Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NỘI DUNG ÔN THI CUỐI KỲ MÔN ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.47 KB, 21 trang )

NỘI DUNG ÔN TẬP THI CUỐI KÌ MÔN ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT
(04/2016)
PHẦN I: LÝ THUYẾT

1. Cho biết các giai đoạn phát triển của pháp luật về luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam ?
Sự phát triển của nghề luật sư được đánh dấu bằng sự ra đời của liên đoàn luật sư. Sự ra đời
của Liên đoàn luật sư Việt Nam (12/5/2009) đã đánh dấu một bước phát triển mới, tạo bước
ngoặt quan trọng trong việc đổi mới về tổ chức, hoạt động luật sư, khẳng định vị trí, vai trò
của luật sư trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ.
Lịch sử phát triển của nghề luật sư được ghi nhận qua các gia đoạn khác nhau sau đây:
1.Trước cách mạng tháng Tám.
Trước khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm, việc xét xử ở nước ta do vua quan
phong kiến tiến hành, không có sự tham gia của luật sư. Chỉ sau khi xâm lược Nam kỳ,
người Pháp ban hành Nghị định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang
quốc tịch Pháp tại Tòa án Pháp.
Với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam
không có quốc tịch Pháp được làm luật sư.
Người Việt Nam đầu tiên làm luật sư đó là ông Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông là
người làng Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Ông tốt nghiệp Đại học luật và làm luật sư tại
Paris. Ông là nhà yêu nước.
Năm 1926, Bác Hồ đã bị Tòa án Vinh của thực dân Pháp kết án tử hình. Ngày 6/6/1931,
khi Người đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài thì bị cảnh sát Anh bắt ở Hồng Kông.
Thực dân Pháp tìm mọi cách yêu cầu chính quyền Anh giao Người cho thực dân Pháp ở
Đông Dương. Trong tình thế đó, nhờ tài ứng xử tuyệt vời của người và có sự giúp đỡ,
bênh vực tích cực của luật sư Lô - dơ - bai (người anh), chính quyền anh ở Hồng Hông đã
phải trả tự đo cho Người vào đầu năm 1932.
2. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến đại thắng mùa xuân 1975.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cộng hòa Việt Nam ra
đời. Ngày 10/10/1945 chủ tịch nước kí sắc lệnh số 46/SL về đoàn luật sư. Pháp lệnh đã quy
định những vấn đề phù hợp với chế độ mới như:
Các luật sư được bào chữa ở tất cả các tòa án từ cáo tỉnh trở nên và các tòa án quân sự.


Điều kiện trở thành luật sư: Công dân Việt Nam không kể là nam hay nữ, có bằng cử nhân
luật, có hạnh kiểm tốt, đã được tập sự 3 năm ở văn phòng luật sư.
Đoàn luật sư Hà Nội bầu ra đoàn luật sư nếu thuôc hạt có 10 văn phòng luật sư trở nên. Nếu
không đủ văn phòng Đoàn luật sư được thành lập ra Ban luật sư để điều hành hoạt động của
Đoàn.
Chỉ tiếc rằng ngay sau đó, ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ
khi Hiến pháp 1946 chưa được công bố chính thức. Trong kháng chiến, các luật sư đều tham

1


gia công tác tại các cơ quan quân, dân, chính, đảng. Để khắc phục tình trạng thiếu luật sư,
Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định chế định bào chữa viên cho các bị cáo tại các
Tòa án. Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng cho người không phải là luật sư cũng
được bảo vệ quyền và lơi ích hợp pháp của các đương sự trong các vụ án dân sự.
3.Giai đoạn từ 1975 đến nay.
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng ngày 30/4/1975, đất nước ta đã thống nhất.
Hiến pháp năm 1980 và Hiến Pháp năm 1992 đều quy định quyền bào chữa của bị cáo được
bảo đảm.Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp
lý.Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư đầu tiên được ban hành ngày 18/12/1987.
Đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho
quá trình phát triển nghề luật sư ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Chỉ sau gần 10 năm, ở
hầu hết ở các tỉnh, thành phố đã thành lập được đoàn luật sư, với đội ngũ luật sư lên tới hàng
nghìn người. Hoạt động nghề nghiệp luật sư cũng đã có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc
tham gia tố tụng, các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động nghề nghiệp sang lĩnh vực tư
vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
4. Giai đoạn đổi mới đất nước.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ trương, biện pháp
cải cách mạnh mẽ đổi mới tổ chức hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và thúc đẩy quá trình hội nhập của đất nước. Pháp

lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải
cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá
đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp
của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam.
Chỉ sau 5 năm thi hành, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc
biệt, đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp
danh. Trong tham gia tố tụng, nhiều luật sư đã dần khẳng định trình độ chuyên môn, bản lĩnh
nghề nghiệp khi tham gia tranh tụng tại các phiên tòa. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư
cũng đã có bước phát triển đáng kể, đặc biệt là tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực đầu
tư, kinh doanh, thương mại ngày càng nhiều và ngày càng nâng cao về chất lượng dịch vụ.
Có thể nói Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh
mẽ nghề luật sư đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế – quốc tế ở Việt Nam.

2. Theo quy định Luật luật sư Việt Nam, trình bày khái niệm luật sư, và điều kiện hành nghề
luật sư ở Việt Nam?
Để trở thành Luật sư tại Việt Nam, một cá nhân có thể mất một thời gian ít nhất là trên 6 năm(hoặc dài hơn) vì phải
hoàn thành các khóa học, chương trình học, tập sự, kiểm tra theo quy định.
Các điều kiện cơ bản để trở thành Luật sư bao gồm:
1/ Có bằng cử nhân Luật:
Tức là cá nhân phải tốt nghiệp trường Luật, khoa Luật của trường Đại học (thông thường là 4 năm học)
2/ Có bằng tốt nghiệp chương trình đào tạo Luật sư:
Lớp học được đăng ký tại Học viện tư pháp (quy định hiện hành được học trong 12 tháng), sau đó đạt kết quả qua kỳ
thi tốt nghiệp của Học viện tư pháp, và được cấp bằng tốt nghiệp lớp Luật sư

2


3/ Trải qua kỳ tập sự tại Tổ chức hành nghề Luật sư:
Sau khi tốt nghiệp lớp đào tạo Luật sư, cá nhân bắt buộc phải đăng ký tập sự tại 1 tổ chức hành nghề Luật sư với thời
gian 12 tháng.

