Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.23 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG THỊ NGÂN

PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG THỊ NGÂN

PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Dƣơng Thị Ngân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO
HIỂM VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM ....... 7
1.1.
Khái quát về hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm ........................... 7
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm ..... 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tái bảo hiểm ............................... 9
1.2.
Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng tái bảo hiểm .............. 14

1.2.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hợp đồng tái bảo hiểm............ 14
1.2.2. Phân loại hợp đồng tái bảo hiểm ........................................................ 18
1.2.3. Hình thức và nội dung của hợp đồng tái bảo hiểm ............................ 23
1.2.4. Thành phần chủ thể và quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp
đồng tái bảo hiểm ............................................................................... 24
1.2.5. Ký kết và thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm ....................................... 26
1.2.6. Hiệu lực của hợp đồng tái bảo hiểm .................................................. 27
1.3.
Những vấn đề lý luận về pháp luật hợp đồng tái bảo hiểm.......... 29
1.3.1. Quan niệm về pháp luật hợp đồng tái bảo hiểm................................. 29
1.3.2. Mô hình cấu trúc của pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm và các
yếu tố chi phối, tác động đến pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm .... 31
1.3.3. Các yếu tố chi phối, tác động đến pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm .. 32
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 34
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO
HIỂM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM ..................... 35
2.1.

Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng tái
bảo hiểm ............................................................................................ 35


2.1.1. Quy định pháp luật về các chủ thể của hợp đồng tái bảo hiểm.......... 38
2.1.2. Quy định pháp luật về đối tượng của hợp đồng tái bảo hiểm ............ 41
2.1.3. Quy định pháp luật về hình thức và nội dung của hợp đồng tái
bảo hiểm ............................................................................................. 42
2.1.4. Quy định pháp luật về việc giao kết và hiệu lực của hợp đồng tái
bảo hiểm ............................................................................................. 45
Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm ở
Việt Nam ........................................................................................... 45

2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc ký kết hợp đồng tái bảo
hiểm tại Việt Nam .............................................................................. 46
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật trong việc thực hiện hợp
đồng tái bảo hiểm tại Việt Nam ......................................................... 51
2.2.3. Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá
trình thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm ............................................... 57
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 60
2.2.

Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM ............ 61
3.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tái
bảo hiểm ............................................................................................ 61

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tái
bảo hiểm của Việt Nam .................................................................... 64
3.2.1. Cần ban hành văn bản hướng dẫn riêng biệt đối với hoạt động
kinh doanh tái bảo hiểm và hợp đồng tái bảo hiểm ........................... 64
3.2.2. Tiêu chuẩn hóa mẫu hơ ̣p đồ ng tái bảo hiể m ...................................... 68
3.2.3. Đồng bộ hóa các giải pháp để nâng cao năng lực tham gia và hiệu
quả thực hiện của hợp đồng tái bảo hiểm........................................... 69
Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 76
3.2.

KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79



DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 2.1: Hoạt động tái bảo hiểm giai đoạn 2008 – 2012

Trang
53


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Bảo hiểm – một hiện tượng có nguồn gốc hình thành và phát triển dựa
trên sự tồn tại của các rủi ro và nhu cầu hạn chế, phân tán rủi ro – vốn không
còn là một vấn đề xa lạ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Khi hoạt động bảo
hiểm được chuyên nghiệp hóa, đó là cơ hội để các công ty bảo hiểm ra đời.
Tuy nhiên, đứng trước các rủi ro cần được “che chở” theo yêu cầu của khách
hàng, không phải công ty bảo hiểm nào cũng có đủ năng lực tài chính để theo
đến cùng các hợp đồng bảo hiểm. Khi đó, nhu cầu nhận bảo hiểm một phần
rủi ro và chia sẻ phần còn lại cho các công ty bảo hiểm khác đã tạo nền tảng
thúc đẩy sự ra đời của hình thức “đồng bảo hiểm” và “tái bảo hiểm”. Trong
bối cảnh đó, tái bảo hiểm trở thành một giải pháp hữu hiệu cho các công ty
bảo hiểm (bao gồm cả bên tái bảo hiểm và bên nhận tái bảo hiểm) có cơ hội
phát triển mạnh mẽ hơn, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng và nhờ đó
đưa ngành dịch vụ bảo hiểm phát triển lên một tầm cao mới.
Tại Việt Nam, cùng chung thực trạng với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng là một lĩnh vực rất mới mẻ.
Ngày 27/09/1994, Bộ Tài Chính ban hành Quyết định số 920TC/QĐ/TCCB

thành lập Công ty tái bảo hiểm Quốc Gia Việt Nam – Công ty tái bảo hiểm
đầu tiên tại Việt Nam (viết tắt là VINARE). Cho tới ngày 01/01/1995, Công
ty tái bảo hiểm Quốc Gia Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động, đánh
dấu sự hình thành thị trường tái bảo hiểm non trẻ tại Việt Nam [39]. Thực
trạng này là kết quả từ nhiều nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân cơ bản
phải kể đến đó là xuất phát điểm thấp của nền kinh tế - xã hội, sự thiếu hụt
về hành lang pháp lý, khoảng cách chênh lệch về mặt chuyên môn, công
nghệ, kỹ thuật và nhận thức chưa đầy đủ của các doanh nghiệp bảo hiểm về

