Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 125 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

T THU HNG

CáC HàNH VI CạNH TRANH KHÔNG LàNH MạNH
CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI THEO PHáP LUậT VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

T THU HNG

CáC HàNH VI CạNH TRANH KHÔNG LàNH MạNH
CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI THEO PHáP LUậT VIệT NAM

Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NG V HUN

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Tạ Thu Hằng


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI ................................................................................... 7
1.1.

KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ........................................................ 7


1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh ................................................. 7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh............ 10
1.2.

HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ......................................................... 14

1.2.1. Khái quát chung về hoạt động của ngân hàng thƣơng mại ................ 14
1.2.2. Khái niệm, bản chất và đặc trƣng cơ bản hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại ..................................... 18
1.2.3. Hậu quả do các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân
hàng thƣơng mại gây ra ...................................................................... 26
1.3.

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI .................................. 29

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung cơ bản pháp luật về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh ............................................................... 29
1.3.2. Những đặc trƣng cơ bản của pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại ..................................... 36
Tiểu kết Chƣơng 1 ........................................................................................... 39


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................. 40
2.1.
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ........................................................... 40
2.1.1. Thực trạng các quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản
hƣớng dẫn thi hành về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
ngân hàng thƣơng mại ........................................................................ 40
2.1.2. Thực trạng các quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các
văn bản hƣớng dẫn thi hành về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh của ngân hàng thƣơng mại ........................................................ 43
2.2.
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................... 59
2.2.1. Thực trạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân
hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay .............................................. 59
2.2.2. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay ...................................... 65
2.3.
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................... 80
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc...................................................................... 80
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân ............................................................ 81
Tiểu kết Chƣơng 2 ........................................................................................... 87
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM CHỒNG HÀNH VI

3.1.

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNHCỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ......................................................... 88
YÊU CẦU VÀ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ................................. 88


3.1.1. Xu thế phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng thƣơng mại ở thị
trƣờng Việt Nam ................................................................................. 88
3.1.2. Một số định hƣớng hoàn thiện pháp luật ............................................ 90
3.2.

KIẾN NGHỊ VỀ CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ .................................... 93

3.2.1. Giải pháp thuộc các cơ quan quản lý nhà nƣớc nhằm chống hành
vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM ....................................... 93
3.2.2. Giải pháp đối với các ngân hàng thƣơng mại nhằm chống hành
vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM ..................................... 108
Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................... 112
KẾT LUẬN .................................................................................................. 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 115


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

CTKLM:

Cạnh tranh không lành mạnh


NHNN:

Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam

NHTM:

Ngân hàng thƣơng mại

TCTD:

Tổ chức tín dụng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dự thảo Lộ trình phát triển khu vực ngân hàng đến năm 2020 và đề
xuất Chiến lƣợc phát triển ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, đƣợc
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và các chuyên gia Cục Kinh tế Liên bang
Thụy Sỹ (SECO) xây dựng bao gồm các nội dung chính: Tầm nhìn chiến
lƣợc cho khu vực ngân hàng Việt Nam đến năm 2020; Các giá trị cốt lõi khu
vực ngân hàng Việt Nam cần theo đuổi để đạt đƣợc tầm nhìn; Các kế hoạch
và mục tiêu để chỉ dẫn và xác định quá trình thực thi các chiến lƣợc. Theo
đó, các chiến lƣợc cốt lõi đƣợc đề xuất trong bản lộ trình chiến lƣợc cho
ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, đƣợc phân thành 4 nội dung
chính: Tăng cƣờng cạnh tranh, ổn định, và đa dạng hóa các định chế ngân
hàng; Cải thiện tính hiệu quả hệ thống của khu vực ngân hàng thông qua
việc củng cố cơ chế thị trƣờng; Xây dựng một cơ chế giám sát thận trọng,
hiệu quả, tập trung và kiểm soát rủi ro hệ thống; Tăng cƣờng mức độ tiếp
cận với những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tới tất cả khách hàng tiềm
năng một cách hiệu quả. Báo cáo Lộ trình phát triển khu vực ngân hàng giai

đoạn 2011 - 2020 sau khi hoàn thiện là cơ sở để NHNN quyết định chiến
lƣợc phát triển ngành trong 10 năm tới, tạo ra bƣớc phát triển mới để hệ
thống ngân hàng Việt Nam có thể rút ngắn khoảng cách với nhóm các quốc
gia phát triển hàng đầu khu vực, đóng góp cho sự phát triển của đất nƣớc và
thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế 2011 - 2020 vừa đƣợc Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ XI thông qua.
Theo cam kết khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), kể từ
ngày 01/04/2009, các TCTD nƣớc ngoài đƣợc thành lập ngân hàng 100% vốn
nƣớc ngoài tại Việt Nam với các ràng buộc về vốn. Đây đang là sức ép rất lớn

