Tải bản đầy đủ (.pdf) (236 trang)

Tang ma của người Thái: Quy trình nghi lễ để tạo cuộc sống mới cho người chết (trường hợp người Thái Phù Yên, Sơn La)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.49 MB, 236 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÒ XUÂN DỪA

TANG MA CỦA NGƯỜI THÁI: QUY TRÌNH NGHI LỄ
ĐỂ TẠO CUỘC SỐNG MỚI CHO NGƯỜI CHẾT
(TRƯỜNG HỢP NGƯỜI THÁI PHÙ YÊN, SƠN LA)

Chuyên ngành: Văn Hóa Dân Gian
Mã số

: 62 22 01 30

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. HOÀNG CẦM
2. PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài: “Tang ma Thái: Quy trình nghi
lễ để tạo cuộc sống mới cho người chết (trường hợp người Thái Phù Yên,
Sơn La)”, tôi xin cam đoan rằng: luận án này là kết quả nghiên cứu của cá
nhân tôi. Trong luận án tôi có kế thừa sử dụng lại những luận điểm, luận cứ
và dẫn trích nghiên cứu của những người đi trước tôi đều ghi xuất xứ và tên
tác giả đã đưa ra luận điểm, luận cứ đó.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!




LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài: “Tang ma Thái: Quy trình nghi
lễ để tạo cuộc sống mới cho người chết (trường hợp người Thái Phù Yên,
Sơn La)”, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn:
TS. Hoàng Cầm, PGS.TS.Nguyễn Thị Phương Châm đã góp ý kiến
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, viết chuyên đề và làm luận án.
Tập thể các giáo sư, tiến sĩ, giảng viên bộ môn Văn hóa học, Ngành
nghiên cứu văn hóa, Chuyên ngành Văn hóa dân gian thuộc Viện nghiên cứu
văn hóa, Viện KHXH Việt Nam đã tận tình giúp đỡ tôi cả trong học tập và
nghiên cứu khoa học trong suốt thời gian của khóa học đối với nghiên cứu
sinh. Phòng đào tạo khoa học bộ môn Văn hóa học, Viện KHXH Việt Nam đã
giúp đỡ tôi về mặt thủ tục trong suốt quá trình học tập, viết các chuyên đề và
bảo vệ luận án.
Trong thời gian điền dã đề tài tại địa phương, tôi nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của các nghệ nhân hát mo Thái, các ông bà cao tuổi, các gia đình
tang chủ và bà con ở các bản, xã của người Thái thuộc huyện Phù Yên.
Nhân đây, tôi bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám đốc Sở Giáo dục và
Đào tạo Sơn La, Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo trường THPT Tân Lang đã
động viên tinh thần, tạo điều kiện về mặt thời gian, vật chất, chia sẻ công
việc; cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng chí đồng nghiệp xa gần đã khuyến khích
động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2016

Tác giả luận án: Lò Xuân Dừa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 01

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ................................................................. 07
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 07
1.2. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 25
1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 27
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 38
Chương 2: QUY TRÌNH CHUẨN BỊ TRONG TANG MA THÁI ........................ 39
2.1. Vũ trụ quan Thái và quan niệm về cái chết ................................................... 39
2.2. Các nghi thức khi người mới chết ................................................................. 43
2.3. Các bước chuẩn bị cho cúng ma .................................................................... 52
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 66
Chương 3: QUY TRÌNH THỰC HÀNH NGHI LỄ CÚNG MA ............................ 68
3.1. Quy trình tổ chức các nghi lễ cúng ma .......................................................... 68
3.2. Nghi lễ đưa ma ............................................................................................. 78
3.3. Các nghi lễ sau khi đưa ma ............................................................................ 84
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 88
Chương 4: VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÁC THỰC HÀNH NGHI LỄ
TRONG VIỆC TẠO CUỘC SỐNG MỚI CHO NGƯỜI CHẾT ........................... 90
4.1. Vai trò, chức năng của người thực hành nghi lễ............................................ 90
4.2.Vai trò, chức năng của các bài mo ................................................................. 98
4.3. Chức năng của các biểu tượng nghi lễ........................................................... 126
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................................ 143
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ.......................................................... 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO. ......................................................................................... 150
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 160


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTVHDT:


Bảo tàng văn hóa dân tộc

CTQG:

Chính trị quốc gia

DT, DTH:

Dân tộc, Dân tộc học

ĐHKHXH&NV:

Đại học khoa học xã hội và nhân văn

ĐHQG:

Đại học quốc gia

ĐHSP:

Đại học sư phạm

H:

Hà Nội

GS.TS.:

Giáo sư Tiến sĩ


GD:

Giáo dục

KHXH:

Khoa học xã hội

Tc; NSDG:

Tạp chí;Nguồn sáng dân gian

Nxb:

Nhà xuất bản

PCT.:

Phó Chủ tịch

PGS.:

Phó Giáo sư

LATS.