4/ Đạt điểm tại kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề Luật sư:
Sau khi hoàn thành thời gian tập sự, người tập sự được tham gia kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề Luật sư. và nếu đạt
điểm thì được cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư. nếu không đạt điểm theo quy định thì được gia hạn tập sự và tham
gia kỳ kiểm tra lại.
Và nếu kỳ kiểm tra lại vẫn chưa đạt điểm qua thì người tập sự hành nghề Luật sư phải đăng ký tập sự lại từ đầu (12
tháng nữa).
5/ Cấp chứng chỉ và gia nhập đoàn Luật sư, cấp thẻ hành nghề Luật sư:
Nếu đạt kết quả trong kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề Luật sư thì cá nhân làm hồ sơ theo quy định để xin cấp chứng
chỉ hành nghề Luật sư do Bộ tư pháp cấp, cấp thẻ hành nghề Luật sư do Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp.
6/ Hành nghề Luật sư:
Sau khi được cấp chứng chỉ, gia nhập đoàn, cấp thẻ hành nghề Luật sư thì Luật sư được lựa chọn tổ chức hành nghề
Luật sư để hành nghề, hoặc hành nghề với tư cách cá nhân và phải đăng ký với Sở tư pháp địa phương nơi hành
nghề.
7/ Quy định khác:
a/ Miễn, giảm thời gian tập sư hành nghề Luật sư:
b/ Miễn kiểm tra tập sư hành nghề Luật sư:

3. Theo quy định Luật luật sư Việt Nam, hãy cho biết các hình thức tổ chức hành nghề luật
sư ở Việt Nam? Phân tích sự khác biệt giữa các tổ chức hành nghề luật sư theo Luật luật
sư và các loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp?
Nội dung

tổ chức hành nghề luật sư theo loại hình doanh nghiệp theo Luật
Luật luật sư
doanh nghiệp
1. Các hình thức -văn phòng luật sư ( hoạt động
tổ chức
theo loại hình doanh nghiệp tư
nhân)
-công ty luật ( bao gồm công ty

luật hợp danh và công ty luật
trách nhiệm hữu hạn)
2. so sánh
-do 1 cá nhân làm chủ,thành lập
2.1.doanh
-luật sư thành lập văn phòng luật là chủ doanh nghiệp tư nhân
nghiệp tư nhân
sư là Trưởng văn phòng, là
người đại diện theo pháp luật của
văn phòng

-gồm thành viên hợp danh và
2.2.công ty hợp
danh
-do ít nhất 2 luật sư thành lập, thành viên góp vốn
không có thành viên góp vốn
2.3.công
ty
-do ít nhất 2 luật sư thành lập
trách nhiệm hữu

-thành viên có thể là tổ chức, cá
nhân, số lượng không quá 50

3


- do 1 tổ chức hoặc 1 cá nhân
-do 1 luật sư thành lập và làm làm chủ sở hữu
2.4.công

ty chủ sở hữu
- giám đốc được bổ nhiệm hoặc
trách nhiệm hữu -luật sư làm chủ sở hữu công ty thuê
hạn 2 thành viên

hạn 1 thành viên luật TNHH 1 thành viên đồng
thời là giám đốc công ty

4. Nêu và so sánh khái niệm dịch vụ pháp lý theo quy định của WTO và pháp luật Việt
Nam?
Dịch vụ pháp lý là một loại dịch vụ được cung cấp bởi các luật sư hành nghề luật nhằm
giải quyết hoặc cung cấp các giải pháp pháp lý đối với các vấn đề phát sinh từ mọi hoạt
động của đời sống cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Theo quy định của điều 4 và điều 22 thì có thể hiểu dịch vụ pháp lý của luật sư và phạm
vi hành nghề luật sư là 1, có chăng phạm vi hành nghề luật sư là sự cụ thể hóa của dịch
vụ pháp lý của luật sư

Theo quy định Luật WTO1

Theo quy định pháp luật Việt
Nam

1 Hoàng Thị Vịnh, “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam”, 2014.

4


Khái
niệm
Dịch

vụ
pháp


Theo nghĩa rộng, dịch vụ pháp lý (DVPL)
bao gồm dịch vụ tư vấn, dịch vụ tranh tụng cũng
như toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc thi
hành công lý (như hoạt động của thẩm phán, công
tố viên, v.v...). Tuy nhiên, loại hoạt động liên quan
đến thi hành công lý bị gạt ra ngoài phạm vi của
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO
(viết tắt là GATS), bởi vì ở hầu hết các nước, các
hoạt động này được coi là “loại dịch vụ được cung
cấp để thi hành thẩm quyền của Chính phủ” theo
Điều I (3) (c) GATS (dịch vụ được cung cấp
không trên cơ sở thương mại cũng như không trên
cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người cung
cấp).
WTO không định nghĩa dịch vụ mà chỉ định
nghĩa dịch vụ theo từng phân ngành cụ thể và qua
các phương thức cung cấp dịch vụ. Theo phân loại
của WTO, dịch vụ được chia thành 11 ngành
chính, mỗi ngành chính lại phân chia thành nhiều
phân ngành nhỏ, tổng số gồm 155 phân ngành.
Việc phân loại này được quy định trong tài liệu
MTN.GNS/W/120 của WTO. Dịch vụ kinh doanh
là một trong 11 ngành chính và DVPL là một phân
ngành của Dịch vụ kinh doanh.
Theo “Bảng phân loại các ngành dịch vụ”
của WTO (Tài liệu mã số MTN.GNS/W/120) thì

“(a) dịch vụ pháp luật” được liệt kê với tư cách là
tiểu ngành dịch vụ của “ (A) dịch vụ chuyên môn”
nằm trong ngành dịch vụ thứ nhất: “1. Dịch vụ
kinh doanh”, tương ứng với mã số CPC 861 của
Liên hợp quốc, “dịch vụ pháp luật” được chia
thành nhiều loại:
- Dịch vụ tư vấn và tranh tụng trong nhiều
lĩnh vực pháp luật (CPC 8611);
- Dịch vụ tư vấn và tranh tụng liên quan đến
luật hình sự (CPC 8611);
- Dịch vụ tư vấn và tranh tụng về các thủ tục

Cho đến nay, chưa có một
khái niệm hoàn chỉnh về DVPL.
Hiện có nhiều quan niệm khác
nhau về DVPL. Như:
Theo Từ điển Luật học của
Viện Khoa học pháp lý, "DVPL là
loại hình dịch vụ do những tổ
chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến
thức và chuyên môn pháp luật
được Nhà nước tổ chức hoặc cho
phép hành nghề thực hiện, nhằm
đáp ứng nhu cầu được biết, được
tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý
của các tổ chức, cá nhân trong xã
hội".
Theo Nguyễn Văn Tuân2,
“DVPL với khái niệm nội hàm của
nó có thể hiểu là tổng thể các dịch

vụ tư vấn pháp luật và dịch vụ đại
diện pháp lý”. Theo đó, phạm vi
DVPL được xác định gồm: Dịch
vụ tư vấn pháp luật; Dịch vụ đại
diện pháp lý (trong tố tụng tư pháp,
trong thủ tục hành chính, tố tụng
trọng tài và đại diện theo uỷ quyền
về những vấn đề liên quan đến
pháp luật; Các hoạt động DVPL
khác (soạn thảo hợp đồng, các giấy
tờ pháp lý...).
Luật Luật sư 2006 được sửa
đổi, bổ sung năm 2012 Điều 4 quy
định về dịch vụ pháp lý bằng cách
liệt kê như sau: “Dịch vụ pháp lý
của luật sư bao gồm tham gia tố
tụng, tư vấn pháp luật, đại diện
ngoài tố tụng cho khách hàng và
các dịch vụ pháp lý khác”.

2 Nguyễn Văn Tuân, 2014, Pháp luật về luật sư và đạo đức nghề nghiệp luật sư, Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự
thật Hà Nội, trang 141-142.