1


đối với các NHTM trong nƣớc, bởi lẽ, với một thị trƣờng tài chính còn non
trẻ, chƣa có kinh nghiệm thích ứng và xử lý với những biến động của kinh tế
thị trƣờng, nhƣng lại có quá nhiều chủ thể cung ứng dịch vụ ngân hàng, bởi
vậy, việc bảo đảm cho các NHTM trong nƣớc có vị trí xứng đáng trên thị
trƣờng quả là công việc khó khăn, nhất là tiềm lực tài chính và kinh nghiệm
kinh doanh. Thực thi các cam kết quốc tế, các NHTM trong nƣớc buộc phải
thay đổi các phƣơng thức kinh doanh, đặc biệt là cần phải có các giải pháp để
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trƣờng khi có sự hiện diện của các
NHTM nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Mặc dù thời gian qua, các NHTM trong nƣớc cũng đã tập trung mọi
nguồn lực để nâng cao năng lực tài chính và mở rộng quy mô, tuy nhiên, vấn
đề cạnh tranh giữa các NHTM tại thị trƣờng Việt Nam cũng đang trở nên
nóng bỏng và khốc liệt. Là một lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm trong nền
kinh tế, ngành Ngân hàng cần phải có những quy định pháp lý hết sức chặt
chẽ và hiện đại để điều chỉnh kịp thời các hành vi cạnh tranh đa dạng và thay
đổi liên tục để duy trì môi trƣờng kinh doanh lành mạnh cho tất cả các TCTD.
Xuất phát từ mục tiêu duy trì và bảo vệ môi trƣờng cạnh tranh lành

mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của
các NHTM, tăng cƣờng nhận thức về pháp luật cạnh tranh, chống các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM ở Việt Nam, tác giả đã mạnh
dạn lựa chọn vấn đề: “Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân
hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
Luật học. Đây cũng là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về
phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cạnh tranh giữa các NHTM là một trong những vấn đề quan trọng,
phong phú và phức tạp trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, nên từ trƣớc đến

2


nay, nó cũng đƣợc một số nhà luật học đề cập đến trong các nghiên cứu của
mình. Tuy nhiên, vấn đề này chƣa đƣợc chú trọng quan tâm đúng mức.
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hành vi cạnh tranh giữa các
NHTM đã đƣợc đề cập chính thức tại Luật Ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các
Tổ chức tín dụng năm 1997, nhƣng chỉ là những quy định chung chung,
không rõ ràng. Đến năm 2004, cùng với sự sửa đổi, bổ sung hai luật trên, vấn
đề này đã đƣợc quy định cụ thể hơn trong Luật Cạnh tranh, tuy nhiên, chƣa có
sự phân biệt rõ giữa cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong hoạt động ngân
hàng - một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt. Sau thời điểm này, đã có thêm
những bài viết nghiên cứu, song ở khía cạnh kinh doanh hơn là pháp luật. Cụ
thể nhƣ: “Áp dụng Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng” của TS.
Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp chí Luật học số 06/2006; “Cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng – Nhìn từ góc độ pháp lý” của
TS. Nguyễn Kiều Giang đăng trên Tạp chí Luật học số 12/2007; “Hoàn thiện
pháp luật cạnh tranh của các tổ chức có hoạt động ngân hàng nhìn từ bất cập
và các yêu cầu” của ThS. Viên Thế Giang đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và

Pháp luật số 4/2008; “Hành lang pháp lý liên quan đến sáp nhập và thâu tóm
ngân hàng ở Việt Nam” của ThS. Bùi Thanh Lâm đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 11/2010; “Hoàn thiện pháp luật cạnh tranh ngân hàng trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện
năm học 2009 – 2010, Học viện Ngân hàng (Chủ nhiệm Viên Thế Giang)...
Một số công trình luận văn thạc sỹ nhƣ: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của các NHTM Việt Nam thông qua hoạt động sáp nhập và mua lại”,
Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Phạm Thị Tuyết Vân, Trƣờng Đại học Kinh tế
TP.Hồ Chí Minh, 2008; “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đến 2015”, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế,
Đặng Hoàng An Dân, Trƣờng Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, 2010... Các