Luận án Tiến sỹ

LVThS.


Luận văn Thạc sỹ

LXD:

Lò Xuân Dừa

[43,tr.14]

Tài liệu tham khảo 43, trang 14

[27], [81]

Tài liệu tham khảo 27 và 81

Tp.:

Thành phố

Tp.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

THPT:

Trung học phổ thông

UBND:

Ủy ban nhân dân


VHH:

Văn hóa học

VHDT:

Văn hóa dân tộc

VHDG:

Văn hóa dân gian

VNDG:

Văn nghệ dân gian

VHTT, VH-TT:

Văn hóa Thông tin


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, việc nghiên cứu người Thái ngày
càng được giới khoa học hết sức quan tâm. Tất cả các quốc gia có tộc người trong
hệ ngôn ngữ Thái như Trung Quốc, Thái Lan,...đều tổ chức Thái học (Thai Studies).
Thậm chí, cả những nước không có tộc người nói ngôn ngữ Thái như Hà Lan, Đức,
Australia,... cũng có trung tâm nghiên cứu Thái học; việc nghiên cứu người Thái
không chỉ là vấn đề riêng ở Việt Nam mà đã trở thành vấn đề mang tầm quốc tế.

Ở Việt Nam, việc tìm hiểu, nghiên cứu về các dân tộc trong hệ ngôn ngữ
Tày - Thái nói chung và dân tộc Thái nói riêng là các nhà dân tộc học, ngôn ngữ
học,... rồi đến các nhà sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân tộc ở cả trung ương và các
địa phương. Trong những thành tựu nghiên cứu quan trọng về người Thái, phải kể
đến phong tục nghi lễ đời người, mà tang ma là một nghi lễ đặc biệt quan trọng, độc
đáo và tiêu biểu. Nó là quy trình nghi lễ tín ngưỡng dân gian phức hợp gắn liền với
người chết và các quy tắc ứng xử của người sống chuẩn bị cho người chết có một
cuộc sống mới trong thế giới vĩnh hằng cùng với ông bà tổ tiên.
Tuy nhiên, cho đến nay, hầu như giới sưu tầm nghiên cứu mới chỉ quan tâm
mô tả thuần túy đám tang, nhìn nhận giá trị đám tang như những di sản văn hóa cần
được bảo tồn, hoặc tiếp cận đám tang theo hướng biến đổi văn hóa do những tác
động của quá trình hiện đại hóa và hội nhập, mà ít nhà nghiên cứu quan tâm đến
quy trình tổ chức đám tang Thái có ý nghĩa và chức năng tâm lý như thế nào đối với
người sống. Vì vậy, chọn vấn đề: “Tang ma của người Thái: Quy trình nghi lễ để
tạo cuộc sống mới cho người chết (trường hợp người Thái Phù Yên, Sơn La)”
làm đề tài nghiên cứu là một nhiệm vụ cần thiết trong luận án tiến sỹ của mình. Tác
giả luận án mong muốn, công trình này sẽ góp phần vào việc nhận diện một cách hệ
thống về tang ma của người Thái, đặc biệt là luận giải ý nghĩa, chức năng của các
nghi thức nghi lễ trong quá trình tổ chức đám tang hướng tới một mục đích rõ ràng
là việc người sống tạo dựng một cuộc sống mới cho người chết.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu của luận án: “Tang ma của người Thái: Quy trình
nghi lễ để tạo cuộc sống mới cho người chết (trường hợp người Thái Phù Yên,
Sơn La)” sẽ cung cấp một nghiên cứu trường hợp vào bức tranh nghiên cứu và
tranh luận trong ngành nghiên cứu văn hóa và nhân học về vai trò, chức năng ý
nghĩa văn hóa- xã hội của nghi lễ tang ma trong đời sống của nhân loại nói chung.