1


tái bảo hiểm, dẫn đến sự ngần ngại khi tham gia vào hoạt động này trên thị
trường thế giới…
Trong khi đó, với bản chất “bảo hiểm cho những rủi ro đã được bảo
hiểm”, tái bảo hiểm đang là một trong các công cụ phòng ngừa rủi ro vô cùng
hữu ích cho các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam để giải quyết vấn đề về
năng lực tài chính khi nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro lớn hơn khả
năng tài chính của họ. Để hoạt động tái bảo hiểm phát huy được vai trò, ý
nghĩa đó, cũng như để các công ty bảo hiểm ở Việt Nam không ngần ngại khi
ký kết hợp đồng tái bảo hiểm và tham gia vào thị trường tái bảo hiểm thế giới,
một trong những vấn đề cấp thiết được đặt ra là nâng cao hiểu biết, hoàn thiện
khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tái bảo hiểm nói chung, hợp đồng tái bảo
hiểm nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn này, em lựa chọn đề tài “Pháp luật về
Hợp đồng tái bảo hiểm” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện tại đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về một số khía
cạnh của hoạt động bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng dưới góc độ
lý luận và thực tiễn, chẳng hạn như: thực trạng hoạt động tái bảo hiểm; cơ hội
của ngành bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới

(WTO); những thách thức mà ngành tái bảo hiểm cần vượt qua... Cụ thể:
- Cuốn sách “Bảo hiểm trong kinh doanh” của Tiến sĩ Hoàng Văn
Châu, Tiến sĩ Vũ Sĩ Tuấn, Tiến sĩ Nguyễn Như Tiến, Nhà xuất bản Khoa học
kỹ thuật, 2002;
- Cuốn sách “Một số điều cần biết về pháp lý kinh doanh bảo hiểm” của
Giáo sư – Tiến sĩ Trương Mộc Lâm, Giáo sư – Tiến sĩ Lưu Nguyên Khánh;
- Cuốn sách “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế bảo hiểm” của Phó Giáo
sư – Phó Tiến sĩ Bùi Tiến Quý, Phó Tiến sĩ Mạc Văn Tiến, Phó Tiến sĩ Vũ
Quang Thọ.

2


- Khóa luận tốt nghiệp “Chế độ pháp lý về kinh doanh tái bảo hiểm và
hướng hoàn thiện ở Việt Nam” của tác giả Trần Thị Hường.
- Khóa luận tốt nghiệp “Hợp đồng tái bảo hiểm theo pháp luật Việt
Nam và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
- Khóa luận tốt nghiệp“Bảo hiểm Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
phát triển” của tác giả Bùi Nhật Anh;
- Khóa luận tốt nghiệp “Hoạt động tái bảo hiểm và thực trạng thị trường
hoạt động tái bảo hiểm tại Việt Nam” của tác giả Trần Thị Minh Phương;
- Khóa luận tốt nghiệp “Hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Việt Nam hiện nay” của tác
giả Lê Thị Thanh Trang;
- Bài viết “Thị trường Bảo hiểm Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập
WTO” của Ông Phùng Khắc Lộc – Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
đăng trên tạp chí Phát triển Kinh tế số 213, tháng 7 năm 2008.
Đây thực sự là các công trình nghiên cứu có giá trị về khoa học và thực
tiễn. Tuy nhiên, hầu hết các đề tài nghiên cứu đã được thực hiện khá lâu và
còn mang tính riêng lẻ, do vậy ở khía cạnh nào đó chưa phản ánh đầy đủ thực

tiễn pháp luật hiện hành của nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng. Vì vậy trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, em mong
muốn tìm hiểu cụ thể hơn về các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng tái
bảo hiểm tại Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới, cũng như thực
tiễn áp dụng tại một số công ty bảo hiểm của Việt Nam. Bằng việc tập trung
đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và đồng bộ về các vấn đề pháp lý liên
quan tới hợp đồng tái bảo hiểm, đề tài sẽ làm rõ các vướng mắc tồn tại trong
quá trình thực thi pháp luật, và đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kinh doanh tái bảo hiểm nói chung và hợp đồng tái bảo
hiểm nói riêng.