3


công trình nghiên cứu khoa học trên đã đƣa ra những bàn luận và giải quyết
đƣợc một số vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật, song đều
nghiên cứu ở khía cạnh nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu của các công trình này cũng cho thấy, vấn đề cạnh tranh giữa các
NHTM mặc dù là một trong những chế định cơ bản nhƣng cũng là một trong
những chế định còn nhiều nội dung chƣa đạt đến sự đồng thuận và gây tranh
luận sôi nổi trong giới khoa học và kinh doanh từ trƣớc đến nay.
Trên cơ sở kế thừa những giá trị khoa học của các công trình nghiên
cứu trƣớc đây, Luận văn này tiếp tục đi sâu, phát triển nhằm hoàn thiện hơn
nữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng của
Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh, pháp
luật về cạnh tranh không lành mạnh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh,

pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng cạnh tranh không lành mạnh, pháp
luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam; chỉ
ra những bất cập, tồn tại trong cơ chế thực thi pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam.
- Đƣa ra định hƣớng và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề về lý luận, phân tích khái niệm, đặc điểm của
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tính đặc thù của cạnh tranh không lành
mạnh đƣợc thể hiện trong lĩnh vực ngân hàng, vai trò của pháp luật cạnh tranh
trong điều chỉnh lĩnh vực ngân hàng;

4


- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực ngân hàng, tính hiệu quả của cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam;
- Đề xuất, kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc tiếp cận nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận, quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Bên
cạnh đó, để đạt đƣợc mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả còn sử
dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cơ bản nhƣ: phƣơng
pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa trong khi tìm hiểu các quy phạm pháp
luật về cạnh tranh, về hoạt động ngân hàng từ trƣớc đến nay; phƣơng pháp so
sánh, khảo sát, đánh giá khi nghiên cứu thực trạng thực thi các quy phạm
pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng của Việt

Nam trên thực tiễn để đối chiếu, tìm ra những hạn chế và đề xuất hƣớng hoàn
thiện phù hợp. Các phƣơng pháp nghiên cứu này còn dựa trên sự tiếp thu
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là đổi
mới cơ chế kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chủ yếu về vấn đề cạnh
tranh không lành mạnh giữa các NHTM theo pháp luật Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: Kể từ những năm 90 trở đi, đất nƣớc chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa dẫn đến các TCTD
bắt đầu có sự cạnh tranh. Tuy nhiên, phải đến khi Luật Ngân hàng Nhà nƣớc
và Luật các Tổ chức tín dụng ra đời năm 1997, thì pháp luật về cạnh tranh
giữa các ngân hàng mới chính thức đƣợc ghi nhận. Do đó, luận văn sẽ đi sâu

5


nghiên cứu từ giai đoạn năm 1997 đến nay, trong đó, đặc biệt ƣu tiên trong
phạm vi 5 năm gần đây với sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật
Ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các Tổ chức tín dụng mới (đƣợc sửa đổi năm
2010). Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận, đánh giá thực
trạng và xu thế cạnh tranh hiện nay của các NHTM để có những kiến nghị, đề
xuất hợp lý nhất. Đồng thời, luận văn cũng có sự so sánh pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng của một số nƣớc nhƣ: Mỹ, Hunggari, Ba Lan,
Anh, Pháp… để tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện các quy
định pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần đáng kể về mặt lý luận
của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng.
-Về thực tiễn, Luận văn chỉ ra xu thế cạnh tranh của các NHTM ở Việt

Nam trong thời gian sắp tới; đánh giá đƣợc những điểm mạnh, điểm yếu của
pháp luật cạnh tranh giữa các NHTM hiện nay và đƣa ra những giải pháp góp
phần hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân
hàng. Ngoài ra, luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu, học tập tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành
luật ở nƣớc ta.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục
Luận văn đƣợc kết cấu với ba chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh của ngân hàng thƣơng mại.
Chƣơng 2: Thực trạng về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trƣờng – hình thức phát triển cao của nền kinh tế
hàng hóa - cạnh tranh đã trở thành quy luật then chốt và là một thuộc tính
quan trọng. Với tƣ cách là một trong những đặc trƣng cơ bản, đồng thời là
động lực phát triển của kinh tế thị trƣờng, khái niệm cạnh tranh đã đƣợc hiểu

từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Với tƣ cách là hiện tƣợng xã hội, P.A Samuelson & W.D.Nordhaus –
hai nhà kinh tế học Mỹ đã viết trong cuốn “Kinh tế học” (tái bản lần thứ 12)
rằng: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp nhằm cạnh tranh
với nhau để giành giật một đối tượng khách hàng hay một thị trường trong
lĩnh vực nào đó...”. Với tƣ cách là động lực nội tại trong mỗi một chủ thể
kinh doanh, cuốn “Black’Law Dictionary” diễn tả cạnh tranh là “sự nỗ lực
hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích
giống nhau từ chủ thể thứ ba” [42, tr. 278]. Từ điển Kinh doanh của Anh xuất bản
năm 1992 cũng định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các
nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản
xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình” [15, tr.19]. Từ điển Tiếng Việt
định nghĩa cạnh tranh là tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng nhƣ
nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về phía mình [41, tr. 258]. Cạnh tranh
cũng có thể đƣợc hiểu là hành vi của doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối

7


thủ của nhau cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống
nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo đƣợc hoặc để bị
mất đi một lƣợng khách hàng thƣờng xuyên [16, tr. 11].
Theo các cách giải thích trên, nếu nhìn từ phía các chủ thể của hành vi
thì cạnh tranh đƣợc coi là phƣơng thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm
năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của ngƣời tiêu dùng. Nếu
nhìn khái quát trên quy mô toàn xã hội thì cạnh tranh là phƣơng thức phân bổ
các nguồn lực, tài nguyên một cách tối ƣu, do đó là động lực bên trong của
nền kinh tế phát triển. Với những ý nghĩa quan trọng đó, thông qua việc đáp
ứng các nhu cầu và đem lại lợi ích cho ngƣời tiêu dùng, cạnh tranh có vai trò
điều tiết, phân phối thu nhập, đào thải tự nhiên đối với những doanh nghiệp

kinh doanh kém hiệu quả, dành lại chỗ đứng cho những doanh nghiệp giỏi, có
tiềm năng. Cạnh tranh thúc đẩy phát triển các ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và sáng tạo, đồng thời đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế
một cách hiệu quả nhất, góp phần tạo nên năng lực cạnh tranh cho mỗi doanh
nghiệp trên thị trƣờng.
1.1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh
Đƣợc nhìn nhận dƣới những góc độ khác nhau, với tính chất đa dạng và
phức tạp của quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế hiện đại, các định nghĩa
về cạnh tranh nêu trên đều đƣợc mô tả bởi 3 đặc trƣng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, với tƣ cách là hiện tƣợng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh
doanh, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những tiền đề nhất định sau đây:
- Có sự tồn tại của quan hệ thị trƣờng, trong đó có nhiều doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau. Bởi lẽ khi
trong một thị trƣờng nhất định nào đó chỉ có một doanh nghiệp tồn tại thì
chắc chắn nơi đó sẽ không có đất cho cạnh tranh nảy sinh và phát triển. Mặt
khác, khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp, song chúng chỉ thuộc về một

8


thành phần kinh tế duy nhất thì sự cạnh tranh chẳng còn ý nghĩa gì [22]. Cạnh
tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh tốt
hơn nếu các doanh nghiệp thuộc về các thành phần kinh tế khác nhau với
những lợi ích và tính toán khác nhau.
- Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu nhƣ các chủ thể có quyền tự do hành
xử trên thị trƣờng. Doanh nghiệp muốn chủ động tìm kiếm khả năng sinh tồn
và phát triển trên thị trƣờng cần có sự tự do, sự độc lập và tự chủ. Mọi kế
hoạch để sắp đặt các hành vi ứng xử, cho dù đƣợc thực hiện với mục đích gì
đi nữa, đều hạn chế khả năng sáng tạo trong kinh doanh.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa

các doanh nghiệp. Mức lợi nhuận của mỗi nhà kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận với
năng lực của bản thân họ trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, ngƣời
tiêu dùng trong xã hội, do đó các doanh nghiệp sẽ đua nhau lấy lòng khách
hàng. Từng thủ đoạn đƣợc sử dụng để ganh đua đƣợc gọi là hành vi cạnh
tranh của doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh tranh trên thị trƣờng làm cho
ngƣời chiến thắng mở rộng đƣợc thị phần và tăng lợi nhuận, làm cho kẻ thua
cuộc chịu mất khách hàng và phải rời khỏi thị trƣờng.
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng
tranh giành thị trƣờng mua hoặc bán sản phẩm. Trong kinh doanh, lợi nhuận
là động lực cho sự gia nhập thị trƣờng, là thƣớc đo sự thành đạt và là mục
đích hƣớng đến của các doanh nghiệp. Do đó, khi tham gia vào thị trƣờng,
doanh nghiệp luôn ganh đua để có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm
mở rộng thị trƣờng. Trên thị trƣờng, cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh
nghiệp có chung lợi ích tiềm năng về nguồn nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh
mua); hoặc về thị trƣờng đầu ra của sản phẩm (cạnh tranh bán) của quá trình
sản xuất. Việc có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, có chung
một nguồn lợi ích để hƣớng đến làm cho các doanh nghiệp có cùng mục đích
và trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau.

9


1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Trƣớc hết, cạnh tranh không lành mạnh là một khái niệm bắt nguồn từ
những quy định mang tính nguyên tắc trong pháp luật dân sự, theo đó, các chủ
thể trong giao dịch (dân sự hay thƣơng mại) phải đảm bảo tôn trọng thuần
phong, mỹ tục và đạo đức xã hội ở mỗi quốc gia. Với những quy định nhƣ
vậy, giao dịch thƣơng mại trên thị trƣờng cũng phải đảm bảo tôn trọng những
quy tắc trong xã hội về đạo đức kinh doanh. Sự phát triển đa dạng của các

quan hệ thƣơng mại trong điều kiện tự do cạnh tranh ở các nền kinh tế theo cơ
chế thị trƣờng đã kéo theo những hành vi cạnh tranh đa dạng, phức tạp nhằm
giành đƣợc lợi thế nhất định cho mình, thậm chí gây thiệt hại cho đối thủ cạnh
tranh khác, trong đó, có hành vi CTKLM.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh.
Hiểu theo nghĩa rộng, hành vi CTKLM bao gồm tất cả hành vi xâm hại
tới hoạt động cạnh tranh trên thị trƣờng, xâm hại tới quyền tự do cạnh tranh
công bằng của các doanh nghiệp. Theo cách quan niệm này, lƣợng hành vi bị
coi là hành vi CTKLM sẽ rộng lớn nhất bởi các hành vi hạn chế cạnh tranh
cũng thuộc vào phạm trù “cạnh tranh không lành mạnh" [32]. Tuy nhiên, điều
này sẽ tạo ra sự lẫn lộn trong cơ chế xử lý giữa hành vi hạn chế cạnh tranh và
hành vi CTKLM, bởi lẽ, hai loại hành vi trên có những đặc điểm khác biệt về
bản chất rất khó trộn lẫn với nhau.
Công ƣớc Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định về “cạnh
tranh không lành mạnh” (Điều 10bis – bổ sung vào Công ƣớc từ năm 1900),
theo đó bất cứ hành vi nào trái với tập quán trung thực trong hoạt động
thƣơng mại và công nghiệp đều bị coi là hành vi CTKLM [10, tr. 22]. Nhƣ
vậy, quan niệm nhƣ trong Công ƣớc Paris có phần hẹp hơn, chủ yếu hƣớng tới

10


các hành vi mang tính chất gian dối trong hoạt động thƣơng mại, không bao
hàm một số hành vi thƣờng cũng đƣợc coi là các hành vi CTKLM trong pháp
luật của nhiều quốc gia nhƣ hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của đối thủ
cạnh tranh, xâm phạm bí mật kinh doanh.
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 đƣa ra khái niệm hành vi
CTKLM nhƣ sau: “Hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức

kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng”.
Theo đó, nguyên tắc để xác định một hành vi đƣợc coi là CTKLM cụ thể nhƣ
sau: (i) Hành vi trái với chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, và
(ii) Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và
lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng.
Theo các quan niệm trên, khi đề cập đến hành vi CTKLM ngƣời ta
thƣờng nhấn mạnh đến tính “không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là
những hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ
thƣơng mại, mà hệ quả của những hành vi này có thể sẽ dẫn đến gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng, làm thay đổi tƣơng quan cạnh
tranh trên thị trƣờng.
Nhƣ vậy, các dấu hiệu để nhận biết hành vi CTKLM đó là: (i) Hành vi
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể,
xác định đƣợc trên cùng một phân khúc thị trƣờng; (ii) Hành vi trái với các
chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh; và (iii) hành vi gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng.