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp những cứ liệu khoa học cho các
nhà quản lý văn hoá tại địa phương trong việc hoạch định chính sách liên quan đến
văn hoá phi vật thể nói chung và tang ma nói riêng.
Mặt khác, là người dân tộc Thái của quê hương Phù Yên, việc nghiên cứu
tang ma của dân tộc mình không những giúp tác giả hiểu rõ truyền thống lịch sử,
văn hóa tín ngưỡng của cha ông xưa mà còn góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy
vốn văn hóa của các dân tộc.
-Nhiệm

vụ nghiên cứu: sưu tầm tài liệu, tư liệu thành văn, nghiên cứu trường

hợp, khảo sát điền dã, tổng hợp và so sánh, hoàn thành bản thảo thực địa hữu ích về
đời sống văn hóa tín ngưỡng trong tang ma của người Thái Phù Yên
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quy trình nghi lễ trong tang ma của
người Thái Phù Yên (chủ yếu là các đám tang tổ chức cho người chết bình thường,
chết già, đã có tuổi); xem xét các thực hành nghi lễ diễn ra trước, trong và sau đám
tang; làm cơ sở để phân tích ý nghĩa của các thực hành nghi lễ và các biểu tượng
nghi lễ trong quy trình tổ chức đám tang.
-Phạm vi nghiên cứu của luận án là tập trung nghiên cứu về tang ma của
cộng đồng người Thái Phù Yên (Sơn La), chủ yếu tập trung nghiên cứu các đám
tang được người Thái tổ chức cho người chết bình thường, chết già.
-Tác giả tập trung nghiên cứu ở cộng đồng người Thái ở huyện Phù Yên. Địa
điểm điền dã chính của tác giả để nghiên cứu đám tang là ở các bản thuộc các xã
Quang Huy, Huy Bắc, Tường Phù, Tường Thượng, Tường Tiến, Huy Tường và thị
trấn Phù Yên. Các đợt điền dã diễn ra đan xen trong các vùng chủ yếu là từ năm

2



2006 đến nay, và được đẩy mạnh nghiên cứu trong quá trình triển khai thực hiện
luận án.
-Ngoài ra, tác giả luận án còn mở rộng phạm vi điền dã nghiên cứu đám tang
của một số tộc người trong và ngoài địa bàn huyện Phù Yên.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu để hoàn thành luận án chủ yếu là tư liệu điền dã dân tộc học,
được thu thập từ địa bàn nghiên cứu thuộc các bản xã của huyện Phù Yên, nơi có
đồng bào Thái sinh sống đông và tập trung. Ngoài ra, chúng tôi cũng mở rộng phạm
vi điền dã nghiên cứu tang ma của một số dân tộc cùng cộng cư, nhất là dân tộc
Mường để lấy tư liệu so sánh.
Ngoài nguồn tư liệu điền dã, luận án còn khai thác, sử dụng kết quả nghiên
cứu của các nhà nghiên cứu dân tộc học, văn hóa học, nhân học văn hóa trong và
ngoài nước, của các nhà nghiên cứu văn hóa ở các địa phương, các luận văn, luận
án viết về đời sống xã hội và tang ma của dân tộc Thái cũng như một số dân tộc
khác ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp điền dã dân tộc học
Đây là phương pháp chủ yếu và quan trọng nhất mà tác giả luận án đã dày
công quan sát thực địa, điều tra, phỏng vấn sâu các đối tượng người Thái trong
nhiều năm thuộc nhiều đám tang của các dòng họ người Thái, Phù Yên. Do việc
quan sát tham dự trực tiếp là quan trọng và cần thiết để thu thập đầy đủ tư liệu,
mang tính khách quan về tang ma Thái, nên mỗi khi có cơ hội thì chúng tôi phải tận
dụng mọi thời gian để nhập cuộc trong các đám tang, bất kể thời tiết rét mướt, xa
gần, ngày đêm, rạng sáng, tôi vẫn cố gắng tham gia để khảo sát lấy tư liệu. Tôi đã
tiếp xúc trực tiếp với các đối tượng, thông qua phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm ở
các giới, các lứa tuổi, có nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau (nông dân, cán bộ xã,
huyện…) có mối quan hệ khác nhau với người quá cố và tang chủ; các cá nhân là
người dân tộc láng giềng trong vùng cư trú để có quan điểm tổng thể, khách quan về