5


tại tòa án liên quan đến các lĩnh vực pháp luật
khác (CPC 86119);
- Dịch vụ tư vấn và tranh tụng về các thủ tục
theo quy định của luật thành văn tại các tổ chức

mang tính tòa án (CPC 8621/862120);
- Dịch vụ cung cấp và chứng nhận hồ sơ
pháp luật (CPC 8613/86130);
- Dịch vụ khác về thông tin pháp luật và tư
vấn (CPC 8619/86190);
Như vậy, Ủy ban thống kê của Liên hợp
quốc phân biệt các DVPL theo tiêu chí lĩnh vực
luật hình sự hay các lĩnh vực pháp luật khác hoặc
theo tiêu chí thủ tục tại tòa án hay thủ tục tại các
cơ quan tài phán ngoài tòa án. Cần nhận thấy rằng
các tiêu chí phân loại này không phản ánh được
thực tiễn thương mại DVPL. Trên thực tế, các
nước thành viên WTO khi cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ đã phân biệt các DVPL dựa trên
tiêu chí theo đó DVPL được cung cấp là pháp luật
nào, pháp luật nước mình (home country law),
pháp luật của nước tiếp nhận dịch vụ (host
country law), pháp luật nước thứ ba hay pháp luật
quốc tế. Tiêu chí này phản ánh mức độ mở cửa thị
trường DVPL. Đó là các mức độ sau:
- Pháp luật của nước tiếp nhận dịch vụ (tư
vấn/tranh tụng);
- Pháp luật nước mình và/ hoặc pháp luật
nước thứ ba (tư vấn/tranh tụng);
- Pháp luật quốc tế (tư vấn/tranh tụng);
- Dịch vụ chuẩn bị hồ sơ và chứng nhận
pháp luật;
- Các dịch vụ khác về tư vấn và thông tin
pháp luật.
Thành viên WTO có thể cho phép luật sư

nước ngoài thực hành pháp luật trong nước, luật
quốc tế và luật nước mình hoặc luật nước thứ ba.

Chủ thể thực hiện dịch vụ pháp lý
trong tố tụng : luật sư, người đại
diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, bào chữa viên
nhân dân, người khác theo quy
định của pháp luật tham gia với tư
cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
Bên cạnh hoạt động hành nghề luật
sư còn có hoạt động trợ giúp pháp
lý miễn phí theo quy định của luật
trợ giúp pháp lý 2006 và hoạt động
tư vấn pháp luật của tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề
nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, cơ
sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên
ngành luật theo nd 77/2008. Những hoạt
động này có là dịch vụ pháp lý hay
không?
Phạm vi dịch vụ pháp lý có thể được xác
định như sau;
Dịch vụ tư vấn pháp luật
Dịch vụ đại diện pháp lý ( trong tố tụng tư
pháp, thủ tục hành chính, tố tụng trọng
tài, đại diện theo ủy quyền)
Các hoạt động dịch vụ pháp lý
khác ( soạn thảo hợp đồng, các giấy tờ
pháp lý..)


-theo điều I(3), GATS, dịch vụ pháp lý bao gồm “ các
dịch vụ về tư vấn và đại diện cũng như tất cả các hoạt
động khác liên quan tới tố tụng” ( như hoạt động của
thẩm phán, thư ký tòa án, công tố,..)

6


-tuy nhiên, hoạt động liên quan tới tố tụng đã bị
loại bỏ ra khỏi phạm vi của GATS bởi hầu hết các
quốc gia thì đây là loại hình dịch vụ do chính phủ thực
hiện

Tóm lại, khái niệm DVPL theo luật của WTO khác với DVPL theo luật Việt Nam
như sau:
- Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam có hoạt động liên quan những hoạt động liên quan
đến thi hành công lý trong trường hợp luật sư đó được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định
(trường hợp này tương tự luật sư công).
- Ngoài ra, với tinh thần “nội luật hóa” các cam kết đối với các thành viên WTO,
nên hầu hết các chủ thể là thành viên thực hiện đúng cam kết mở cửa thị trường DVPL.
Trên thực tế, WTO chỉ quan tâm đến sự tuân thủ về pháp lý và thực tế trong việc thực
hiện cam kết, nghĩa vụ GATS, không quan tâm đến phương pháp và biện pháp thực hiện
của mỗi thành viên. Do đó, các thành viên có thể tự ý lựa chọn cho mình phương pháp
phù hợp.3
Vì vậy, với những khác biệt về hệ thống pháp luật quốc gia, nên DVPL ở Việt Nam
cũng có điểm khác biệt riêng, tuy nhiên, vẫn dựa trên nền tảng pháp luật WTO.

5. Hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam.
6. Trình bày nội dung cơ bản của hợp đồng dịch vụ pháp lý. So sánh nội dung giữa hợp

đồng dịch vụ thông thường và hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Giống nhau: theo như quy định BLDS thì “hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận giữa

các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ,
còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ .” Đối tượng
của hợp đồng dịch vụ là một công việc cụ thể, không bị pháp luật cấm và không
trái đạo đức xã hội. Bên cung ứng dịch vụ sẽ bằng công sức và trí tuệ để hoàn
thành công việc đã nhận và không được giao cho người khác làm thay, trừ trường
hợp bên thuê dịch vụ đồng ý
1. Nêu rõ nội dung, thời hạn thực hiện hợp đồng.
3 Tăng Thị Thúy, Luận văn Th.S Pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong tương
quan với quy định của tổ chức thương mại thế giới, trang 25.

7


2. Đều nêu quyền và nghĩa vụ của các bên
3. Thỏa thuận về phí dịch vụ, nếu các bên không có thỏa thuận về giá cũng như phương
pháp xác định giá và không có bất kì chỉ dẫn nào thì căn cứ vào giá thị trường của dịch
vụ cùng loại tại cùng thời điểm và địa điểm giao kết.
4. Chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Nội dung của hợp đồng dịch Nội dung của hợp đồng dịch
vụ pháp lý
vụ thông thường
Theo khoản 2 điều 26 LLS
Hợp đồng dịch vụ pháp lý
phải được làm thành văn
bản với những nội dung
chính như sau:
1. Tên, địa chỉ của khách

hàng hoặc người đại diện
của khách hàng, đại diện
của tổ chức hành nghề luật
sư hoặc luật sư làm việc với
tư cách cá nhân;
2. Nội dung dịch vụ, thời
hạn thực hiện hợp đồng;
3. Quyền, nghĩa vụ của các
bên;
4. Phương thức tính và mức
thù lao cụ thể, các khoản
chi phí khác (nếu có);
1. nghĩa vụ của bên cung 5. Trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng;
ứng dịch vụ
6. Phương thức giải quyết
tranh chấp.
2. đơn phương chấm dứt
Về cơ bản là giống nhau,
hợp đồng
riêng với luật sư còn có
thêm nghĩa vụ giữ bí mật
thông tin khách hàng kể cả
khi đã hoàn thành công việc
Theo điều 525 bên cung
ứng dịch vụ, bên thuê dịch
vụ có quyền đơn phương
chấm dứt hợp khi khi 1 bên
vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ


8


7. Dựa vào Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sự Việt Nam, và quy định của
luật luật sư Việt Nam, hãy cho biết các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong mối
quan hệ với khách hàng ?
- Quan hệ với khách hàng là một mối quan hệ quan trọng trong những mối quan hệ cơ