11


1.1.2.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Xuất phát từ khái niệm hành vi CTKLM nêu trên, có thể xác định một
số đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM nhƣ sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi CTKLM là các chủ thể kinh doanh
trong cùng một lĩnh vực nhất định trên thị trƣờng. Trên thị trƣờng cạnh tranh,
mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp cũng có thể là hành vi cạnh
tranh trong tƣơng quan với các doanh nghiệp khác, do đó, mọi hoạt động của

doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ
hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về CTKLM có thể can thiệp vào nhiều
hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế.
Thứ hai, hành vi CTKLM phải nhằm mục đích cạnh tranh . Có thể thấy
cạnh tranh là một vấn đề sống c ̣ òn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trƣờng. Quy luật cạnh tranh cũng giống nhƣ những quy luật tồn tại và đào thải
của tự nhiên, luôn khẳng định chiến thắng thuộc về kẻ mạnh. Do đó, để thu
đƣợc nhiều lợi nhuận, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau và đôi
khi họ sử dụng cả những cách thức, phƣơng pháp mà pháp luật không cho
phép, xâm phạm đến lợi ích của các đối thủ khác. Mục đích cạnh tranh là yếu
tố bắt buộc để xác định một hành vi là cạnh tranh lành mạnh hay không lành
mạnh. Nếu hành vi của doanh nghiệp, hiệp hội không nhằm mục đích cạnh
tranh thì đó không phải là hành vi CTKLM.
Thứ ba, hành vi CTKLM mang tính chất đối lập, đi ngƣợc lại các thông
lệ kinh doanh tốt đẹp, các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, có
thể hiểu là những quy tắc xử sự chung đã đƣợc chấp nhận rộng rãi và lâu dài
trong hoạt động kinh doanh trên thị trƣờng. Đặc điểm này phần nào thể hiện
nguồn gốc tập quán pháp của pháp luật về CTKLM, các quy định về CTKLM
đƣợc hình thành và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã hội,
không thể một sớm một chiều mà có đƣợc. Mặt khác, đặc điểm này cũng đòi

12


hỏi cơ quan xử lý về hành vi CTKLM phải có những hiểu biết và đánh giá sâu
sắc về thực tiễn thị trƣờng để phán định một hành vi có đi ngƣợc lại những
quy tắc xử sự chung trong kinh doanh tại một thời điểm nhất định hay không.
Thứ tư, hành vi CTKLM có đối tƣợng xâm hại cụ thể là các đối thủ
cạnh tranh, ngƣời tiêu dùng, lợi ích Nhà nƣớc hoặc các lợi ích xã hội khác.
Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là hiện thực (đã xảy ra) nhƣng

cũng có thể chỉ là tiềm năng (có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ
xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi). Do đó, một số hành vi CTKLM có cấu
thành vật chất (thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) nhƣ gièm pha doanh nghiệp
khác; một số hành vi có cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt
buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán nếu hành vi tiếp tục đƣợc thực hiện), ví dụ
hành vi quảng cáo không trung thực….
Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dƣới góc
độ lý thuyết hành vi CTKLM và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế
cạnh tranh là những xử sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có một
vị thế nhất định, có khả năng chi phối, lũng đoạn thị trƣờng, tác động làm
thay đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của
cạnh tranh đối với thị trƣờng. Hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại
cho một, một số đội tƣợng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm cản trở, làm
suy giảm hoặc sai lệch cạnh tranh [40, tr. 244]. Trong khi đó, hành vi
CTKLM chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho
ngƣời tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nƣớc mà
không cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của thị trƣờng. Vì
vậy, cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này khác nhau.
Nhƣ vậy, để xác định một hành vi là hành vi CTKLM phải có đủ bốn đặc
điểm trên. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm này thì hành vi đó không đƣợc coi
là hành vi CTKLM và không chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2004.

13


1.2. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI
1.2.1. Khái quát chung về hoạt động của ngân hàng thƣơng mại
1.2.1.1. Sơ lược về sự ra đời và phát triển các ngân hàng thương mại
ở Việt Nam

