyền, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống yêu nước; trách
nhiệm công dân; đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp trong nhân dân. Giáo dục ý thức chăm lo xây dựng khối đoàn
kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức cộng đồng trách
nhiệm.
Củng cố và tăng cường các tổ chức làm cơng tác chính trị - tư tưởng. Phát huy vai trị tích cực của các phương tiện
thơng tin đại chúng, các loại hình văn hoá, nghệ thuật, coi trọng xây dựng và tạo điều kiện hoạt động cần thiết cho
lực lượng tuyên truyền miệng, nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số và vùng đồng bào có đạo, các trung tâm dân cư
lớn, vùng sâu, vùng xa. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần có kế hoạch vận động, giáo dục, bồi dưỡng ý thức
giác ngộ chính trị cho đồn viên, hội viên và nhân dân.
- Phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước. Thực hiện tốt các cuộc vận động về từng lĩnh vực cụ thể và
cuộc vận động chung : “Toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh" ,
tập trung vào các vấn đề :
+ Xây dựng phong trào toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp, từng gia đình làm giàu cho mình, cho
cộng đồng, cho đất nước; xố đói, giảm nghèo, phấn đấu hàng năm có thêm nhiều đơn vị, địa phương khơng cịn hộ
nghèo.
+ Tiếp tục thực hiện tốt phong trào "Toàn dân xây dựng đời sống văn hoá" và các cuộc vận động ngăn chặn, đẩy lùi
các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và "văn hoá phẩm" độc hại.
+ Xây dựng phong trào “cả nước trở thành một xã hội học tập", "học tập suốt đời", trước hết trong cán bộ, đảng viên
và thế hệ trẻ.
+ Tôn vinh người tốt, biểu dương việc tốt; bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến; lên án, phê phán, đấu
tranh chống tệ quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, những hành động coi thường kỷ luật, dân chủ
cực đoan, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật.
5- Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt
nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Kiên trì thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng
và trong từng tổ chức đảng. Đảng viên gương mẫu tham gia sinh hoạt và làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân.
Có cơ chế cụ thể để động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân.
Kết hợp thực hiện chế độ tập trung, dân chủ trong Đảng và chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận để làm
phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta.
Khi Đảng có các chủ trương, chính sách lớn, đại diện của cấp uỷ đảng cần chủ động trình bày trước hội nghị Mặt
trận để mọi thành viên cùng bàn bạc, đóng góp ý kiến trên tinh thần dân chủ, xây dựng.
Tiếp tục cụ thể hố việc phân cơng trách nhiệm giữa các bộ phận trong hệ thống chính trị trên lĩnh vực kinh tế - xã
hội cho phù hợp với thời kỳ mới. Giao cho Mặt trận và các đồn thể nhân dân đảm nhiệm một số mặt cơng việc có
liên quan đến đời sống nhân dân.
Chăm lo đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể. Sắp xếp, tổ chức lại và hiện đại hố
từng bước hệ thống các trường đồn thể ở Trung ương. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các trường
chính trị tỉnh, thành phố cần có Khoa Dân vận. Cử những cán bộ đủ tiêu chuẩn sang cơng tác Mặt trận và đồn thể
theo chủ trương luân chuyển cán bộ, qua đó phát hiện những cán bộ tốt để bồi dưỡng, đề bạt vào những cương vị
lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước.
4. Đồng chí đánh giá như thế nào về việc thực hiện Chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết tồn
dân tộc do HNTW 7 khóa IX xác định. Những vấn đề chủ yếu cần tập trung giải quyết trong thời gian
tới?
5. Từ vị trí, vai trị của GCCN Việt Nam trong lịch sử và hiện tại, theo đồng chí cần làm gì để
phát huy vai trị của họ trong thời gian tới?
Giai cấp cơng nhân mang trên mình sứ mệnh lịch sử vơ cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc hậu, xây
dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng tồn nhân loại trên phạm vi toàn thế
giới.
Ở Việt Nam, vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân đối với cách mạng đã sớm được khẳng định cả về
lý luận cũng như trong thực tiễn. Đó là một trong những bài học hàng đầu của mọi thắng lợi của cách mạng
nước ta trên nửa thế kỷ qua.
Lịch sử đã trao quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công nhân mà Đảng Cộng sản Việt Nam là đại
biểu. Khác với lý luận và thực tiễn ra đời của các chính Đảng chính trị của giai cấp cơng nhân, sự ra đời của
cách chính Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên cả ba yếu tố (Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước) chứ không chỉ có hai yếu tố (Chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân). Thực tiễn cách
mạng Việt Nam chứng minh rằng sự tham gia của phong trào yêu nước vào sự thành lập Đảng khơng làm yếu
đi tính giai cấp của Đảng và vai trò lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, mà trái lại nó cịn củng cố thêm sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện giai cấp này chiếm tỷ lệ rất thấp trong dân cư (1 - 2%) và đang lãnh
đạo một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thực chất là cuộc cách mạng tư sản kiểu mới.
Từ năm 1930 trở đi ở miền Bắc và từ năm 1945 trở đi trên cả nước, trong phong trào cách mạng khơng
có sự tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng nào với giai cấp công nhân; giai cấp công nhân trở thành giai cấp
độc quyền lãnh đạo, khơng chia quyền đó với ai và cũng khơng lực lượng, giai cấp nào có đủ khả năng để chia
quyền lãnh đạo ấy. Nhờ đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết yêu cầu ruộng đất của
nông dân, nêu ngay từ đầu khẩu hiệu trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 giai cấp nông dân đã thực sự thừa
nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối vơi họ và khối liên minh công nông đã ra đời trong thực tiễn máu
lửa của cao trào cách mạng này. Cũng nhờ đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, Đảng ta đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong, đại đoàn kết toàn dân trong
mặt trận dân tộc thống nhất, tạo nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám - 1945. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, luôn kiên trì sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân đối với cách mạng, Đảng ta đã giải quyết đúng
đắn hàng loạt vấn đề về đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng, đưa cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Kinh nghiệm của nhân loại và dân tộc ta trong thế kỷ XX chỉ ra rằng, đứng vững hay không vững trên
lập trường của giai cấp công nhân hiện đại là điểm cốt tử nhất để có được mơ hình chủ nghĩa xã hội phù hợp
hay không.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong suốt hơn 20 năm qua đã đem lại những
thành tựu hết sức to lớn và cơ bản. Đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Nền kinh tế liên tục
phát triển năm sau cao hơn năm trước. Tình hình chính trị - xã hội ngày càng ổn định. Quốc phòng, an ninh
được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày một được nâng cao. Đây là kết quả tổng hợp của nhiều
lực lượng, nhiều yếu tố dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh và sáng tạo của Đảng ta. Trong những lực lượng và các
yếu tố ấy, có vai trị của giai cấp cơng nhân.