-

-

bản nhất trong hành nghề luật sư. Nếu luật sư gây dựng được mối quan hệ tốt với
khách hàng, tạo được uy tín thì không những khách hàng sẽ tiếp tục sử dụng dịch vụ
của luật sư khi có những vụ việc mới, mà còn giới thiệu cho bạn bè, đồng nghiệp,
người quen tìm đến luật sư. Sự thành bại trong nghề nghiệp của luật sư phụ thuộc rất
nhiều vào mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng.
Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong mối quan hệ với khách hàng bao gồm
9 quy tắc, từ quy tắc 6 đến quy tắc 14
Quy tắc 6:
Nhận vụ việc của khách hàng là luật sư đã đồng ý nhận yêu cầu, thực hiện các công
việc cho khách hàng. Mỗi luật sư tự mình quyết định liệu có thể thực hiện được vụ
việc của khách hàng hay không. Luật sư không có nghĩa vụ và không thể nhận vụ
việc của tất cả các khách hàng đến với luật sư.
+ 6.1: Việc luật sư nhận thực hiện yêu cầu của khách hàng không có nghĩa là luật sư
đồng tình với quan điểm hoặc hành vi của khách hàng.
+6.2: Quy tắc này đảm bảo cho luật sư có thể bảo về quyền và lợi ích của khách
hàngmột cách tốt nhất.
Chuyên môn và điều kiện là 2 yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng dịch vụ pháp lý

của luật sư. Điều đó bảo đảm cho luật sư có thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của khách hàng 1 cách tốt nhất.Luật sư phải từ chối nhận vụ việc khi không đủ nguồn
lực và khả năng thực hiện hoặc khi yêu cầu của khách hàng không có cơ sở hoặc trái
đạo đức, trái pháp luật.
+6.3: khi nhận vụ việc, luật sư phải giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm
của 2 bên. Điều đó giúp cho khách hàng có nhận thức đúng về vai trò của luật sư
trong việc giúp đỡ pháp lý cho khách hàng
+6.4: 1 luật sư không được trực tiếp hoặc gián tiếp làm bất cứ việc gì có ảnh hưởng
bất lợi đến tính độc lập, liêm chính và uy tín của luật sư.
Quy tắc 7:
Thù lao là khoản tiền mà luật sư nhận được từ phía khách hàng khi cung cấp dịch vụ
pháp lý. Mức thù lao được thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý theo Điều 54
luật luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012.
Ngoài khoản thù lao luật sư, khách hàng còn phải trả các khoản chi phí như tiền tàu
xe, lưu trú và các khoản chi phí hợp lý khác phục vụ cho việc thực hiện dịch vụ pháp
lý cho khách hàng theo khoản 2 Điều 54 luật luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012.
Thù lao luật sư chỉ áp dụng đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư
và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với luật

9


-

-

sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc cho cơ quan, tổ chức (tổ chức trợ giúp
pháp lý của Nhà nước, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức khác) theo chế độ
hợp đồng lao động thì được hưởng lương theo quy định của pháp luật về lao động.
Quy tắc 8:

+8.1: luật sư phải tích cực, khẩn trương giải quyết vụ việc của khách hàng và thông
báo tiến trình giải quyết vụ việc để khách hàng biết và có quyết định kịp thời. Bảo
đảm thông tin liên lạc với khách hàng là cần thiết, giúp họ yên tâm, tránh bức xúc
không cần thiết.
Luật sư phỉa thông báo cho khách hàng các thông tin có liên quan đến vụ việc mà luật
sư đã đảm nhận và đang tiến hành để khách hàng có thể kiểm soát được tình hình
công việc cũng như có thể đưa đơn khởi kiện nếu không thỏa mãn hoặc có sai sót từ
phía luật sư. Vì vậy, phải đảm bảo rằng khách hàng cần biết tên, địa chỉ của luật sư,
và cần liên hệ với ai trong trường hợp có vấn đề nảy sinh.
+8.2: trước khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, luật sư không chạy theo lợi
ích vật chất, xem đó như là mục tiêu duy nhất của hành nghề luật sư. Không được để
quyền lợi riêng của luật sư ảnh hưởng tới việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách
hàng. Nếu lòng trung thực của luật sư trong 1 giao dịch bị nghi ngờ, luật sư khó có
thể đưa ra lời khuyên khách quan.
1 luật sư cũng không được nhận vụ việc nếu quyền lợi riêng của luật sư đối lập với
quyền lợi của khách hàng.
+8.3: Trước khi nhận yêu cầu của khách hàng, luật sư có quyền từ nhận hoặc từ chối
vụ việc. Còn trong trường hợp đã nhận việc thì không có quyền từ chối, trừ trường
hợp buộc phải từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc. Đối với vụ việc từ chối ngay từ đầu
thì luật sư có quyền không đưa ra lý do từ chối. Ngược lại, đã đảm nhận rồi thì khi từ
chối phải đưa ra lý do chính đáng.
Luật sư chỉ được từ chối vụ việc mà mình đã đảm nhận nếu phát hiện ra có mâu thuẫn
quyền lợi hoặc luật sư rơi vào trường hợp bất khả kháng mà không thể bàn giao cho
luật sư khác.
+8.4: khi hợp đồng giữa luật sư và khách hàng kết thúc, luật sư phải trao cho khách
hàng toàn bộ tài liệu và tài sản thuộc sở hữu của khách hàng hoặc giữ chúng nếu
khách hàng yêu cầu và trả tiền lại cho khách hàng
Nếu khách hàng còn nợ luật sư thì luật sư có thể giữ tài liệu và tài sản của khách hàng
cho đến khi được thanh toán đầy đủ. Tuy nhiên luật sư không thể bán chúng để lấy
tiền thù lao.

Quy tắc 9:
Quy tắc này quy định quyền từ chối của luật sư trong hai giai đoạn: nhận vụ việc và
từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc của khách hàng.
+Quy tắc 9.1 quy định cụ thể 6 trường hợp luật sư được quyền từ chối nhận vụ việc
của khách hàng.

10


-

-

-

-

-

+ Quy tắc 9.2 quy định 8 trường hợp luật sư có quyền từ chối tiếp tục thực hiện vụ
việc đã nhận của khách hàng.
Quy tắc 10: Quy tắc này quy định về nghĩa vụ của luật sư khi quyết định chấm dứt
thực hiện dịch vụ pháp lý đã cung cấp cho khách hàng.
Một luật sư không được đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách
hàng trừ khi có lý do chính đáng. Khi chấm dứt hợp đồng, luật sư phải gửi thông
báo kịp thời cho khách hàng. Những lý do chính đáng được quy định trong Quy tắc
9.2.
Quy tắc 11:
+11.1: xung đột này nảy sinh khi lợi ích của 2 hay nhiều khách hàng xung đôt với
nhau. Mặt khác, xung đột về lợi ích có thể xảy ra khi lợi ích của chính luật sư xung