Theo Sắc lệnh số 15/SL của Chủ tịch nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ngày 05/05/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đƣợc ra đời. Giai đoạn
từ năm 1951 đến năm 1987, ở Việt Nam đã tạo lập hệ thống ngân hàng một
cấp, phù hợp với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung.
Quá trình chuyển đổi của hệ thống các ngân hàng Việt Nam theo định
hƣớng kinh tế thị trƣờng đƣợc chính thức ghi nhận kể từ thời điểm Chính phủ
ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng vào tháng 5/1990. Trong đó, lần đầu
tiên quy định hệ thống các ngân hàng Việt Nam đƣợc tổ chức làm hai cấp có
chức năng, nhiệm vụ phân biệt rõ ràng: Ngân hàng Trung ƣơng là cơ quan
phát hành tiền tệ và thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về tiền tệ - tín
dụng và các NHTM thực hiện chức năng kinh doanh, trung gian tài chính.
Hệ thống ngân hàng hai cấp tiếp tục đƣợc quy định trong Luật Ngân
hàng Nhà nƣớc và Luật các Tổ chức tín dụng 1997, tạo ra khung pháp lý cho
quá trình phát triển lâu dài của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình
đổi mới. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đƣợc phân loại dựa trên tiêu chí cấu
trúc vốn, bao gồm hai loại hình ngân hàng là ngân hàng trong nƣớc và ngân
hàng có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Ngân hàng trong nƣớc bao gồm các NHTM
nhà nƣớc, NHTM cổ phần. Ngân hàng có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài bao gồm
ngân hàng liên doanh, ngân hàng nƣớc ngoài, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài
và các văn phòng đại diện của ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt Nam. Theo thống
kê về Hệ thống tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam trên
website sbv.gov.vn [45], tính đến ngày 30/6/2015, ngoài hệ thống NHNN

14


gồm Hội Sở chính và 63 chi nhánh ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ƣơng, còn có hệ thống TCTD gồm: 03 NHTM nhà nƣớc; 34 NHTM cổ phần;
02 ngân hàng chính sách; 01 ngân hàng hợp tác xã (trƣớc là Quỹ Tín dụng
nhân dân Trung ƣơng); 17 công ty tài chính; 11 công ty cho thuê tài chính; 03

tổ chức tài chính vi mô; 04 ngân hàng liên doanh; 05 ngân hàng 100% vốn
nƣớc ngoài; 49 chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt Nam; 51 văn phòng
đại diện của TCTD nƣớc ngoài tại Việt Nam. Với hệ thống các TCTD và
NHTM nói trên, thị trƣờng tín dụng ở Việt Nam đang ngày càng sôi nổi và
tính chất cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn bao giờ hết.
Tại Luật các Tổ chức tín dụng 1997, lần đầu tiên hoạt động cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng đƣợc thể chế hóa, Điều 16 quy định về hợp tác và
cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, theo đó các tổ chức hoạt động ngân
hàng đƣợc hợp tác và cạnh tranh hợp pháp, nghiêm cấm các hành vi cạnh
tranh bất hợp pháp, gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia,
an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và lợi ích hợp pháp của các bên. Đến
Luật các TCTD 2010 đã cụ thể hóa nhiều quy định của Luật Cạnh tranh trong
lĩnh vực ngân hàng nhằm bảo đảm tính phù hợp giữa luật chung và luật
chuyên ngành, bảo đảm hoạt động kiểm soát, quản lý các hành vi cạnh tranh
trên thị trƣờng một cách tốt nhất.
1.2.1.2. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, NHTM thƣờng chiếm tỷ
trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lƣợng các ngân hàng.
Khoản 3 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 đã định nghĩa: “Ngân
hàng thƣơng mại là loại hình ngân hàng đƣợc thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này

15


nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Nói cách khác, NHTM là một doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ, là một TCTD thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể
trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển kinh tế,

tiêu dùng… cho xã hội.
Đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng, NHTM là một loại hình doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. NHTM có
những đặc điểm sau:
- NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt vì đối tƣợng kinh
doanh là tiền tệ, hoạt động tín dụng là đặc trƣng cơ bản đƣợc thực hiện chủ
yếu bằng cách thu hút vốn tiền tệ trong xã hội để cho vay. Sản phẩm NHTM
kinh doanh và làm dịch vụ là tiền và các chứng từ có giá nhƣ cổ phiếu,
thƣơng phiếu, hối phiếu, trái phiếu và tín phiếu. Đây là những sản phẩm cao
cấp của nền kinh tế thị trƣờng, đƣợc điều hành bởi nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn nhất định và đƣợc vận hành theo một quy trình chặt chẽ do pháp
luật quy định.
- Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh: Nguồn vốn phần lớn là
tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật
của NHTM là không sử dụng nguồn vốn sở hữu vào trong các hoạt động kinh
doanh của mình, nguồn vốn phần lớn là tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh
tế trong nền kinh tế. Trong khi các loại hình kinh tế khác lại sử dụng chủ yếu
nguồn vốn sở hữu vào các hoạt động kinh doanh. Điều này dẫn đến tính tự
chủ trong hoạt động kinh doanh của NHTM kém hơn và mức độ rủi ro cao
hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Sự khác biệt của NHTM với các định chế tài chính khác là NHTM có
quyền huy động tiền gửi trong nền kinh tế mỗi khi cần vốn để tiến hành các
hoạt động kinh doanh của mình. Không có một định chế tài chính nào ngoài
NHTM có thể nhận tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế.