Bên cạnh sự lớn mạnh về đội ngũ cũng nảy sinh sự mất cân đối về cơ cấu giai cấp, bậc thợ, về trình độ
tay nghề, về phân bổ ở thành phần kinh tế, ở các khu vực kinh tế và khu vực dân cư, giữa số lượng và chất
lượng. Sự phát triển không ổn định không đồng đều về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, sự giảm
sút nhanh đội ngũ công nhân ở các doanh nghiệp quốc doanh, tăng nhanh ở các doanh nghiệp tư nhân. Sự tăng
nhanh q trình trẻ hóa đội ngũ cơng nhân cùng với trình độ văn hóa, tay nghề và q trình đào tạo được chú ý
hơn. Sự không thuần nhất, đa dạng hóa, phân hóa giàu nghèo, chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các bộ
phận trong giai cấp công nhân. Ý thức học tập nâng cao trình độ văn hóa, chính trị ở khơng ít cơng nhân thiếu
quyết tâm, cốt có việc làm, lo thu nhập kinh tế, ổn định đời sống cho gia đình họ thiếu hồi bão lý tưởng lớn lao
cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho dân giàu, nước mạnh. Việc
phát huy quyền làm chủ của công nhân trong lao động, sản xuất và quản lý xã hội chưa cao. Ở họ còn phần nào
thụ động, dựa dẫm vào tập thể, bằng lịng với những gì đã có ở mức thấp. Tỷ lệ đảng viên kết nạp trong cơng
nhân chưa cao. Vai trị tiền phong gương mẫu của đảng viên cơng nhân cịn nhiều hạn chế. Một bộ phận cơng
nhân thối hóa biến chất, sa vào các tiêu cực và tệ nạn xã hội chậm được khắc phục...
Giai cấp công nhân nước ta đang đứng trước những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Đó là tự
khắc phục những yếu kém, những hạn chế thiếu sót, vươn lên nhanh chóng về mọi mặt để phát huy vai trò lãnh
đạo đủ sức đảm đương những nhiệm vụ mới, nặng nề của công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đạt được điều đó, giai cấp cơng nhân nước ta cần thực hiện tốt những vấn đề chính sau:
- Một là, chăm lo xây dựng giai cấp công nhân tồn diện về ý thức chính trị, lập trường tư tưởng, năng lực tổ
chức và hoạt động thực tiễn để đủ sức đảm đương vai trò lãnh đạo của giai cấp tiên phong. Đảng cần có định
hướng chiến lược xây dựng giai cấp công nhân hiện đại ở nước ta trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
- Hai là, định hướng chiến lược phát triển nền kinh tế hiện đại tạo nền tảng kinh tế vững chắc cho việc xây
dựng giai cấp công nhân tiên tiến.
- Ba là, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng làm nền tảng vững chắc củng cố phát triển giai cấp cơng nhân.
- Bốn là, có kế hoạch cụ thể đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ công nhân về số lượng và chất lượng nhằm
vào thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước lâu dài, vững chắc, bảo đảm cân đối về cơ cấu, toàn diện
về chất lượng và số lượng.
- Năm là, có chính sách cụ thể chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người lao động nói chung, cho giai
cấp cơng nhân nói riêng.
- Sáu là, thực hiện công khai, dân chủ, phát huy quyền làm chủ của công nhân. Đấu tranh khắc phục các tiêu
cực và tệ nạn xã hội, làm trong sạch các tổ chức đảng và chính quyền.
- Bẩy là, phát triển lực lượng sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nhằm đẩy nhanh sự
tiến bộ của giai cấp công nhân.
- Tám là, đổi mới hoạt động và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phát
huy vai trò tiền phong của giai cấp công nhân.
Như vậy, sự nghiệp đổi mới mặc dù thời gian chưa nhiều nhưng cũng đủ để chúng ta nhận rõ việc phát huy vai
trò của giai cấp công nhân và những biến đổi phát triển rất quan trọng của giai cấp công nhân nước ta. Đây là
quá trình thể hiện, làm đậm thêm những thuộc tính rất cơ bản của giai cấp cơng nhân, những bản chất cách
mạng và khoa học của giai cấp cơng nhân nước ta hiện nay. Đó là q trình vận động và phát triển không ngừng
đầy triển vọng của giai cấp cơng nhân cùng với q trình đổi mới xây dựng đất nước.
Như vậy, sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế và xu thế tồn cầu hố vừa có tác động tích cực, vừa ảnh
hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội nói chung và đến giai cấp cơng nhân Việt Nam nói
riêng. Tuy nhiên để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế xã hội đất nước, Đảng ta vẫn
khẳng định rằng: “Giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước; lực lượng nịng cốt trong liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên
quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước”1.
6. Từ vị trí, vai trị của GCND Việt Nam trong lịch sử và hiện tại, theo đồng chí cần làm gì để
phát huy vai trị của họ trong thời gian tới?