3


3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Đề tài là tập trung nghiên cứu, đánh giá toàn
diện về các khía cạnh pháp lý liên quan tới Hợp đồng tái bảo hiểm trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm. Đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý,
hoàn thiện quy phạm pháp luật điều chỉnh và hướng dẫn về việc giao kết, thực
hiện và xử lý các vấn đề phát sinh từ hợp đồng tái bảo hiểm để các doanh
nghiệp bảo hiểm thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng
như có cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi tham gia các giao dịch này với các đối tác là các công ty tái bảo
hiểm trên thế giới, rút ngắn khoảng cách giữa hoạt động tái bảo hiểm trong
nước và quốc tế.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ cụ thể của đề tài là:
- Hệ thống hóa những kiến thức pháp lý trong quá trình lập, giải thích,
ký kết, thực hiện Hợp đồng tái bảo hiểm.
- Phân tích những nét đặc thù của Hợp đồng tái bảo hiểm, các vấn đề
cần lưu ý trong quá trình xem xét Hợp đồng tái bảo hiểm.

- Nhìn nhận, đánh giá các hệ thống pháp lý hiện tại của Việt Nam điều
chỉnh về Hợp đồng tái bảo hiểm, so sánh với hệ thống pháp lý của một số
quốc gia trên thế giới.
- Kiến nghị các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp lý liên
quan đến hợp đồng tái bảo hiểm.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm,
thực tiễn về xác lập và thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm phát sinh trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất
định, luận văn cũng có đề cập đến các hợp đồng tái bảo hiểm, thực tiễn xác
lập và thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm trên thế giới.

4


Phạm vi nghiên cứu của Đề tài tập trung vào các quy định pháp luật
điều chỉnh hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm và hợp đồng tái bảo hiểm tại
Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001 (năm bắt đầu có hiệu lực của Luật
kinh doanh bảo hiểm) trở lại đây.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Dựa trên nền tảng phương pháp luận là phép biện chứng duy vật, đề
tài luân văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích,
chứng minh, so sánh, tổng hợp, quy nạp, thống kê để làm rõ các nội dung
nghiên cứu trong đề tài.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài thể hiện những đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, luận văn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về hợp
đồng tái bảo hiểm, thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh tái
bảo hiểm và hợp đồng tái bảo hiểm tại Việt Nam và một số quốc gia khác trên
thế giới.
Thứ hai, luận văn chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành

về hoạt động tái bảo hiểm nói chung và hợp đồng tái bảo hiểm nói riêng. Đặc
biệt, luận văn tập trung tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về
bảo hiểm, tái bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm để từ đó phát hiện
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xác lập và thực hiện các hợp
đồng tái bảo hiểm ở Việt Nam.
Thứ ba, luận văn đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng tái bảo hiểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm ở Việt Nam.

5


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng tái bảo hiểm và pháp luật
về hợp đồng tái bảo hiểm.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm và
thực tiễn áp dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tái
bảo hiểm ở Việt Nam.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM VÀ
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM
1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh tái

bảo hiểm
Ra đời từ nhiều thế kỷ trước đây, bảo hiểm được xem là kết quả tất yếu
khách quan của sự tồn tại của các rủi ro và nhu cầu được bảo vệ trước các rủi
ro ấy. Công ty bảo hiểm, khi đó, được xem như là cầu nối trung gian để phân
tán các tổn thất, rủi ro của một số ít người cho nhiều người cùng chịu.
Tuy nhiên, khi mức độ của một rủi ro riêng biệt mà người được bảo
hiểm yêu cầu lớn hơn so với mức độ bình thường mà Công ty bảo hiểm có thể
chấp nhận được thì công ty có quyền từ chối hoặc tìm đến một cách thức giải
quyết hữu hiệu hơn là giữ lại một phần rủi ro và thu xếp chia sẻ rủi ro (đồng
bảo hiểm) hoặc thu xếp bảo hiểm lại cho rủi ro đó (tái bảo hiểm). Xuất hiện từ
giữa thế kỷ XIV, và đến thế kỷ XIX thì tái bảo hiểm đã trở thành một ngành
kinh doanh có tính hệ thống trên toàn thế giới. Ở giai đoạn đầu hình thành, tái
bảo hiểm chủ yếu phát triển tại châu Âu nơi có nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ và chủ yếu được tiến hành cho loại hình bảo hiểm vận chuyển hàng hải,
sau này dần dần được mở rộng sang bảo hiểm cháy, bảo hiểm nhân thọ.
So với thế giới, thị trường tái bảo hiểm tại Việt Nam còn rất sơ khai và
non trẻ. Hiện tại, trên cả nước mới chỉ có 02 công ty tái bảo hiểm bao gồm:
Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare) và Tổng công
ty cổ phần tái bảo hiểm PVI (PVIRe).
Ngày 15/11/1994, Công ty tái bảo hiểm đầu tiên tại Việt Nam –