16


- Khách hàng là những ngƣời đóng vai trò hai mặt đối với NHTM. Thứ
nhất, họ là những ngƣời cung cấp các điều kiện để NHTM hoạt động, họ là

những ngƣời tạo nguồn vốn cho NHTM. Thứ hai, họ là những khách hàng sử
dụng các sản phẩm của NHTM, nhƣ đi vay, sử dụng các dịch vụ thanh toán
của NHTM. Vì vậy, khách hàng chính là những ngƣời cung cấp đầu vào cho
NHTM và cũng chính là ngƣời sử dụng sản phẩm đầu ra của NHTM đó.
1.2.1.3. Về các hoạt động ngân hàng thương mại
a. Hoạt động huy động vốn: Hoạt động huy động vốn là hoạt động
thƣờng xuyên của NHTM. Bất kì một NHTM nào cũng bắt đầu hoạt động của
mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tƣợng huy động của NHTM là nguồn
tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cƣ, trong đó nguồn vốn quan trọng
nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM là tiền gửi
của khách hàng. Điều này có nghĩa là khách hàng đóng vai trò rất quan trọng
đối với các NHTM bởi họ vừa là đầu vào vừa là đầu ra trong hoạt động của các
ngân hàng. Do đó, các NHTM cần cung cấp các dịch vụ nhanh chóng, chính
xác, thuận tiện, bảo mật và đặc biệt quan trọng là có tính an toàn nhằm thu
hút, làm hài lòng các “thƣợng đế” của mình.
b. Hoạt động sử dụng vốn: Khi đã huy động đƣợc một số tiền nhất
định, các NHTM sẽ tìm cách để những khoản tiền đó đƣợc đầu tƣ đúng nơi,
đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng.
NHTM sử dụng vốn bằng những cách nhƣ: tài trợ lại cho nền kinh tế dƣới
dạng cho các thành phần kinh tế vay; hoặc đầu tƣ trực tiếp, tham gia góp vốn
cùng kinh doanh hay cho thuê tài sản; gửi tiền tại các ngân hàng khác (tại
NHNN, những TCTD khác); đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán... Trong đó,
sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp NHTM có vị trí ngày càng quan
trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho
vay, NHTM có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lƣợng tiền cung ứng. Điều

17


này có nghĩa, chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà tiền tệ là một

công cụ đƣợc Nhà nƣớc sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Do đó, hoạt
động kinh doanh tiền tệ của NHTM sẽ đƣợc Nhà nƣớc kiểm soát chặt chẽ hơn
so với các hoạt động kinh tế khác.
c. Thực hiện các dịch vụ trung gian: Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt
động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn, NHTM cũng thực hiện các
dịch vụ trung gian cho khách hàng của mình. Hoạt động trung gian gồm nhiều
loại dịch vụ khác nhau nhƣ: dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng; dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này đến tài
khoản khác trong cùng một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau; dịch
vụ tƣ vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính; dịch vụ giữ hộ các chứng từ,
vật quý giá; dịch vụ chi lƣơng cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu
trừ tự động… Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó
cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng.
Thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho NHTM
những khoản thu nhập khá quan trọng.
Ba lĩnh vực hoạt động trên là các hoạt động cơ bản của NHTM. Ba hoạt
động đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy
tín cho NHTM. Sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của
NHTM và tạo thành xu hƣớng kinh doanh tổng hợp đa năng của các NHTM.
1.2.2. Khái niệm, bản chất và đặc trƣng cơ bản hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại
1.2.2.1. Khái niệm, bản chất hành vi cạnh tranh không lành mạnh
của ngân hàng thương mại
Luật Cạnh tranh 2004 không có quy định nào định nghĩa cụ thể về hành
vi CTKLM của NHTM, tuy nhiên, Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 đã quy định
chi tiết các hành vi đƣợc coi là CTKLM nói chung, bao gồm: (i) Chỉ dẫn gây

18



×