Giai cấp nơng dân là một lực lượng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân
tộc. Lịch sử 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định những đóng góp to lớn của nông dân đối với sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nông dân nước ta chiếm hơn 90% dân số, là nạn nhân chủ yếu của
chế độ thực dân. Giải phóng dân tộc, mà chủ yếu là nông dân là nhiệm vụ quan trọng số một của cách mạng. Từ
những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác định cần phải thu hút đại bộ phận giai
cấp nông dân vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Trong Luận cương chính trị năm 1930, Đảng ta xác định: Trong cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp
và nông dân là hai động lực chính, nhưng vơ sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.
Đảng ta đã từng bước tổ chức, rèn luyện, giác ngộ giai cấp nông dân trong q trình đấu tranh cách mạng.
Cùng với cơng nhân và những người trí thức u nước, giai cấp nơng dân đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và
những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, trở thành một trong hai động lực chính của cách mạng. Lịch
sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã chứng minh tính cách mạng và tính khoa học trong
đường lối liên minh với giai cấp nông dân. Đó là nguồn sức mạnh cơ bản làm nên những thắng lợi vẻ vang của
cách mạng nước ta từ khi có Đảng.
Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hướng mũi nhọn đấu tranh vào đế
quốc và tay sai, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của nông dân. Trong những năm 1945-1952, Đảng
dùng biện pháp cải cách từng bước để đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân theo một đường lối riêng biệt
của Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng miền Nam sở dĩ có sức mạnh to lớn là
vì nhân dân miền Nam mà lực lượng đông đảo là nông dân đã được hưởng những quyền lợi của cách mạng đưa
lại, là vì Đảng đã kết hợp một cách sáng tạo hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong điều kiện chống chủ nghĩa
thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Nước ta là nước nơng nghiệp, muốn trở thành nước cơng nghiệp thì khâu đột phá trước hết phải trên lĩnh vực
nông nghiệp, phải là địa bàn nơng thơn, nơi có gần 80% dân cư sinh sống, chiếm 75% lực lượng lao động xã
hội. Chính vì thế, tiếp theo Đại hội VI và Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh phải rất quan tâm đến
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đây là quá trình chuyển đổi căn bản, tồn diện
các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn, biến lao động thủ công thành
lao động cơ giới, đưa sản xuất nhỏ lên thành sản xuất lớn hàng hố, là q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác mọi
tiềm năng tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế - xã hội cao trong nông nghiệp, từ đó biến đổi bộ mặt kinh
tế - xã hội nơng thơn tiến gần với thành thị: “Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nơng dân trong xây dựng
kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp và hàng
1
. Văn kiện hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành trung ương khóa X, Nxb CTQG, H. 2008, tr. 47
nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm…” 11. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn là sự
nghiệp của tồn Đảng, trong đó lực lượng cơ bản là nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông thôn thành công, cần phải thực hiện hàng loạt các biện pháp về
kinh tế - kỹ thuật; tạo ra sự chuyển biến mới thực sự trong tư duy của người nông dân và những người sống ở
nông thôn; những biện pháp về năng suất lao động và đất đai để tạo ra lượng hàng hố nơng sản lớn, bảo đảm
chất lượng, mẫu mã, giá thành… mà thị trường trong nước và thế giới có thể chấp nhận được.
Từ nội dung, u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay, công tác vận
động nơng dân của Đảng chiếm vị trí rất quan trọng. Đó là q trình Đảng phải tiếp tục nâng cao sự giác ngộ
cho nông dân, luôn gắn với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; là quá trình tổ chức, đồn kết nơng dân chặt chẽ,
khăng khít dưới nhiều hình thức mà Hội Nơng dân là nịng cốt; là phát huy truyền thống yêu nước và cách
mạng của nông dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nông dân đi đôi với việc phát huy tinh hoa văn hóa
dân tộc, xây dựng nơng thơn mới giàu đẹp, văn minh, tiến bộ; là quá trình làm cho nông dân hiểu biết ngày
càng sâu sắc về khoa học - kỹ thuật, không ngừng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện nền sản xuất
nông nghiệp hàng hố tồn diện, văn minh, có hiệu quả trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khoá X) của Đảng (7-2008) nêu rõ quan điểm: “Nông nghiệp, nông
dân, nông thơn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh, quốc phịng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hố dân tộc và bảo vệ mơi trường sinh thái của đất nước”12.
Nhìn lại lịch sử 80 năm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định rằng nắm vững và
giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử nhất định là một
trong những nguyên nhân quan trọng làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
7. Từ lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân trong lịch sử và hiện tại, theo
đồng chí cần làm gì để củng cố mối quan hệ đó trong thời gian tới?
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn tám thập niên qua đã chứng minh mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản
Việt Nam và nhân dân Việt Nam là mối quan hệ gắn bó trong một chỉnh thể thống nhất. Sự thống nhất đó là
nhân tố cơ bản làm nên những thắng lợi vĩ đại, huy hoàng của dân tộc ta trong cách mạng giải phóng dân tộc,
kháng chiến chống xâm lược; làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Đó là thực tế khơng thể phủ nhận.
Q trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định sức mạnh “dời non, lấp biển”
của sự thống nhất “ý Đảng và lòng dân”; giữa lý tưởng của Đảng với khát vọng “khơng có gì q hơn độc lập
tự do” của nhân dân Việt Nam; sức mạnh của sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân trong mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thực tế lịch sử cách mạng nước ta cho thấy, mệnh đề “Đảng với nhân dân là một” không phải là câu
khẩu hiệu mà là bản chất mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Bản chất mối quan hệ này thể hiện tập
trung ở chỗ: lý do ra đời, tồn tại và mục tiêu hoạt động của Đảng là vì nhân dân, vì độc lập, tự do và hạnh phúc
của nhân dân; nguồn sức mạnh bất tận và vô địch của Đảng là từ nhân dân, ở trong nhân dân; Đảng là của dân,
vì dân, Đảng quan tâm chăm lo đến dân. Dân một lòng, một dạ theo Đảng, chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng.