đột với khách hàng.
Theo quy định tại điều 9 luật luật sư Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau
đây: a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong
cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo
quy định của pháp luật”.
+11.2: quy định thái độ ứng xử của luật sư trong 4 trường hợp cụ thể về xung đột lợi
ích
Quy tắc 12: và điều 25 luật luật sư
+ Là những bí mật nghề nghiệp có liên quan đến việc luật sư đảm nhiệm.
+ Bao gồm các bí mật điều tra, bí mật về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản, tình hình
tài chính, bí quyết kinh doanh, bí mật về đời tư hoặc những thông tin khác của khách
hàng được xác định là bí mật.
Quy tắc này quy định bổn phận và trách nhiệm đạo đức của luật sư. Luật sư phải bảo
vệ những thông vấn đề thuộc đời tư và bí mật của khách hàng, kể cả khi luật sư thôi
hành nghề, bất kể vì lý do chết, mất khả năng hay nghỉ hưu. Luật sư không được sử
dụng những thông tin đó vào những việc bất lợi cho khách hàng hoặc vì mục đích
riêng, trừ khi có sự đồng ý của khách hàng.
Quy tắc 13:
Nếu khách hàng có khiếu nại với luật sư thì khiếu nại cần được giải quyết nhanh
chóng và hiệu quả, trong tất cả mọi trường hợp khách hàng phải được đảm bảo rằng
khiếu nại của họ phải được xem xét một cách nghiêm túc và được trả lời một cách
sớm nhất.
Trong trường hợp khách hàng không hài lòng với cách giải quyết khiếu nại của văn
phòng luật sư, công ty luật thì phải cân nhắc việc có thể kiện văn phòng luật sư, công
ty luật theo con đường hành chính hoặc tư pháp.
Quy tắc 14: Quy tắc này chính là các quy phạm cấm đoán có ý nghĩa bắt buộc đối với
luật sư, là những nghĩa vụ đạo đức của luật sư trong quan hệ với khách hàng.

11



8. Dựa vào Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sự Việt Nam, và quy định của
luật luật sư Việt Nam, hãy cho biết các quy tắc quan hệ luật sư với đồng nghiêp?
- Mối quan hệ đồng nghiệp rất quan trọng trong quá trình hành nghề luật sư, là mối

-

-

-

quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các luật sư nhằm nâng cao hoạt động nghiệp
vụ và phục vụ khách hàng được tốt hơn. Các quy tắc quy định mối quan hệ giữa luật
sư và đồng nghiệp là từ quy tắc 16 đến quy tắc 22
Quy tắc 15, 16:
+ Luật sư phải có thái độ thân ái và tôn trọng đồng nghiệp. Việc góp ý, phê bình đồng
nghiệp được thực hiện 1 cách khách quan, đúng nơi, đúng lúc và trên tinh thần xây
dựng
+ luật sư phải có ý thức hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp trong hành nghề cũng như
trong cuộc sống
+ việc duy trì 1 quan hệ tốt đẹp với những người mà luật sư có quan hệ về mặt nghề
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với bản thân người luật sư cũng như đối với văn
phòng luật sư. Luật sư phải luôn luôn duy trì quan hệ tốt với phía đối tác, nếu điều đó
không ảnh hường đến quyền lợi của khách hàng và có thể tạo thiện chí của đồi tác
trong những vụ việc sau này.
+ không làm mất uy tín của luật sư khác bằng việc đề cao mình. Nếu thấy rằng, luật
sư khác có sơ suất, hãy kiên quyết nhưng phải biết thông cảm. Nếu chính bản thân
luật sư là người có thiếu sót thì sẽ cảm thấy hài lòng khi được người khác đối xử theo
cách đó
+luật sư phải thận trọng trong việc phê phán hoặc chỉ trích luật sư khác. Không nên

có ý kiến mang tính chất xúc phạm đến 1 luật sư khác. Luật sư phải có thái độ thân ái
và tôn trọng đồng nghiệp, có ý thức hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp trong hành nghề
cũng như trong cuộc sống.
+ Một luật sư phải đối xử trung thực, thẳng thắn, có thiện ý với luật sư khác.
Quy tắc 17:
Quan hệ đồng nghiệp là lĩnh vực được điều chỉnh bởi quy tắc đạo đức nghề nghiệp
của luật sư và nó thể hiện được tính tự quản trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Trong quy tắc đạo đức nghề nghiệp thể hiện nền tảng của mối quan hệ đồng nghiệp
như quan hệ theo thâm niêm nghề nghiệp, quan hệ trong vấn đề nhận yêu cầu khách
hàng, trong quá trình tố tụng,.. và những việc luật sư cần tránh không được làm.
Quy tắc 18:
Nhìn chung, 1 luật sư không được gặp gỡ hoặc tiếp xúc với 1 người nếu biết rẳng
người đó đã thuê 1 luật sư khác làm đại diện đối với 1 vụ việc mình quan tâm, trừ
trường hợp có sự đồng ý của luật sư này hoặc trừ khi có lý do để tin rằng, luật sư này
không làm đại diện cho khách hàng đó nữa.
Quy tắc 19,20,21,22

12


9. Dựa vào Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sự Việt Nam, và quy định của
luật luật sư Việt Nam, hãy cho biết các quy tắc quan hệ luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng và
các cơ quan nhà nước khác?
Quy tắc về những việc luật sư không được làm trong quan hệ với các cơ tiến hành tố tụng
(Quy tắc 24, Điều 9.1.b, e, g, h, i, k Luật Luật sư).
Điều 9.2, Điều 21.2.b, c, Điều 27 Luật Luật sư.
Với các cơ quan nhà nước khác:
Quy tắc ứng xử của luật sư trong quan hệ với các cơ quan nhà nước khác (Quy tắc 25)
Điều 9.1.b, e, g, i, k; 9.2; 27.5 Luật Luật sư.
10. Dựa vào Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sự Việt Nam, và quy định của

luật luật sư Việt Nam, hãy cho biết các quy tắc quan hệ của luật sư với các cơ quan thông tin
đại chúng và quy tắc quảng cáo trong nghề luật sư?
điều 9.2, 27.5 LLS
“Quy tắc 26. Quan hệ với các cơ quan thông tin đại chúng
26.1. Trong bối cảnh thông tin phát triển mạnh mẽ và đa chiều như hiện nay, không thể
phủ nhận vai trò to lớn của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tác động hay đưa ra
các định hướng xã hội. Theo Điều 3 Luật Luật sư về Chức năng xã hội của luật sư có quy định:
“Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công
dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.”
Do vậy, luật sư phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trong việc
tuyên truyền pháp luật, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm và các tiêu cực xã hội để giúp
người dân nắm bắt kịp thời những thông tin cần thiết, nâng cao ý thức, hiểu biết pháp luật. Nếu
nói rằng mỗi luật sư đều ý thức được trách nhiệm xã hội nghề nghiệp thì cũng phải nhận thức
được trách nhiệm phối hợp với các tổ chức thông tin đại chúng để tuyên truyền pháp luật và
phòng chống tội phạm.
Ví dụ: Luật sư giải đáp, tư vấn pháp lý trên kênh truyền hình trung ương; Luật sư
hỗ trợ báo chí trong việt viết bào tuyên truyền phòng chống tội phạm…
26.2. Luật sư có thể chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng.
Mặt khác, trong trường hợp cơ quan truyền thông có yêu cầu cung cấp thông tin quan trọng, cần
thiết, thái độ của luật sư phải tôn trọng hợp tác và thông tin phải trung thực và khác quan. Tuy
nhiên, việc cung cấp thông tin cho công chúng không được trái với nguyên tắc bảo mật và quyền
lợi hợp pháp của khách hàng. Luật sư, tổ chức hành nghề phải tự cân nhắc cũng như đưa ra các
phán xét hợp lý trong việc lựa chọn thông tin để cung cấp.