7


VINARE chính thức được cấp Giấy phép thành lập, chính thức đi vào hoạt
động từ ngày 01/01/1995 với số vốn điều lệ hiện tại là 3000 nghìn tỷ
đồng. VINARE hoạt động kinh doanh chính trong lĩnh vực nhận và nhượng
tái bảo hiểm đối với tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ
trên thị trường trong và ngoài nước.
Sau 17 năm kể từ khi VINARE được thành lập và hoạt động như một

doanh nghiệp độc quyền trong ngành tái bảo hiểm, ngày 22/9/2011, PVIRe
chính thức ra mắt tại Hà Nội và trở thành công ty tái bảo hiểm thứ hai được
cấp phép hoạt động tại Việt Nam, với số vốn điều lệ 460 tỷ đồng. Đây là một
trong các đơn vị thành viên do PVI Holdings đầu tư 100% vốn điều lệ khi
thành lập. Ra đời với mục tiêu trở thành doanh nghiệp tái bảo hiểm chuyên
nghiệp, độc lập và có thương hiệu quốc tế đồng thời cung cấp thêm năng lực
tái bảo hiểm cho thị trường Việt Nam, PVI Re sẽ hướng tới mục tiêu cung
cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, tăng cường cung cấp các dịch
vụ tái bảo hiểm tại thị trường trong nước, từng bước mở rộng khai thác dịch
vụ trên phạm vi quốc tế.
Ngoài hai công ty tái bảo hiểm trên thì ở Việt Nam hiện nay còn một số
công ty bảo hiểm cũng tham gia kinh doanh tái bảo hiểm, điển hình như SVIC
(Tổng công ty cổ phần bảo hiểm SHB), công ty bảo hiểm PTI (Công ty bảo
hiểm dầu khí Việt Nam)… Theo ông Trịnh Thanh Hoan, Cục trưởng Cục
Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), trong thời gian tới số lượng công
ty tái bảo hiểm sẽ tăng thêm không nhiều. Đến năm 2015, thị trường bảo hiểm
Việt Nam dự kiến có 3 công ty chuyên kinh doanh tái bảo hiểm [34].
Mặc dù thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường tái bảo
hiểm Việt Nam nói riêng gặp nhiều khó khăn do tăng trường kinh tế thấp, đầu
tư công bị thắt chặt, đầu tư xã hội giảm, doanh nghiệp kinh doanh khó khăn
và ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng những năm gần đây thị

8


trường cũng đang dần hồi phục và bắt đầu sôi động. Bản thân các doanh
nghiệp bảo hiểm hàng đầu trong nước hiện nay như Bảo Việt, Bảo Minh hay
PVI khi nhận những hợp đồng lớn cùng không dám giữ lại nhiều nên việc
phải tái bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm quốc tế là điều tất yếu. Việc
nhận/nhượng tái bảo hiểm từ thị trường bảo hiểm nước ngoài đã tạo nên một

“kênh mới” nhằm tăng doanh thu phí nhận tái bảo hiểm, cũng như tận dụng
được năng lực của thị trường nước ngoài đối với những dịch vụ bảo hiểm đặc
thù mà thị trường Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm triển khai, hoặc năng
lực của thị trường trong nước không đáp ứng được [35].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tái bảo hiểm
1.1.2.1. Khái niệm về tái bảo hiểm
Xét về bản chất, tái bảo hiểm là một hoạt động bảo hiểm đặc thù, do
vậy, để hiểu đúng và đầy đủ hơn về khái niệm hoạt động tái bảo hiểm, trước
hết cần bắt đầu từ định nghĩa về hoạt động bảo hiểm. Có thể tham khảo các
định nghĩa sau về bảo hiểm [35]:
Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông
vào sự bất hạnh của số ít.
Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó,
một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là
phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người
thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền
bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm.
Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù
các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.
Theo Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ): Bảo hiểm là một cơ chế,
theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển

9


nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho
người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia
giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam được ban
hành ngày 09/12/2000, sửa đổi ngày 24/11/2010 thì:

Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo
hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm [1, Điều 3].
Theo tác giả Bùi Nhật Anh thì:
Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm
với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng
bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người
được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp
một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm [1].
Như vậy, hiểu một cách đơn giản thì bảo hiểm là một cách thức chuyển
giao rủi ro thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, theo đó bên
mua bảo hiểm thanh toán phí cho công ty bảo hiểm và công ty bảo hiểm cam
kết bồi thường cho người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện rủi ro theo thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm (sau đây xin gọi là sự kiện bảo hiểm). Bằng sự đóng
góp tài chính của số đông người vào một quỹ chung, khi có rủi ro, quỹ sẽ có đủ
khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Nói một cách cụ thể
hơn, mỗi cá nhân hay đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập
cho các công ty bảo hiểm, khi gặp tổn thất do rủi ro được bảo hiểm gây ra,