3


đám tang của người Thái. Đồng thời với việc quan sát, tôi tranh thủ ghi chép, ghi
âm, ghi hình nhiều đám tang của người Thái ở các xã bản của huyện Phù Yên.
Trong quá trình điền dã tác giả luận án cũng tổ chức các buổi thảo luận nhóm
để có được những nhận định khách quan về tang ma, bản chất của nghi lễ, nội dung
các bài mo, ý nghĩa biểu tượng, sự ảnh hưởng văn hóa giữa các dân tộc cùng địa
bàn và sự biến đổi trong tang ma Thái ở Phù Yên. Từ năm 2009 đến nay tôi đã quan
sát tham dự gần 30 đám tang, trong đó có trên một nửa số đám tang được tôi quan
sát trọn vẹn từ khi diễn ra đến khi kết thúc. Chúng tôi còn phỏng vấn hồi cố những
ông mo Thái, người cao tuổi để tìm hiểu về tang ma truyền thống, những thực hành
văn hóa có thể đã mất trong tang lễ hiện nay. Khi phỏng vấn, chúng tôi đã cố gắng
so sánh và kiểm tra lại thông tin từ những người cung cấp tư liệu đã được chọn, so
sánh với các tư liệu từ quan sát trực tiếp, từ lắng nghe và dịch các bài mo. Chúng tôi
phỏng vấn các đối tượng nêu trên nhằm mục đích lấy tư liệu đảm bảo chính xác,
trung thực và khách quan hơn so với phỏng vấn các đối tượng còn trẻ, ít hiểu biết về
tang ma truyền thống.
Trong những năm qua, tôi đã có quá trình nghiên cứu thực địa liên tục trong
cộng đồng người Thái ở huyện Phù Yên; được tiếp xúc với nhiều người thuộc các
lứa tuổi, nghề nghiệp khác nhau, nhất là tiếp xúc với các thầy mo, thầy cúng. Do
chịu khó hỏi thăm, đi lại và có sẵn các mỗi quan hệ từ trước nên tôi sớm có quan hệ
gần gũi với các thầy mo và gia đình trong các bản mường của người Thái. Đó là
điều kiện thuận lợi giúp tôi tìm hiểu lấy thông tin tư liệu. Lúc thì tôi chủ động đến
thăm các ông tại nhà, khi thì tranh thủ gặp các ông trong các đám lễ nhất là lễ tang
để phỏng vấn, cũng có lúc tôi phải trao đổi bằng điện thoại để xác nhận lại thông
tin...Những thầy mo ma (mọ phị) nổi tiếng trong huyện Phù Yên mà tôi quen biết,
đó là ông Hà Văn Lai (bản Phai Làng, Huy Bắc), Hoàng Văn Ành (bản Mo Nghè,
Quang Huy), Hoàng Văn Dường (bản Bùa Chung, Tường Phù), Lò Văn Chướng
(bản Chăn,Tường Thượng), Hà Văn E (bản Tầm Ốc, Tường Hạ) v.v...