Điều đó đã được biểu hiện cụ thể sinh động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam suốt hơn tám thập niên qua, là
nhân tố cơ bản, sức mạnh chủ yếu và động lực quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn 85 năm xây dựng, trưởng thành và 70 năm cầm quyền của Đảng ta cho thấy, chính lịch sử dân
tộc và nhân dân ta đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc trên con đường
đi tới độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Đảng đã vì dân mà ra đời, lãnh đạo cách mạng, đưa nhân dân thoát khỏi
nô lệ, lầm than, vươn lên làm chủ, xây dựng cuộc sống mới, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam quyền duy nhất lãnh
đạo, duy nhất cầm quyền ở nước ta. Và nhân dân ta đã một lòng theo Đảng, đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng,
làm nên những kỳ tích vĩ đại, những thành tựu mang tầm vóc lịch sử. Đó là bản chất và nội dung cốt lõi mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân ta. Mối quan hệ mật thiết đó đã, đang và vẫn thể hiện sinh động trong
thực tiễn, là cội nguồn sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, mà không thế lực nào có thể chia cắt được.
Mọi người Việt Nam đều biết, vai trò lịch sử của Đảng ta đối với vận mệnh và tương lai của dân tộc,
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là khách quan, do chính lịch sử dân tộc Việt Nam và khát vọng
của nhân dân ta quy định; và do chính bản chất cách mạng, tính tiền phong của Đảng mới có được. Vai trị và
mối quan hệ đó đã được khẳng định trong thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam suốt hơn tám
thập niên qua, khơng ai có thể tranh giành, bác bỏ hay phủ nhận.
Thực tiễn cho thấy, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi người dân
Việt Nam đều cảm nhận được rất rõ, được thực sự thụ hưởng cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, được thế giới
đánh giá cao và tin tưởng vào sự phát triển của Việt Nam. Mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Mọi người dân đều trực tiếp hay
gián tiếp đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của dân ngày càng được mở rộng và hoạt động hiệu quả. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong xã hội; là phương châm hành động của người dân trong xây dựng
hệ thống chính trị, xây dựng Đảng; là yêu cầu ứng xử của cán bộ, đảng viên trong tiếp xúc, quan hệ với dân và
chăm lo đến dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lực; quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách
nhiệm, cống hiến và hưởng thụ gắn bó chặt chẽ với nhau; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng
được cải thiện và nâng cao. Đảng đã thực sự “gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” đúng như Hiến pháp Việt Nam đã hiến định.
Những thành tựu có được ngày hơm nay là sự cố gắng to lớn, rất đáng tự hào của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta, được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ. Tuy nhiên, hiện nay “chúng ta vẫn luôn đau đáu vì nền kinh
tế nước ta cịn tụt hậu, cuộc sống của đồng bào ta ở nhiều vùng, nhiều đối tượng cịn rất khó khăn; vẫn cịn tệ
tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thói quan liêu hống hách cửa quyền với nhân dân, tình trạng trù dập,
ức hiếp người dân lương thiện, gây ra bao nỗi ốn thán, bất bình trong nhân dân“(1). Chúng ta không phủ nhận
những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình đi lên. Đảng ta đã nhận rõ vấn đề và kiên quyết sửa chữa, đấu
tranh khắc phục.
Trong tình hình mới, chúng ta cần phải dành công sức nhiều hơn nữa, tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây
dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiền phong của Đảng; xây
dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm
vụ cách mạng. “Phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, nhất là tiếp tục thực hiện kiên trì, quyết liệt
hơn Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính
trị, phẩm chất đạo đức trong Đảng và trong xã hội; giữ vững, kiên định bản chất cách mạng và vai trò tiên
phong gương mẫu của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên”(2).
Củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là yêu cầu và nội dung cơ bản làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thực hiện chủ trương,
chính sách hợp lịng dân, “hết sức làm” những việc gì có lợi cho dân; “hết sức tránh” những việc gì có hại đối
với dân. Chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Vấn đề quan trọng đặc biệt hiện nay là
chúng ta phải kiên quyết khắc phục sự suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây là một vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
uy tín của Đảng, làm nhân dân bất bình, lo lắng và suy giảm niềm tin đối với Đảng. Cần thấy rằng, uy tín của
Đảng ra sao, lòng tin của dân đối với Đảng đến đâu, mối quan hệ Đảng với nhân dân mật thiết, bền chặt như thế
nào phụ thuộc quyết định vào chính sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, vào phẩm chất, năng lực của mỗi cán
bộ, đảng viên.
Củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và xây dựng Đảng không phải là câu khẩu hiệu mà là
hành động thực tế. Đó khơng phải là sự nghiệp của riêng Đảng mà là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Sức mạnh của nhân dân là to lớn, tai mắt của nhân dân là hết sức khách quan. Cần phát huy vai trò
và tinh thần làm chủ của nhân dân và các tổ chức quần chúng trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa
phương, cơ sở và giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên, trong đấu tranh chống tham nhũng, suy thối. Đó là
sự biểu hiện sinh động quyền làm chủ của nhân dân, lịng tin tưởng, tình cảm và quyết tâm của nhân dân trong
xây dựng, bảo vệ Đảng mến yêu của mình, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đó là sự thể hiện sâu sắc ý Đảng, lịng
dân, góp phần quan trọng làm chuyển biến phương thức lãnh đạo, công tác điều hành, quản lý và lề lối làm việc
của các cấp uỷ đảng, chính quyền; là phương thức hữu hiệu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ ở cơ sở.
Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là biểu hiện cụ thể quyền làm chủ của nhân dân trong
đời sống ở cơ sở”, phải được thể hiện tốt hơn trong đời sống hiện thực.
Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận đầy đủ và thấu đáo hơn vấn đề Đảng lãnh đạo bằng “hành động
gương mẫu của đảng viên” và tầm quan trọng đặc biệt của “hành động gương mẫu của đảng viên" đối với việc
củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng, sự vững chắc của mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân phụ thuộc quyết định vào bản thân Đảng, vào sự trong sạch, vững mạnh của
Đảng và sự gương mẫu của mọi đảng viên. Đảng viên không gương mẫu thực hiện chủ trương, chính sách,
pháp luật, rèn luyện đạo đức, lối sống, thì chủ trương, chính sách của Đảng khó có thể trở thành hiện thực, thậm
chí bị thực hiện sai, nhân dân thiếu tin tưởng vào chủ trương, chính sách, công tác tuyên truyền, thuyết phục,
vận động của Đảng sẽ mất đi ý nghĩa thực tiễn, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân sẽ bị suy giảm,
bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động, chống phá.