10


người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền bồi thường này được lấy
từ số phí mà tất cả những người tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên, chỉ có
một số người tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, còn những người không gặp tổn
thất sẽ mất không số phí bảo hiểm. Như vậy có thể thấy, thực chất của bảo
hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những

người tham gia bảo hiểm cùng chịu.
Nếu như bảo hiểm là sự phân chia tổn thất của một hoặc một số người
cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu thì tái bảo hiểm là sự
phân tán rủi ro của một công ty bảo hiểm cho một số công ty nhận tái bảo
hiểm cùng chịu. Hoạt động tái bảo hiểm là kết quả tất yếu trong quá trình phát
triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, là giải pháp chia sẻ, phân tán rủi ro
giữa các công ty bảo hiểm với nhau khi thực tế xảy ra trường hợp giá trị đơn
bảo hiểm quá lớn mà khả năng tài chính của từng công ty bảo hiểm lại có hạn.
Trong hoạt động tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc đóng vai trò là bên tham
gia bảo hiểm, còn công ty nhận tái bảo hiểm đóng vai trò là bên bảo hiểm trong
hợp đồng bảo hiểm lại (hợp đồng tái bảo hiểm). Nhờ hình thức này, công ty
bảo hiểm gốc được đảm bảo an toàn về tài chính và do đó họ có thể nhận bảo
hiểm cho các đơn bảo hiểm có giá trị lớn, sau đó lại tiến hành phân tán rủi ro
(chuyển giao rủi ro) sang công ty nhận tái bảo hiểm thông qua công cụ pháp lý
là hợp đồng tái bảo hiểm.
Như vậy, nói một cách ngắn gọn: Tái bảo hiểm là việc bảo hiểm lại
cho các nhà bảo hiểm. Một cách chi tiết hơn, tái bảo hiểm là loại nghiệp vụ
- dịch vụ tài chính do công ty tái bảo hiểm cung cấp cho khách hàng là
công ty bảo hiểm gốc để thu phí bảo hiểm, trên cơ sở chấp nhận toàn bộ
hoặc một phần rủi ro được chuyển giao từ công ty bảo hiểm gốc, thông qua
hợp đồng tái bảo hiểm.

11


Với bản chất này, tái bảo hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
đảm bảo an toàn về quyền lợi cho bên bảo hiểm gốc cũng như khách hàng của
họ trong hợp đồng bảo hiểm gốc.
1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng giống như các hoạt động

kinh doanh khác, đó là việc tối đa hóa lợi nhuận. Thị trường tái bảo hiểm
cũng giống như các loại thị trường khác có những đặc điểm cơ bản là:
Cung cầu sản phẩm luôn luôn biến động, giá cả sản phẩm phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, tính cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục, thị phần các doanh
nghiệp bảo hiểm luôn luôn thay đổi... Tuy nhiên, với đối tượng kinh doanh
đặc thù là dịch vụ tái bảo hiểm, hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng
mang những đặc điểm riêng khác biệt so với các loại hình hoạt động kinh
doanh khác. Cụ thể là:
Thứ nhất, bản chất của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động
phái sinh từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Do đó có thể thấy rằng hoạt
động kinh doanh tái bảo hiểm được hình thành và luôn gắn liền với hoạt động
kinh doanh bảo hiểm.
Thứ hai, đối tượng kinh doanh của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
chính là dịch vụ tái bảo hiểm. Dịch vụ này có bản chất là một loại hình dịch
vụ tài chính (theo quan niệm của WTO), do doanh nghiệp tái bảo hiểm thực
hiện một cách chuyên nghiệp theo yêu cầu của khách hàng là doanh nghiệp
bảo hiểm gốc, nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cho doanh nghiệp tái bảo hiểm
nhưng cũng đồng thời nhằm phân tán rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm gốc.
Thứ ba, thị trường tái bảo hiểm là một loại thị trường hoạt động có tính
cách chuyên biệt. Điều này thể hiện ở chỗ, chủ thể tham gia thị trường tái bảo
hiểm chỉ bao gồm các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau, trong đó mỗi doanh

12


nghiệp bảo hiểm có thể tham gia thị trường với tư cách là bên bảo hiểm (bên
nhận tái bảo hiểm) hoặc bên tham gia bảo hiểm (bên được tái bảo hiểm –
doanh nghiệp bảo hiểm gốc), tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng cung cấp
dịch vụ bảo hiểm theo các điều kiện kinh doanh tái bảo hiểm do luật định.
Thứ tư, thị trường tái bảo hiểm không bị bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ

mỗi quốc gia mà được mở rộng và mang tính chất quốc tế. Điều này thể hiện
ở chỗ, trong thị trường tái bảo hiểm, các sản phẩm tái bảo hiểm có thể được
cung cấp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
đang cùng hoạt động trong một lãnh thổ quốc gia (gọi là thị trường tái bảo
hiểm trong nước) hoặc được cung cấp qua biên giới giữa các doanh nghiệp
bảo hiểm đang hoạt động tại các quốc gia khác nhau (gọi là thị trường tái bảo
hiểm quốc tế).
1.1.2.3. Ý nghĩa của tái bảo hiểm
Với những đặc trưng trên đây, tái bảo hiểm có một số ý nghĩa cơ bản
như sau:
Thứ nhất, tái bảo hiểm đem lại sự an toàn và tránh rủi ro cho doanh
nghiệp bảo hiểm gốc khi họ phát hiện thấy có rủi ro đe dọa từ hợp đồng bảo
hiểm gốc đã được ký kết với khách hàng. Một trong những lý do để mua bảo
hiểm là người được bảo hiểm muốn giảm bớt lo âu về sự không chắc chắn của
tổn thất. Mua bảo hiểm tạo ra yếu tố an tâm. Tổ chức bảo hiểm cũng tìm kiếm
sự an toàn, an tâm và đạt được những điều này bằng việc tái bảo hiểm.
Thứ hai, tái bảo hiểm góp phần ổn định tỉ lệ bồi thường: tổ chức bảo
hiểm gốc có thể tránh sự biến động trong các khoản chi bồi thường trong một
năm và qua nhiều năm bằng việc tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm đảm bảo khả
năng thanh toán tiền bồi thường trong trường hợp xảy ra những thiệt hại lớn
hay những rủi ro mang tính thảm hoạ, chẳng hạn như một trận bão đánh vào
hàng nghìn hợp đồng trong cùng một sự cố. Nhờ đó tình hình tài chính và
hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm gốc ổn định hơn.

13


Thứ ba, tái bảo hiểm tăng cường khả năng nhận bảo hiểm khi tổ chức
bảo hiểm cho rằng mình không có khả năng tài chính tốt nhất để thực hiện
trách nhiệm bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, nhưng vẫn muốn ký kết

hợp đồng bảo hiểm vì mục tiêu duy trì và mở rộng thị phần. Vì vậy, bằng
cách tái bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm gốc có thể tăng khả năng để chấp nhận
dịch vụ, đặc biệt là đối với các công ty bảo hiểm mới thành lập, vốn kinh
doanh còn hạn chế. Người được bảo hiểm sẽ không phải lo lắng về việc tìm
công ty bảo hiểm nước ngoài để mua bảo hiểm. Điều này giúp cho hoạt động
kinh tế trong nước phát triển và hạn chế việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài,
hơn nữa còn tăng thu ngoại tệ thông qua việc bán bảo hiểm cho các cá nhân
và công ty nước ngoài.
Thứ tư, tái bảo hiểm đem lại lợi ích “vĩ mô” trên thị trường bảo hiểm:
lợi ích cuối cùng phải kể đến của tái bảo hiểm là chi phí rủi ro được dàn trải
trong toàn thị trường bảo hiểm thế giới. Rất nhiều tổ chức tái bảo hiểm hàng
đầu ở các nước như: Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Anh... bằng việc tái
bảo hiểm cho các tổ chức này và một số tổ chức khác, rủi ro của một quốc gia
được san sẻ trên toàn thế giới.
Như vậy có thể thấy rằng, bảo hiểm và tái bảo hiểm có mối liên kết rất
chặt chẽ. Bảo hiểm là tiền đề của tái bảo hiểm, ngược lại tái bảo hiểm giúp
bảo hiểm mở rộng phạm vi hoạt động của mình.
1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng tái bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hợp đồng tái bảo hiểm
1.2.1.1. Khái niệm hợp đồng tái bảo hiểm
Xét ở góc độ kinh tế, hợp đồng tái bảo hiểm là một phương thức,
nghiệp vụ kinh doanh của các công ty nhận tái bảo hiểm trên cơ sở chấp nhận
bảo hiểm lại cho trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm gốc để thu phí

14


tái bảo hiểm. Như vậy về bản chất kinh tế, tái bảo hiểm là hình thức phân tán
rủi ro giữa các công ty bảo hiểm.
Xét ở góc độ pháp lý, có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng tái bảo hiểm

như sau:
Hợp đồng tái bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo
hiểm với doanh nghiệp tái bảo hiểm, theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm cam kết chuyển giao một phần hoặc toàn bộ rủi ro và mức phí
tương ứng họ đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm với người thứ ba
cho doanh nghiệp tái bảo hiểm, còn doanh nghiệp tái bảo hiểm cam
kết trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [12].
Như vậy, hợp đồng tái bảo hiểm là bằng chứng, cam kết có giá trị pháp
lý cao nhất về quan hệ kinh doanh giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty nhận
tái bảo hiểm.
1.2.1.2. Bản chất của hợp đồng tái bảo hiểm
Xét về bản chất, hợp đồng tái bảo hiểm là một hợp đồng bảo hiểm vì hợp
đồng tái bảo hiểm thỏa mãn các dấu hiệu của một hợp đồng bảo hiểm. Tuy
nhiên, hợp đồng tái bảo hiểm mang những nét đặc thù so với hợp đồng bảo
hiểm thông thường. Cụ thể, trong hợp đồng tái bảo hiểm: công ty bảo hiểm gốc
là bên tham gia bảo hiểm, công ty nhận tái bảo hiểm là bên bảo hiểm, đối tượng
được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của công ty bảo hiểm gốc đối với khách
hàng của họ theo hợp đồng bảo hiểm gốc. Nói cách khác, hợp đồng tái bảo
hiểm luôn có bản chất là một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Bản chất
này của hợp đồng tái bảo hiểm cũng đã được ghi nhận rất rõ tại Luật Kinh
doanh bảo hiểm: “Nhận bảo hiểm lại một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm mà
doanh nghiệp bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm” [2, Điều 61].