4


4.2.2. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Bên cạnh phương pháp điền dã, tôi còn sưu tầm nguồn tư liệu thứ cấp của
các nhà nghiên cứu về tang ma các tộc người ở Việt Nam và trên thế giới, nhất là tài
liệu nghiên cứu về người Thái và tang ma Thái đã công bố, xuất bản để kế thừa
những thành tựu nghiên cứu có trước.
Tác giả luận án đã khảo sát một số bài mo Thái do các ông mo Hà Văn E
(bản Tầm Ốc, Tường Hạ), Lò Văn Chướng (bản Chăn, Tường Thượng), Hà Văn Lai
(bản Phai Làng, Huy Bắc), Hoàng Văn Ành (bản Mo Nghè, Quang Huy), Vì Văn
Úng (bản Phố, Huy Bắc) thực hành. Đó là những bài mo do tác giả may mắn được
ghi âm trực tiếp từ các đám tang của người Thái.
4.2.3. Các phương pháp khác
Để đạt mục tiêu nghiên cứu bên cạnh việc vận dụng các phương pháp chính
như phương pháp điền dã dân tộc học, nghiên cứu tài liệu, tác giả luận án còn áp
dụng phối hợp các phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại; phương pháp hệ thống,
thống kê…nhằm đặt nghi lễ tang ma của người Thái trong môi trường địa lý, lịch
sử, kinh tế xã hội, trong môi trường văn hoá cộng đồng trong vùng Phù Yên.
Ngoài ra, luận án còn áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong
nghiên cứu văn hóa để giải mã những bí ẩn của hiện tượng văn hoá tâm linh.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là một công trình chuyên khảo cung cấp thêm nguồn tư liệu điền
dã mới về quy trình các bước chuẩn bị và tổ chức thực hành các nghi lễ trong tang
ma; về vũ trụ quan Thái và quan niệm về cái chết; một số quy tắc ứng xử trong gia
đình, cộng đồng xã hội liên quan đến văn hóa của người Thái; nhận diện rõ ràng
hơn về tang ma Thái truyền thống được phục hồi trở lại trong thời điểm đổi mới đất
nước và hội nhập.
- Luận án luận giải những quan niệm mới của người Thái ở Phù Yên về vai

trò và chức năng văn hóa của các thực hành nghi lễ, các bài mo và biểu tượng nghi
lễ trong tang ma là để tạo dựng cuộc sống mới cho người chết, tạo ra tâm lý yên tâm
tin tưởng để người sống tiếp tục xây dựng cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội

5


mỗi ngày một tốt hơn. Góp phần khẳng định rằng những thực hành nghi lễ trong
đám tang không đơn thuần là lễ chôn cất, có sự nuối tiếc thương đau do mất người
thân của người sống mà còn thể hiện niềm tin tưởng rằng người thân của họ không
chết mà chuyển sang sống ở một thế giới khác.
- Kết quả nghiên cứu của luận án còn góp phần khẳng định vai trò và chức
năng văn hóa trong tang ma tộc người, sẽ là một đóng góp nhỏ vào nghiên cứu Thái
học, cung cấp một nghiên cứu trường hợp vào tranh luận trong ngành nghiên cứu
văn hóa và nhân học về vai trò và chức năng của đám tang; làm cơ sở cho việc
hoạch định các chính sách quản lý văn hóa - xã hội phù hợp với đời sống mới trong
quá trình hiện đại hóa và hội nhập; góp phần xây dựng đời sống mới ngày càng văn
minh hiện đại nhưng vẫn đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được bố
cục thành 04 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn
nghiên cứu
Chương 2. Quy trình chuẩn bị trong tang ma Thái
Chương 3. Quy trình thực hành nghi lễ cúng ma
Chương 4. Vai trò và chức năng của các thực hành nghi lễ trong việc tạo
cuộc sống mới cho người chết.

6



Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1.Các nghiên cứu về tang ma của các tộc người ở Việt Nam
Tang ma là một chủ đề thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
nhân học và văn hoá trên thế giới. Ở Việt Nam, số lượng tác phẩm và tác giả đông
đảo phong phú nhất là các công trình do các tác giả dân tộc Việt (Kinh) biên soạn
chủ yếu là về tín ngưỡng phong tục tang ma của người Việt như: Tín ngưỡng Việt
Nam-Quyển Thượng, do Toan Ánh biên soạn [7], Việt Nam văn hóa sử cương do tác
giả Đào Duy Anh biên soạn [4], Việt Nam phong tục do Phan Kế Bính biên soạn
[12], Gia lễ xưa và nay do Phạm Côn Sơn biên soạn [101], Thọ Mai Gia Lễ và
phong tục của người Việt do Xuân Trường biên soạn [133], Nghi lễ dân gian-Nghi
lễ tang ma do Minh Đường biên soạn [42], Nghi lễ đời người do Trương Thìn biên
soạn [116], Phong tục tập quán Việt Nam do Vũ Mai Thùy biên soạn [120], Phong
tục dân gian kiêng kỵ do Triều Sơn biên soạn [103], Thọ Mai Gia Lễ-Phong tục dân
gian về tục cưới hỏi ma chay của người Việt Nam do Đức Thành biên soạn [105],
Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam do Tân Việt biên soạn [142], Tìm
hiểu về phong tục dân gian, Dân gian sinh tử toàn thư do Thái Kỳ Thư biên soạn
[119], Phong tục dân gian Việt Nam do Anh Minh biên soạn [69], Tục cưới hỏi ma
chay của người Việt- Thọ mai gia lễ do Túy Lang Nguyễn Văn Toàn biên soạn
[126], Tục tang ma và Phong tục tang lễ do Phạm Minh Thảo biên soạn
[108],[109], Tục lệ cưới gả, tang ma của người Việt xưa do Phan Thuận Thảo biên
soạn [107], Nghi lễ vòng đời người do tập thể tác giả Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng
Dương, Lê Hồng Lý [145],...
Đa số các tác giả đã khảo tả các phong tục, nghi thức nghi lễ trong vòng đời
người trong đó có nghi lễ tang ma chủ yếu là quy trình tổ chức trong tang ma của
người Việt. Một số tác giả đã đi sâu luận giải những quan niệm về tang ma trong