13


Ví dụ: Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa, báo chí cần luật sư cung cấp thông tin về vụ án
vừa được giải quyết, trong trường hợp này nếu những câu hỏi của phía nhà báo phù hợp và

những thông tin họ cần không làm ảnh hưởng đến quy tắc bảo mật thì luật sư có thể trả lời. Còn
ngược lại, luật sư có thể tử chối trả lời câu hỏi vì tính chất bảo mật
26.3 Các phương tiện thông đại chúng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội không
chỉ là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức và thông tin mà chúng còn là một công cụ hữu hiệu để
quản lý, điều hành và cải cách xã hội. Chúng đã trở thành một định chế trong xã hội với những
qui tắc và chuẩn mực riêng. Có thể nói rằng, các phương tiện truyền thông đại chúng đã trở thành
một phần không thể thiếu trong đời sống của mỗi cá nhân và tòan xã hội. Tại Quy tắc 26, khoản
3 này là một quy định với hàm ý yêu cầu luật sư, tổ chức hành nghề không được lạm dụng các
phương tiện thông tin đại chúng cho các mục đích không chính đáng, vi phạm đạo đức nghề
nghiệp. Luật sư không được sử dụng cơ quan thông tin đại chúng để cố ý phản ánh sai sự thật
nhằm mục đích cá nhân, mục đích vụ lợi hoặc tạo dư luận, gây sức ép không đáng có nhằm bảo
vệ quyền lợi không hợp pháp của khách hàng hoặc có những phát ngôn gây ảnh hưởng, khiêu
khích ảnh hưởng đến xã hôi.
Ví dụ: Luật sư cố tình đem thông tin sai sự thật cung cấp cho phương tiện thông tin đại chúng
nhằm đánh lạc hướng dư luận, bảo vệ quyền lợi không hợp pháp cho khách hàng của mình. Hoặc
trường hợp, luật sư trả lời báo chi mang thông tin phản động, gây ảnh hưởng đến an ninh và lợi
ích quốc gia.
1.2.1. Vai trò của cơ quan thông tin đại chúng
Với vai trò Điều 3, Luật luật sư 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012), vị thế của luật sư ngày
càng được đề cao hơn. Bên cạnh đó, các cơ quan thông tin đại chúng, đặc biệt là báo chí là
phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội. Nếu luật sư có đầy đủ những
kiến thức chuyên môn và bao quát về pháp luật, có kĩ năng phân tích các sự kiện pháp lý thì
người hoạt động trong cơ quan thông tin đại chúng ngoài kiến thức sâu rộng còn có khả năng
phân tích mổ xẻ vấn đề nhạy bén trước mọi tình huống, có đầu óc phán đoán và nhanh nhaỵ, bám
sát thực tế cuộc sống. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào
xã hội, các cơ quan thông tin đại chúng gó phần trong định hướng dư luận xã hội, tạo ra những
luồng dư luận tích cực làm lành mạnh hoá đời sống xã hội, tạo đà khai thác tốt sức mạnh nội lực
cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả nước. Và, đó chính là góp
phần vào hoat động tư tưởng của Đảng - xây dựng một xã hội công bằng văn minh.
1.2.2. Mối quan hệ hỗ trợ của Luật sư và Báo chí

Thứ nhất, với đặc thù của nghề báo chí, không thể yêu cầu một nhà báo phải hiểu toàn diện về
những quy định của pháp luật. Do đó, luật sư trở thành một kênh thông tin hữu ích để các nhà
báo khai thác có hiệu quả về quy định pháp luật, quan điểm cá nhân về các vụ việc diễn ra. Để

14


thực hiện giải đáp, tư vấn pháp luật trên báo, các nhà báo cũng cần sự hỗ trợ của các luật sư để
đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân, Thông qua quan điểm của luật sư, nhà báo có
thêm những nhìn nhận đánh giá sâu sắc hơn về các vụ việc.
Thứ hai, do đặc thù của báo chí là thực hiện hoạt động thông tin, yêu cầu cơ bản của thông tin là
phải nhanh nhạy, kịp thời, cập nhật. Nên việc đánh giá ưu, nhược điểm của các quy định pháp
luật từ phía các luật sư qua các vụ việc thực tiễn, được báo chí phản ánh sắc nét, nhanh chóng,
phát hiện những bất cập, bất hợp lý trong các văn bản pháp luật, những quy định không phù hợp,
lỗi thời, chồng chéo của hệ thống pháp luật để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
Thứ ba, báo chí chia sẻ với luật sư về những khó khăn, cổ vũ những quan điểm đúng đắn, đồng
thời cũng phát hiện những tiêu cực, những sai trái của các luật sư để phê phán nhằm mục đích
xây dựng. Các luật sư điển hình tốt thông qua báo chí không chỉ là tấm gương cho các luật khác
học tập mà còn giúp người dân tin tưởng vào công lý vẫn được thực thi dựa trên công bằng xã
hội. Chắc các bạn đọc còn nhớ luật sư Võ An Đôn –người bảo vệ quyền lợi cho gia đình nạn
nhân Ngô Thanh Kiều- người bị 5 công an TP Tuy Hòa (Phú Yên) đánh chết vào tháng
05/2012.Trước sự đấu tranh mạnh mẽ của Luật sư Đôn và báo chí, 5 công an và sau đó Phó
trưởng Công an TP Tuy Hòa cũng bị khởi tố. Sau lần đứng ra bảo vệ cho gia đình nạn nhân Kiều,
anh Đôn đã bị công an, toà án và Viện Kiểm Sát Nhân Dân thành phố Tuy Hoà kiến nghị thu hồi
chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, ngay sau đó, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên đã có kết luận chính
thức cho rằng kiến nghị của liên ngành tố tụng TP Tuy Hòa đòi thu hồi chứng chỉ hành nghề của
Luật sư Võ An Đôn là không có cơ sở, không phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ tư, báo chí góp phần đổi mới nhận thức của xã hội, tạo nên sự đồng thuận, sự cảm thông,
chia sẻ của xã hội đối với nghề luật nói chung và nghề luật sư nói riêng. Báo chí với những đặc

trưng của mình là công cụ quan trọng, góp phần tích cực, chủ động để xã hội có nhận thức đúng
về luật sư.
11. Trình tự giải quyết khiếu nại của khách hàng?
Trong bộ quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp luật sư có quy định về tiếp nhận khiếu nại
của khách hàng như sau, quy tắc 13:
Như vậy ta có thể hiểu trình tự giải quyết khiếu nại của khách hàng có thể hiểu đó là:
- Khiếu nại trực tiếp đến nơi cung cấp dịch vụ pháp lý là các tổ chức hành nghề luật sư;
- Nếu khiếu nại chưa được giải quyết thỏa đáng thì khách hàng có quyền khiếu nại đoàn
luật sư hoặc liên đoàn luật sư;
- Tiến hành thủ tục khởi kiện ra tòa án;

15


* Tùy theo mức độ vi phạm mà luật sư có thể chịu kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành
chính hay nặng hơn là truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường
thiệt hại cho khách hàng.