Nhân dân ta luôn tin tưởng vào Đảng, bao giờ cũng mong muốn Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh,
là lương tâm, trí tuệ đại diện cho dân tộc; thực sự là “đạo đức và văn minh”; thật sự xứng đáng là người lãnh
đạo, dẫn dắt đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi đảng viên thật sự là tấm
gương mẫu mực toàn diện; đảng viên giữ chức vụ càng cao thì yêu cầu về sự gương mẫu càng lớn. Nhân dân
bao giờ cũng nhìn vào sự gương mẫu của đảng viên, xem đảng viên chấp hành chủ trương, chính sách và sống
như thế nào, nói và làm ra sao, để tin tưởng và noi theo. Vì thế, “Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân (3); thực
sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống, phải gương mẫu trong mọi hành động, “Cán bộ cấp trên
phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân”(4); phải “phát huy tính tiên phong, gương mẫu,
gần dân, sát dân của cán bộ, đảng viên”(5). Đây là yêu cầu cơ bản mà chúng ta cần đặc biệt nhấn mạnh và thực
hiện tốt trong tình hình hiện nay nhằm củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng, giữ gìn và nâng cao uy tín của Đảng trước nhân dân, làm thất bại mọi sự phá hoại
của các thế lực thù địch./.
8. Phân tích vị trí, vai trò của bộ máy Nhà nước trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay,
thực trạng và giải pháp khắc phục?
Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị được quy định bởi
chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội và được thể hiện trong mối quan
hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ
trương, đường lối của Đảng thành hiến pháp, pháp luật và chính sách làm cơng cụ quản lý nhà nước đối với mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột, là cơng cụ tổ chức
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ
hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà
nước chịu sự lãnh đạo và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm
bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Những đặc trưng của Nhà nước tạo nên những nét khác biệt nhất định về tổ chức và phương thức hoạt động
giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Việc xác
định đúng vị trí, vai trị và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong
q trình đổi mới hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính
trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
THỰC TRẠNG
Ưu điểm:
+Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực Lập pháp, Hành pháp, Tư
pháp2
+ Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động
được nâng lên”3. Cụ thể:
- Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ
thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất
của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự tốn ngân sách nhà nước, các
dự án, cơng trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng
Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội có nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách nhiệm của
đại biểu Quốc hội.
- Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo hướng tổ chức
các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực 4. Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều
hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng,
đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và cơng bố cơng khai. Việc thực hiện thí
điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (khơng tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện,
phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
- Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc tăng thẩm quyền cho toà án
cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng được thực hiện
bước đầu có kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy
tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng
lên.
- Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
phịng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phịng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
được chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực, lãng
phí, tham nhũng từng bước được kiềm chế.
*Hạn chế:
+Tổ chức và hoạt động của Nhà nước…còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc hội còn lúng túng trong
việc thực hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở cịn yếu kém Tình trạng
2
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB CTQG HN, 2006, tr 60
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. Hà Nội 2011,tr 159 - 161
4
Các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giảm từ 29 xuống cịn 22.
3
nhũng nhiễu cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, nhất là ở cơ quan trực tiếp giải quyết công
việc của dân và doanh nghiệp chậm được khắc phục. Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là tổ chức
HĐND, còn những điểm bất hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu…5
+ Việc “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và
quản lý đất nước”6. Cụ thể là:
- Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy
ở nhiều cơ quan cịn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, cơng chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ
quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính cịn gây
phiền hà cho tổ chức và cơng dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh
vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội khơng nghiêm. Cải cách tư
pháp cịn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa
chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa cịn nhiều.
- Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng,
lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức
xúc xã hội.
GIẢI PHÁP
+ Thứ nhất; nâng cao nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
- Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng
quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân,
bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân
- Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013)
phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến,
hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
+ Thứ hai; tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa
chọn và bầu những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý
số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri.
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng
luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống. Thực hiện
tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là các công trình trọng
điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, cơng tác
phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất,
thơng suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp
quyền trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những vấn đề
mới phát sinh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành
chính gây phiền hà cho tổ chức và cơng dân
- Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong
5
6
Đảng Cộng sản Việt Nam .Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB CTQG HN, 2006, tr 15, 64, 175, 176
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. Hà Nội 2011, tr 171,172
sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hồn thiện chính sách, pháp luật về
hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng
bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp
- Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương.
+ Thứ ba; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình
mới:
- Rà sốt, bổ sung, hồn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,
trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, cơng chức; tăng cường tính cơng khai, minh bạch, trách nhiệm của
hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức
+ Thứ tư; tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí:
- Phịng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi
cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng
đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
- Tiếp tục hồn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phịng, chống tham nhũng, lãng
phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí.
- Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân,
các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
9. Phân tích vị trí, vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay,
thực trạng và giải pháp khắc phụckhắc phục? xong
- Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của
dân tộc ta, là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.
- Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành
viên trong hệ thống chính trị. Điều đó cũng đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành
viên của Đảng và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các mối quan hệ chính trị
và sinh hoạt dân chủ.
- Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với
từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Vai trị cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước khác với sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân. Sự mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nước, hoặc là
Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức hóa Nhà nước và hệ thống chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh
đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
- Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trị lãnh đạo của Đảng trong
hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan
hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng.
THỰC TRẠNG
*Ưu điểm:
+Trong q trình lãnh đạo tồn diện cơng cuộc đổi mới, Đảng ta đã kiên trì và nghiêm túc thực hiện
nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức…nhờ đó đã đạt được một số
kết quả tích cực …7
+Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực:
-Cơng tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của cơng cuộc đổi mới, diễn
biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
tập trung vào tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI của Đảng.
-Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo
đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ động hơn
trong đấu tranh chống “diễn biến hồ bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế
lực thù địch
-Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ. Tổ chức bộ máy các cơ quan
đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Đã xây dựng, bổ sung
các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của mỗi tổ chức; ban hành
nhiều quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định rõ hơn
tổ chức và hoạt động các đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ quan hành pháp và tư pháp ở trung ương và
cấp tỉnh, ban cán sự đảng và mơ hình tổ chức đảng ở các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chính phủ.
-Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về cơng tác cán bộ được thể chế hố, cụ thể hoá thành
các quy chế, quy định. Đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, trong đó cơng tác quy hoạch,
đào tạo và ln chuyển cán bộ có những chuyển biến tích cực. Tăng cường phân cấp trong công tác cán bộ.
Đội ngũ cán bộ được bổ sung về số lượng, chú trọng nâng cao về chất lượng.
-Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên đạt được một số kết quả;
-Cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo; tiếp tục giải quyết
những vấn đề lịch sử chính trị, đồng thời chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.
-Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Cấp uỷ
đảng các cấp đã chỉ đạo thực hiện có kết quả việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các
chương trình, dự án; quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản; chống tham nhũng, lãng phí, thực
hành tiết kiệm và cơng tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có sai phạm, góp phần phịng ngừa, ngăn
chặn vi phạm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền, tổ chức bộ máy, điều kiện hoạt động của uỷ ban kiểm tra và cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp tiếp tục được
làm rõ.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát
huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ
trong Đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí
thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến
theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát 8.
*Hạn chế:
+Nhìn chung cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cơ quan , tổ
chức đảng, đảng viên chưa đạt u cầu đề ra. Tình trạng suy thối về tư tưởng chức, lối sống, bệnh chính trị,
7
8
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB CTQG HN, 2006, tr 47, 61
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB CTQG HN, 2006, tr 161 - 164
phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ cơng chức cịn diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng
bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp
nảy sinh. Cơng tác tư tưởngcịn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Cơng tác lý luận chưa
làm sáng tổ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ
nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả giám sát chưa cao…9
+Công tác xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục:
-Cơng tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của cơng tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hồ bình”. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều
hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định,
phát triển của đất nước.
-Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu
quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ cịn chậm; thiếu cơ chế,
chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài; chậm đổi
mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ
vẫn là khâu yếu
-Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng cịn thấp; công tác quản lý đảng viên
chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc
xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn chậm,
vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc,
cơ hội.
-Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị cịn phiến diện, thiếu chặt
chẽ. Việc xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp
uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất
lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố
tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu
trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp uỷ chưa tốt.
-Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa quan tâm đúng mức công tác
dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng vẫn nặng tính hành chính.
-Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã
hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa
được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội
họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng10.
9
10
Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB CTQG HN, 2006, tr 47, 48, 65
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. Hà Nội 2011,tr 172 - 176
10. Phân tích vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp khắc phụckhắc phục?
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay. Sự qui định này
là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ,
mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trị của Mặt trận khơng phải
tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ
phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy vai trị, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ
phận cấu thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là cơng cụ thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập,
thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã xác định:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân..." điều đó càng khẳng định Mặt trận
Tổ quốcViệt nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết
toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..." Đó là củng cố, tăng cường khối đại đồn kết tồn dân, tạo nên sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
THỰC TRẠNG
*Ưu điểm:
+Hoạt động MTTQVN và các đoàn thể nhân dân ngày càng thiết thực. Việc thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở được mở rộng và có hiệu quả hơn, nhất là ở xã, phường. Công tác dân tộc, tôn giáo, vận động người Việt
Nam ở nước ngồi có tiến bộ11
+Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trị tập hợp, xây dựng khối đại
đồn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua,
nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất
nước12. Thơng qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khối đại đoàn kết toàn dân tộc - trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng - tiếp tục được mở
rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
*Hạn chế:
+Hoạt động MTTQVN và các đồn thể nhân dân ở nhiều nơi cịn mang tính hành chính, hình thức. Dân
chủ trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm 13
+Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở 14.
GIẢI PHÁP
- Do tính quần chúng rộng rãi nên phương châm, phương pháp hoạt động của các tổ chức này thể hiện ở
tính tự nguyện, dân chủ, hiệp thương, phối hợp hành động, cùng có lợi trong một mục tiêu chung. Các tổ chức
này cần quán triệt chức năng, nhiệm vụ cơ bản của mình trong quá trình đổi mới, cải cách là: vừa bảo vệ lợi ích
chính đáng của các thành viên; vừa tổng hợp, vận động đoàn kết giúp nhau chấp hành tốt đường lối của Đảng,
luật pháp và chính sách của Nhà nước vì lợi ích của mình và của toàn dân tộc.
11
12
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB CTQG HN, 2006, tr 60
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG Hà Nội 2011,, tr 158, 159
13
14
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB CTQG HN, 2006, tr 64
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. Hà Nội 2011,. tr 171
-Tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành
chính hố, phát huy vai trị nịng cốt tập hợp, đồn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững
mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại15.
-Tăng cường những hoạt động có tính Phản biện xã hội đối với các quyết sách chính trị của Đảng và
Nhà nước.
-Bên cạnh đó cần xây dựng những thiết chế cụ thể để bảo đảm cho nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến và
nguyện vọng của mình trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của chính bản thân họ, trong
việc tham gia xây dựng, quản lý nhà nước và xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường với nhiều thành
phần kinh tế, đại diện cho mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận trong nhân dân, một lực lượng xã hội. Cùng
với sự cạnh tranh kinh tế để phát triển là sự phân hóa giàu nghèo. Nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp ra đời. Sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ, sự giao lưu văn hóa sẽ tác động đến lối sống và cách nghĩ của mỗi
người và của mọi tầng lớp trong xã hội. Mặt khác, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu thực hiện chiến
lược “diễn biến hịa bình” nhằm chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta. Trong giai đoạn mới của cách mạng, với nền dân chủ ngày càng phát triển thì vai trị của Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân ngày càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề hơn.