15


Để hiểu rõ hơn bản chất của Tái bảo hiểm, cũng cần phân biệt giữa
“Tái bảo hiểm” và “Đồng bảo hiểm”. Mặc dù có điểm giống nhau giữa tái
bảo hiểm và đồng bảo hiểm là cùng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia

cho cùng một đơn vị rủi ro, nhưng giữa chúng có nhiều điểm khác nhau, có
thể kể đến như sau:
Thứ nhất, đối với việc ký kết hợp đồng, nếu như trong hoạt động tái bảo
hiểm, công ty bảo hiểm gốc đứng ra ký hợp đồng bảo hiểm với người tham
gia và sau đó phân chia trách nhiệm cho các công ty tái bảo hiểm theo sự thỏa
thuận giữa họ và các công ty tái bảo hiểm thì trong hoạt động đồng bảo hiểm,
việc ký hợp đồng do nhiều công ty bảo hiểm tiến hành, mỗi một công ty tham
gia đồng bảo hiểm đều phải ký tên vào giấy chứng nhận bảo hiểm.
Thứ hai, đối với việc trả tiền bồi thường, nếu như trong hoạt động tái
bảo hiểm, khi tổn thất xảy ra, trước hết công ty bảo hiểm gốc đứng ra bồi
thường cho người được bảo hiểm, sau đó mới đòi lại công ty tái bảo hiểm. Ở
đây người được bảo hiểm không có quan hệ trực tiếp với công ty tái bảo hiểm
thì trong hoạt động đồng bảo hiểm: khi tổn thất xảy ra các công ty tham gia
đồng bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường trực tiếp cho người bảo
hiểm theo tỷ lệ mà mình tham gia.
1.2.1.3. Đặc điểm của hợp đồng tái bảo hiểm
Từ kết quả phân tích trên đây về bản chất của hợp đồng tái bảo hiểm,
có thể nhận thấy rằng hợp đồng tái bảo hiểm – với tư cách là một loại hợp
đồng bảo hiểm đặc thù - có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hợp đồng tái bảo hiểm là loại hợp đồng “phái sinh” từ hợp
đồng khác là “hợp đồng bảo hiểm gốc”. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất
của tái bảo hiểm, vốn dĩ chính là việc công ty nhận tái bảo hiểm nhận bảo
hiểm lại cho các rủi ro của công ty bảo hiểm gốc phát sinh từ hợp đồng bảo

16


hiểm gốc mà công ty bảo hiểm gốc đã ký kết với khách hàng. Nói cách khác,
hợp đồng tái bảo hiểm chỉ tồn tại khi đã tồn tại một hợp đồng bảo hiểm gốc
giữa công ty bảo hiểm gốc với khách hàng của họ.

Thứ hai, các chủ thể tham gia hợp đồng tái bảo hiểm luôn bao gồm
các công ty bảo hiểm, trong đó có một bên là công ty bảo hiểm gốc (đóng
vai trò là bên tham gia bảo hiểm) và một bên là công ty nhận tái bảo hiểm
(đóng vai trò là bên bảo hiểm). Đây chính là điểm khác biệt so với hầu hết
các hợp đồng bảo hiểm thông thường (vốn dĩ có một bên là khách hàng tham
gia bảo hiểm – tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bảo hiểm, còn bên kia là
công ty bảo hiểm).
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng tái bảo hiểm luôn luôn là trách nhiệm
dân sự (trách nhiệm bồi thường bảo hiểm) của công ty bảo hiểm gốc đối với
khách hàng của họ, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm như đã thỏa thuận trong hợp
đồng bảo hiểm gốc. Điều này có nghĩa là, đối tượng của hợp đồng tái bảo
hiểm không đồng thời là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm gốc, mặc dù giữa
hai đối tượng đó có mối liên hệ với nhau.
Ví dụ: Công ty bảo hiểm A ký hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp B
để bảo hiểm cho số hàng hóa trong kho của doanh nghiệp này. Sau đó, công
ty bảo hiểm A ký kết hợp đồng tái bảo hiểm với công ty tái bảo hiểm C để
phân tán rủi ro phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm gốc đã ký kết giữa công ty bảo
hiểm A và doanh nghiệp B.
Trong tình huống này, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm gốc là hàng
hóa trong kho của doanh nghiệp B; còn đối tượng của hợp đồng tái bảo hiểm
lại là trách nhiệm trả tiền bồi thường bảo hiểm của công ty bảo hiểm A đối
doanh nghiệp B khi xảy ra sự kiện bảo hiểm đã được ghi nhận trong hợp đồng
bảo hiểm gốc giữa công ty bảo hiểm A với doanh nghiệp B.