Câu 12: Điều kiện để trở thành trợ giúp viên pháp lý
Theo quy định tại Luật Trợ giúp pháp lý 2006 Điều 21 quy định về Trợ giúp viên
pháp lý thì:
“1. Trợ giúp viên pháp lý là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ tiêu
chuẩn sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt;
b) Có bằng cử nhân luật;
c) Có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý;
d) Có thời gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên;
đ) Có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2. Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm trợ giúp
pháp lý nhà nước, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp.”
Như vậy có thể hiểu Điều kiện để trở thành trợ giúp viên pháp lý làm việc với tư
cách là một viên chức nhà nước như ở Điều 21 Khoản 2 thì đầu tiên, công dân Việt Nam
phải đáp ứng các điều kiện tại Điều 21 Khoản 1 như trên.
Câu 13: 1. Đại diện theo ủy quyền là gì?
2. Văn bản ủy quyền bao gồm những nội dung gì?
3. Văn bản ủy quyền có cần công chứng hay không?
BÀI LÀM
1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì
lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự. (khoản 1,điều 139, Bộ Luật dân sự 2015 – sắp có hiệu lực). Vì Bộ
Luật dân sự 2015 không định nghĩa đại diện theo ủy quyền là gì nên kết hợp với điều 142
Bộ luật dân sự 2005 thì ta định nghĩa đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo
sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện.
2. Bộ luật dân sự năm 2015 điều 562 có quy định văn bản ủy quyền trong giao dịch dân sự
là Hợp đồng ủy quyền. Mặc dù pháp luật không quy định rõ ràng nhưng trên thực tế trong

16


các giao dịch dân sự về ủy quyền các cơ quan, tổ chức, cá nhân còn sử dụng một hình thức
nữa đó là Giấy ủy quyền. Về hình thức Văn bản ủy quyền bao gồm những nội dung gì thì
Luật không quy định rõ ràng nhưng ta có thể thấy rằng bản chất của các văn bản ủy quyền
là hợp đồng vì vậy nó mang hình thức của hợp đồng, bao gồm các nội dung:
 Hợp đồng ủy quyền ( theo điều 398 Bộ luật dân sự 2015)
- Các bên : Bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền
- Thời điểm ủy quyền ( điều 339 Bộ luật dân sự 2015)
- Địa điểm giao kết hợp đồng ủy quyền ( điều 400 Bộ luật dân sự 2015)
- Nội dung ủy quyền ( làm công việc gì)
- Thời hạn ủy quyền

- Quyền và nghĩa vụ của các bên
- Thù lao ủy quyền
- Phạt do vi phạm nghĩa vụ
- Chữ ký của các bên….
 Giấy ủy quyền : Luật không quy định rõ giấy ủy quyền bao gồm những nội dung gì
nhưng trên thực tế ta có thể thấy rằng Giấy ủy quyền bao gồm các nội dung :
- Bên ủy quyền
- Nội dung công việc được ủy quyền
- Thời hạn ủy quyền
- Chữ kí của bên ủy quyền ( có thể có cả bên nhận ủy quyền)
3. Bộ luật dân sự 2015 cũng như luật công chứng và các luật khác không có quy định bắt
buộc văn bản ủy quyền phải công chứng, nhưng trên thực tế các văn bản này thường được
công chứng để tăng độ tin cậy với cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khác khi người đại diện
theo ủy quyền đến làm việc với các cơ quan hoặc tổ chức này.

PHẦN II: XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Cùng đến với Văn phòng LS A một thời điểm có 4 người, người thứ nhất nhờ tư
vấn về chính sách xã hội về người khuyết tật đối với mình, người thứ hai là người
nghèo đến nhờ tư vấn và khiếu kiện vì đang bị thu hồi đất, người thứ 3 là người
khó khăn (không có đủ tiền chi trả cho dịch vụ của luật sư) nhờ khởi kiện chia di

17


sản thừa kế, người thứ tư là doanh nhân đến nhờ tư vấn hợp đồng ngoại. Trong
khi VPLS A chỉ có hai luật sư. Là luật sư trưởng văn phòng LS A sẽ xử xự như thế
nào? Từ chối ai và nhận lời ai đây? Cần phải xử xự như thế nào để vừa đúng pháp
luật lại phù hợp với đạo đức nghề nghiệp LS?
Quy tắc 6.1, 6.2
9.1.1

Luật trợ giúp pháp lý năm 2006
Điều 3. Trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo
quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc
phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế
tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Điều 10. Người được trợ giúp pháp lý
1. Người nghèo.
2. Người có công với cách mạng.
3. Người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa.
4. Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Điều 13. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
1. Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức
tham gia trợ giúp pháp lý.
2. Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm:
a) Tổ chức hành nghề luật sư;
b) Tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức tư vấn pháp luật).
2. Công ty luật TNHH MTV A đăng kí hoạt động tất cả các phạm vi hành nghề LS
tại Sở Tư pháp nhưng trên thực tế lại chỉ chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn pháp
luật về lĩnh vực sỡ hữu trí tuệ - hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ;
Công ty luật A không cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tranh tụng. Khi Ông
Trần Quang B là giám đốc một công ty là đối tượng khách hàng thân thiết của
công ty luật A, bị khởi tố hình sự đến nhờ Công ty A bào chữa từ giai đoạn điều
tra. Công ty luật A phải xử xự ntn? Nhận hay từ chối khách hàng? Giới thiệu
khách hang đến tổ chức hành nghề luật sư khác chuyên về tranh tụng hình sự hay
cố gắng cung cấp dịch vụ bào chữa cho khách hàng?
- theo khoản 1 điều 40 luật luật sư sửa đổi 2012 thì Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề
luật sư là hoạt động theo đúng lĩnh vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký hoạt động


18


- cũng theo điều 24 luật luật sư thì luật sư tôn trọng sự lựa chọn luật sư của khách hàng;
chỉ nhận vụ, việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ, việc trong phạm vi yêu cầu
của khách hàng.
- ngoài ra còn theo quy tắc 3, quy tắc 6.2, quy tắc 9.1.1