Bởi vậy, việc tiếp tục nâng cao vai trị, vị trí của MTTQVN trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một
yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo
cho sự phát triển vững chắc của đất nước ta hiện nay.
11. Có ý kiến cho rằng: Để bảo đảm dân chủ thực sự và phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay,
Việt Nam nên chấp nhận cơ chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Quan điểm của đồng chí về vấn
đề trên như thế nào? xong
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ
đoạn tinh vi và quyết liệt. Cùng với các hoạt động phá hoại vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, trên các phương diện khác, chúng đặc biệt chú trọng lợi
dụng các trang mạng xã hội để tiến công ta.
Dưới những chiêu bài "dân chủ, nhân quyền”, một số người tự xưng mình là những người có "sứ mệnh", một số
người tự xưng là “trung thành “ với đảng, đấu tranh cho “dân chủ, nhân quyền” Việt Nam. Vậy thực chất quan
điểm chính trị của họ là gì? Họ thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt lợi dụng vấn đề
"dân chủ, nhân quyền" nhằm nói xấu chế độ, chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng,
Pháp luật của Nhà nước ở Việt Nam.
Điển hình là các hoạt động chống phá trên một số trang mạng xã hội, có cá nhân, thậm chí có những người dưới
danh nghĩa đảng viên “trung thành” viết và phát tán trên mạng internet với những hình thức khác nhau, nhiều
quan điểm sai trái, phê phán, thậm chí xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho
rằng: “Công cuộc đổi mới gần 30 năm… vẫn giữ ngun thể chế độc đảng tồn trị kìm hãm tự do, dân chủ và
chia rẽ dân tộc”. Dưới danh nghĩa "đóng góp", họ “kiến nghị” “thay đổi Cương lĩnh của Đảng, từ bỏ đường lối
sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng …”. Đây là việc làm vi phạm Điều lệ
Đảng, Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
15
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. Hà Nội 2011, tr 246
Nếu ai đó cho rằng, thể chế hiện nay là “độc đảng tồn trị kìm hãm tự do, dân chủ, chia rẽ dân tộc" và
kiến nghị “thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội" thì chẳng những họ đã
xuyên tạc lịch sử, mà còn là một sai lầm nghiêm trọng về tư tưởng, chính trị. Như chúng ta đều biết, sở dĩ Việt
Nam trụ vững sau sự kiện Liên Xô tan rã, Hoa Kỳ bao vây, cấm vận, đời sống của tuyệt đại đa số nhân dân
được cải thiện, chủ quyền quốc gia được giữ vững là nhờ có đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Về tư tưởng, chính trị, việc một số người kêu gọi thay đổi Cương lĩnh có nghĩa là xóa bỏ mục tiêu
xây dựng Việt Nam trở thành một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; là xóa bỏ chế
độ xã hội do “nhân dân làm chủ” với “Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (Cương
lĩnh 2011). Hơn nữa, điều này cũng có nghĩa là xóa bỏ cả quyền con người và quyền công dân được Cương lĩnh
2011 ghi nhận, đặc biệt được quy định tại Chương II, Hiến pháp năm 2013. Về kinh tế, việc kêu gọi xóa bỏ
Cương lĩnh cũng có nghĩa là xóa bỏ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối...”. Theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là “nền kinh tế thị trường”, nhất là từ khi Việt Nam trở
thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Về đối ngoại và quốc phòng, an ninh, họ kêu gọi xóa
bỏ Cương lĩnh cũng có nghĩa là xóa bỏ đường lối “Đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế…” ; là xóa bỏ đường lối quốc phòngan ninh “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Cương lĩnh
2011 đã xác định.
Nếu đi theo con đường mà một số người kiến nghị: “Trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị”… thì kịch bản
và hậu quả sẽ như thế nào? Họ không hề quan tâm đến sự khác biệt giữa các quốc gia, dân tộc, vùng miền; giữa
các nước ở phương Đông và phương Tây, cũng như đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán
của mỗi quốc gia, dân tộc, vùng miền. Bằng văn hóa và lối sống phương Tây, họ đang muốn phủ lên các quốc
gia, dân tộc đang phát triển “làn sóng văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây”, buộc mọi người phải thừa
nhận rằng, chỉ có văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây mới là hình mẫu chuẩn mực nhất. Họ đang hợp lý
hóa cho các hành vi bạo lực “đánh trước”, “đánh phủ đầu” nhằm “phòng, chống, ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố
để bảo vệ các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây”, kể cả chiến lược "DBHB". Ngay ở nước Mỹ tệ phân
biệt chủng tộc và bạo lực vẫn thường diễn ra.
Chúng ta hiểu rằng, chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chỉ là một trong những âm mưu, thủ đoạn DBHB mà các
thế lực thù địch đã và đang áp dụng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực
hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Vì thế, hai trong nhiều vấn đề
then chốt của các học thuyết “dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ
nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản. Họ sử dụng chiêu bài
“dân chủ, nhân quyền” nhằm mục đích từng bước phá hoại Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN ở nước ta, không
thừa nhận chế độ XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đồng tâm gắng sức xây đắp nên. Họ cũng cố
tình xuyên tạc, vu cáo Việt Nam "thiếu nền dân chủ", “vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo”, lấy đó làm
cớ để tuyên truyền sai lệch, nhằm kích động những phần tử bất mãn, phản động chống đối Đảng, Nhà nước ta,
tiến tới phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã lựa chọn.
Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh thần thánh để tự bảo vệ mình, tự giải phóng mình nên càng
thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là tồn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Vì vậy đương nhiên, nhân dân Việt
Nam sẽ biết nhìn nhận ai là bạn, ai là thù. Sự thật vẫn là sự thật và bản thân nó chứa đựng chân lý, khơng ai có
thể dùng ý muốn chủ quan để áp đặt. Cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản
khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Vị thế của đất
nước Việt Nam ngày càng được nâng cao, đời sống của gần 90 triệu người dân Việt Nam ngày càng được cải
thiện. Khách quốc tế, bạn bè khắp năm châu đến Việt Nam đều thấy một sự thật: Đất nước Việt Nam đã thay da
đổi thịt; dù còn nhiều việc phải làm, đời sống chưa thật sự khá giả, song chính trị-xã hội của đất nước ln ổn
định, cuộc sống thật sự có hịa bình, tự do, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, nhân dân thực sự là chủ nhân
của đất nước.
Cảnh giác, đấu tranh vạch trần các quan điểm tư tưởng sai trái thù địch, bịa đặt, bóp méo sự thật cũng chính là
sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước,
từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ vững “thế trận lịng dân”, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn
toàn. Cùng với đó là phối hợp làm tốt cơng tác vận động quần chúng, tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư,
thực hiện tốt phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; các tổ chức cựu chiến binh tích cực tham gia xóa đói
giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bồi đắp sự đồng thuận xã hội trong cộng đồng dân tộc, củng cố và tăng cường “thế
trận lịng dân” vững chắc. Góp phần bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị cho tồn Đảng, toàn dân và toàn
quân nâng cao cảnh giác cách mạng; tăng cường sức đề kháng và khả năng miễn dịch, làm thất bại mọi âm mưu
"DBHB" của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta./.
12. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước
trong thời kỳ đổi mới? xong
1. Quá trình hình thành đường lối đổi mới hệ thống chính trị
-Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị
-Đảng ta khẳng định đổi mới là một quá trình, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Phải tập trung đổi mới kinh tế trước hết, vì có đổi mới
thành công về kinh tế mới tạo được điều kiện cơ bản để tiến hành đổi mới hệ thống chính trị thuận lợi. Mặt
khác, nếu khơng đổi mới hệ thống chính trị, thì đổi mới kinh tế sẽ gặp trở ngại. Hệ thống chính trị được đổi mới
kịp thời, phù hợp sẽ là điều kiện quan trọng để thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế. Như vậy, đổi mới hệ
thống chính trị là đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
--Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định
“Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Báo cáo chính trị tại Đại
hội VII (năm 1991) nhấn mạnh, thực chất của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
-Về vấn đề này Đại hội IX cho rằng: “Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai
cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích gíai cấp cơng nhân thống nhất
với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay
là thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục
tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn
và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
-Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại đoàn kết tồn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với
nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hồ các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”.
-Nhận thức mới về cơ cấu và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.
-Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong
đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Khơng chấp nhận đa ngun chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có chức năng thể chế
hoá và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của
các đồn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan
đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; làm chủ
thông qua hình thức tự quản.
-Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính trị
-Trong tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
Thuật ngữ “xây dựng nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Trung ương 2 khoá VII
(1991). Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1991) và các Đại hội VIII, IX và X, Đảng
tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và làm rõ them nội dung của nó. Đó là:
Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội; người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền tự do sống và làm việc theo khả năng và
sở thích của mình trong phạm vi pháp luật cho phép.
Nhận thức mới về vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị.
-Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng quan
tâm xây dựng củng cố Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội, phát huy vai trò của các
thành tố này trong quản lý, điều hành xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi
mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.
- Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
-Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại hội X đã bổ sung một số
nội dung quan trọng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc”.
-Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương cơng tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có
đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đồn thể. Đảng không
làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”.
-Về vị trí, vai trị của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
-Trong q trình đổi mới, Đảng ta ln ln coi trọng việc đổi mưói phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị. Nghị quyết trung ương 5 khoá X về “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị” đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trị lãnh đạo, nâng
cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật
thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ
luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
-Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong
tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ đối với đổi mới các mặt của công tác xây
dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thích ứng với những địi hỏi của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập kinh tế quốc tế của
đất nước.
-Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên
định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thục hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân
chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là
cá nhân người đứng đầu.
-Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là cơng việc hệ
trọng, địi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững
chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm.
-Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi
ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng
cấp, từng ngành.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
-Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước
pháp quyền là một tất yếu lịch sử.
3. Đánh giá sự thực hiện đường lối
-Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều đổi mới góp phần xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng hướng
về cơ sở. Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp trong các khố đã có nhiều đổi
mới theo hướng phát huy dân chủ, cải cách hành chính, cơng khai các hoạt động của chính quyền, tăng cường
đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Dân chủ trong xã hội có bước phát triển. Trình độ và
năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.
-Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước được phân định rõ hơn, phân biệt quản lý nhà nước
với quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước được từng bước kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động
trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
-Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều đổi mới về tổ chức, bộ máy; đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, đa dạng hố các hình thức để tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân; phát
huy dân chủ; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền; hướng mạnh hoạt động về cơ sở, bước đầu thực hiện nhiệm vụ giám sát và
phản biện xã hội.
-Đảng đã thường xuyên coi trọng việc đổi mới và tự chỉnh đốn, giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong điều kiện mới. Phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, phong cách cơng tác có nhiều đổi mới và tiến bộ; dân chủ trong Đảng được phát huy,
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố.
-Tóm lại, hơn 20 năm qua, hệ thống chính trị đã thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng, đặc
biệt là quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá được phát huy.
-Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới nóichung, đường lối đổi mới hệ thống chính trị
nói riêng là đúng đắn sáng tạo, phù hợp thực tiễn, bước đầu đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, khắc phục dần
những khuyết, nhược điểm của hệ thống chun chính vơ sản trước đây. Kết quả đổi mới hệ thống chính trị đã
góp phần làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.
-Tuy nhiên trong thực tế vận hành hệ thống chính trị nước ta còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội chưa ngang tầm với địi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới.
-Việc cải cách nền hành chính quốc gia cịn rất hạn chế. Bộ máy hành chính cịn nhiều tầng nấc làm cho
việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả cao. Tình trạng quan liêu, hách
dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức nhà nước chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem
thường ở nhiều nơi.
-Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt
lúng túng.