17


Thứ tư, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tái bảo hiểm là nghĩa vụ
có đi có lại, theo nghĩa trao đổi. Nói khác đi, công ty bảo hiểm gốc và công ty
nhận tái bảo hiểm đều là trái chủ và người thụ trái của nhau. Cụ thể hơn, công

ty bảo hiểm gốc có nghĩa vụ chuyển phí bảo hiểm thu được cho công ty nhận
tái bảo hiểm theo một tỷ lệ nào đó và ngược lại công ty nhận tái bảo hiểm có
nghĩa vụ chi trả bồi thường cho công ty bảo hiểm gốc cũng theo một tỷ lệ nào
đó khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm khiến công ty bảo hiểm gốc phải bồi
thường cho người thụ hưởng (theo hợp đồng bảo hiểm gốc).
1.2.2. Phân loại hợp đồng tái bảo hiểm
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại hợp đồng tái bảo hiểm. Ở mức
độ khái quát, có thể hình dung việc phân loại hợp đồng tái bảo hiểm dựa vào
một số tiêu chí cơ bản sau đây:
1.2.2.1. Phân loại theo tiêu chí phương pháp tái bảo hiểm
Trên cơ sở các phương pháp tái bảo hiểm, hợp đồng tái bảo hiểm gồm
bốn loại hình chính:
Thứ nhất, hợp đồng tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (còn gọi là hợp
đồng tái bảo hiểm tỷ lệ): Đặc trưng của loại hợp đồng tái bảo hiểm này là số
tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền bồi thường được phân chia giữa công ty
bảo hiểm gốc và công ty nhận tái bảo hiểm theo một tỷ lệ nhất định. Hợp
đồng tái bảo hiểm tỷ lệ này lại gồm hai loại sau:
- Hợp đồng tái bảo hiểm số thành: Trong loại hợp đồng tái bảo hiểm
này, Công ty nhận tái bảo hiểm nhận một phần trách nhiệm về số tiền bảo
hiểm theo tỷ lệ giống nhau trên cùng một đơn vị rủi ro được bảo hiểm. Tỷ lệ
đó được xác định trước trong hợp đồng tái bảo hiểm trên cơ sở thỏa thuận
giữa các bên và tỷ lệ này được tuân thủ khi xác định phí tái bảo hiểm và phân
chia giá trị bồi thường thiệt hại.

18


- Hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi: Đặc trưng của loại hợp đồng tái
bảo hiểm này là Công ty bảo hiểm gốc xác định mức giữ lại số tiền bảo
hiểm trên mỗi đơn vị rủi ro, còn phần dôi ra thì tái bảo hiểm. Phí bảo hiểm

và phân bổ tiền bồi thường cũng được xác định trên cơ sở tỷ lệ giữa mức
giữ lại và mức dôi. Trong hợp đồng bảo hiểm mức dôi, tỷ lệ trách nhiệm bồi
thường không được ấn định khi ký kết hợp đồng mà chỉ hình thành trên cơ sở
phân chia trách nhiệm về số tiền bảo hiểm. Tỷ lệ đó sẽ là không giống nhau
đối với các đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm khác nhau.
Thứ hai, hợp đồng tái bảo hiểm theo mức bồi thường (còn gọi là hợp đồng
tái bảo hiểm không tỷ lệ): Đặc trưng của loại hợp đồng tái bảo hiểm không tỷ lệ
là việc phân chia trách nhiệm về số tiền bảo hiểm không đặt ra, còn vấn đề xác
định phí tái bảo hiểm và phân bổ số tiền bồi thường không bị ràng buộc bởi cùng
một tỷ lệ. Hợp đồng tái bảo hiểm theo mức bồi thường bao gồm:
- Hợp đồng tái bảo hiểm vượt mức bồi thường: Đối với loại hợp đồng
tái bảo hiểm này, công ty bảo hiểm gốc giữ lại mức bồi thường bằng một
khoản tiền nhất định. Phần thiệt hại phải bồi thường vượt quá mức đó sẽ
thuộc trách nhiệm của Công ty nhận tái bảo hiểm.
- Hợp đồng tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường: Theo loại hình hợp
đồng tái bảo hiểm này, công ty bảo hiểm gốc khống chế trách nhiệm bồi
thường của mình trong một phạm vi tỷ lệ nhất định (tỷ lệ tính cho cả năm
nghiệp vụ = Tổng số tiền bồi thường/tổng số phí gốc thực thu). Trong năm
nghiệp vụ những thiệt hại liên quan tới nghiệp vụ tái bảo hiểm phát sinh quá
nhiều và nặng nề, tỷ lệ bồi thường vượt quá tỷ lệ công ty bảo hiểm gốc giữ lại
thì công ty nhận tái bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm.
Thứ ba, hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp giữa số thành và mức dôi:
Trong loại hình hợp đồng tái bảo hiểm này, các bên xác định trách nhiệm về

19


×