3. Trong hợp đồng dịch vụ pháp lý ký với đại diện hợp pháp của bị cáo N (bảo vệ
bị cáo N tại phiên tòa sơ thẩm), giờ làm việc của luật sư Nhã được tính là 16h/
ngày kể từ ngày kí kết hợp đồng (bao gồm 8 giờ làm việc ban ngày và 8 giờ làm
việc nghiên cứu ban đêm). Ngoài ra, trong điều khoản về quyền và nghĩa vụ của
bên thuê dịch vụ trong hợp đồng dịch vụ pháp lý, có quy định: “Nếu thân chủ N
được TAND tỉnh X tuyên án cho hưởng án treo, thì ngoài khoản thù lao tính theo
giờ làm việc, luật sư Nhã còn được đại diện hợp pháp của bị cáo N “thưởng” thêm
số tiền là 50.000.000 đ”. Theo anh chị cách tính thù lao và điều khoản thưởng nói
trên của luật sư Nhã trong hợp đồng dịch vụ pháp lý nói trên có phù hợp với quy
định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp không? Bình luận của anh chị?
Khoản 1 điều 55 luật luật sư:
1. Mức thù lao được tính dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp lý;
b) Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý;
c) Kinh nghiệm và uy tín của luật sư.
ở đây cần phân biệt thời gian, công sức luật sư bỏ ra để thực hiện vụ việc theo yêu cầu của khách
hàng, chứ không phải thời gian vụ việc đó kéo dài. Luật sư chỉ có thể tính thù lao căn cứ vào số
giờ mà luật sư thực hiện vụ việc của khách hàng.
Theo khoản 2 điều 55:
Việc tính thù lao theo giờ là cách tính phù hợp đối với 1 số khách hàng, các công việc thông
thường hoặc khi không thể biết trước tiến độ của công việc

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 18 Nghị định 123/2013/nđ-cp hướng dẫn và biện pháp thi hành
Luật luật sư quy định thời gian làm việc của luật sư do khách hàng và luật sư thỏa thuận, Bên
cạnh đó, mức thù lao cao nhất cho thời gian làm việc của luật sư không được vượt quá 0,3 lần
mức lương cơ sở do chính phủ quy định. Nên cách tính thù lao giữa luật sư Nhã và đại diện hợp
pháp của N là phù hợp với quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư tại Việt Nam.
Thứ hai, khoản “thưởng” nêu trên là tính thù lao theo kết quả vụ việc. Thù lao trên cơ sở kết quả
vụ việc là một khoản tương ứng với số tiền được thưởng. Điều này không phù hợp với quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Điều kiện thưởng được quy định trên hợp đồng dịch
vụ pháp lý nói trên đã vi phạm quy tắc 14.5: những việc luật sư không được làm với khách hàng.

19


Việc hứa thưởng thì có điều kiện đảm bảo kết quả nhưng trong lĩnh vực tố tụng không khác nào
“chạy án”
Tuy nhiên, trên thực tế việc hứa thưởng để giảm nhẹ tội trong lĩnh vực tố tụng là việc thường
xuyên được nghe thấy khi khách hàng tìm đến với luật sư mà vẫn chưa có biện pháp giải quyết
triệt để. Thiết nghĩ, việc hứa thưởng trong việc liên quan đến các vấn đề hành chính và thủ tục là
bình thường và phải do hai bên tự nguyện, luật sư không được ép buộc. Nhưng đối với lĩnh vực
tố tụng, thì việc này đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp của luật sư.

4.Luật sư Q Trưởng văn phòng luật sư Q và cộng sự đang tham gia tố tụng trong
vụ án theo hợp đồng dịch vụ pháp lý để bảo vệ khách hàng A trước Tòa án tỉnh B.
Đúng vào đầu buổi diễn ra phiên tòa, luật sư Q nhận được điện thoại gia đình
thông báo :“Bố đang hấp hối cần gặp mặt, con về gấp”. Sau khi kiểm tra thông tin
luật sư Q đã thông báo cho khách hàng A biết và đề xuất xin hoãn phiên tòa và
nếu Tòa án tiếp tục xét xử thì đã có luật sư H của văn phòng luật sư Q và cộng sự
cùng tham gia tố tụng bảo vệ khách hàng A tại Tòa án tỉnh B. Tuy nhiên, khách
hàng A đã không đồng ý với lý do luật sư Q bảo vệ mới đảm bảo chất lượng và

tương ứng với mức thù lao đã trả cho cả hai luật sư. Luật sư Q vẫn quyết định
chuyển vụ việc cho luật sư H và về quê. Anh chị đánh giá về xử xự của luật sư Q
dưới góc độ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp? Là luật sư trong trường hợp này
sẽ xử xự như thế nào?
Quy tắc 8.3: 9.2.8
Khoản 3 điều 24 luật luật sư: Luật sư không được chuyển giao vụ việc mà mình đã
đảm nhận cho luật sư khác làm thay trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc

trường hợp bất khả kháng.
Các trường hợp bất khả kháng có thể hiểu là các trường hợp luật sư không thể
cung cấp được dịch vụ pháp lý, hoặc không thể cung cấp dịch vụ pháp lý với
chất lượng tốt, trong khi luật sư rơi vào tình trạng không biết trước, không có
nghĩa vụ phải biết trước các sự kiện xảy ra mà khi gặp phải, nếu tiếp tục cung
cấp dịch vụ sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng.
Vụ việc dân sự: theo khoản 1 điều 199 BLTTDS thì người đại diện hợp pháp
của đương sự phải có mặt, trường hợp có người vắng mặt thì HDXX hoãn
phiên tòa ( theo như đề thì đây là triệu tập hợp lệ lần 1)
Vụ việc hình sự: theo điều 297 bltths 2015 thì Điều 291. Sự có mặt của người bào chữa
1. Người bào chữa phải có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa.
Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách
quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào

20


chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách
quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.

5. 1 công ty đã ký hợp đồng thuê 1 chiếc tàu du lịch với 1 đối tác trong thời hạn 5
năm. Sau hơn 1 năm khai thác tàu nhưng không hiệu quả, công ty buộc phải tính

đến chuyện chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nhưng trong hợp đồng có điều
khoản phạt tính theo giá trị tàu ( được các bên định giá lúc ký hợp đồng là
128.000 USD) theo đó nếu bên thuê tàu chấm dứt trước 3 năm thì phải thông báo
trước 60 ngày và phải chịu phạt lên đến 50% giá trị tàu. Khách hàng đến gặp luật
sư tư vấn cách thức chấm dứt hợp đồng mà không phải chịu khoản phạt lên đến
50% giá trị tàu. Là luật sư tư vấn trong trường hợp trên, anh chị hiểu mong
muốn của khách hàng là gì? Đề ra những trường hợp chấm dứt hợp đồng phù hợp
với mong muốn của khách hàng.

-

Mong muốn của khách hàng là chấm dứt hợp đồng trươc thời hạn mà không phải chịu

-

chế tài phạt.
Câu hỏi pháp lý: những trường hợp nào bên chấm dứt hợp đồng trước thời hạn không
phải chịu chế tài phạt trong hợp đồng:
+ Khi bên cho thuê vi phạm căn bản nghĩa vụ của mình trong hợp đồng
+ xảy ra sự kiện mà các bên đã thỏa thuận cho phép chấm dứt hợp đồng trước thời
hạn
+ xảy ra sự kiện bất khả kháng kéo dài
+xem có rơi vào hợp đồng vô hiệu hay không: Hợp đồng vô hiệu ( nếu thuộc từ điều
127 đến 138 Bộ Luật Dân Sự 2005 ) thì chế tài bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được áp dụng ( chế tài phạt không áp dụng)
+ nếu hợp đồng không vô hiệu thì việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn của bên
thuê trong trường hợp này là vi phạm nghĩa vụ, bên thuê phải chịu chế tài bồi thường
thiệt hại, điều 301 Luật thương mại 2006: mức phạt không quá 8% giá trị hợp đồng.

21




×