7


phong tục cổ truyền (Thọ Mai Gia Lễ) có nguồn gốc ảnh hưởng từ nền văn hóa Hán
cần được nhận thức đúng giá trị của nghi lễ để bảo tồn và phát huy. Đáng chú ý là
ấn phẩm Tục tang ma do Phạm Minh Thảo tuyển soạn và phiên dịch đã miêu tả
quan niệm về kiếp sau trong Thuyết vật linh và linh hồn của A.B.Tylor, cho rằng:
Hầu như tất cả các tộc người, các tôn giáo, các dân tộc trên thế giới đều quan niệm
có linh hồn; đặc biệt người ta còn quan niệm kiếp sau mới là đáng kể; người Việt
Nam cũng có quan niệm “sống gửi thác vê” (sống chỉ có tính chất tạm bợ, gửi thân
thân tạm thời, chết mới là vĩnh viễn). Từ đó, tác giả tóm tắt các hình thức mai táng
và tổ chức tang ma của các dân tộc ở Việt Nam và trên thế giới. Tác giả luận án coi
đó là những tài liệu quý để vận dụng Thuyết vật linh và linh hồn của A.B.Tylor và
tín ngưỡng vạn vật hữu linh của các tộc người khi xem xét luận án.
Ngoài nhóm tác phẩm của các tác giả nói trên còn có nhiều tác giả quan tâm
đến tang ma các tộc người khác ở Việt Nam như: Người Mường ở Hòa Bình do tác
giả Trần Từ biên soạn [135], Mo Đường lên trời, Nhạc lễ của người Mường và
người Thái Phù Yên do tác giả Đinh Văn Ân biên soạn [8], [9], Tang lễ cổ truyền
của người Mường do tác giả Bùi Huy Vọng biên soạn [143], Nghi lễ trong chu kỳ
đời người của người Mường ở Hòa Bình do tác giả Nguyễn Thị Song Hà biên soạn
[46], Việc tang lễ cổ truyền của người Tày, do tác giả Hoàng Tuấn Nam biên soạn
[77]... Các tác giả đã trình bày quan niệm và hệ thống nghi thức nghi lễ, ứng xử
trước trong và sau đám tang của một số dân tộc ở vùng Tây Bắc và Việt Bắc. Đó là
những tư liệu quý giúp cho tác giả luận án soi xét, đối chiếu với nguồn tư liệu thực
tế về tang ma Thái trong quá trình nghiên cứu.
Các bài viết về lĩnh vực tang ma các tộc người ở Việt Nam, đăng trên tạp chí
chuyên ngành, cũng giúp ích ít nhiều cho nghiên cứu của chúng tôi, như: “Về nghi
thức tang ma của người Việt ở làng Xuân Tảo xã Xuân Đỉnh-Từ Liêm” của tác giả
Lê Cẩm Ly (2003), Tc VHDG, số 6/2003, [67, tr. 57-62]; “Tang lễ của người Chăm

Bà La Môn ở Ninh Thuận trong bối cảnh phát triển nông thôn hiện nay” của tác giả
Đổng Văn Dinh, Tc DTH, số 4/2001, [31, tr.79-80]; “Tập quán tang ma của người
Mạ ở xã Lộc Lâm, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng” của tác giả Lý Hành Sơn, Tc

8


DTH, số 5/2004, [102, tr.36-45]; “Tang lễ của người H’ Mông ở Sơn La-Truyền
thống và hiện đại” của tác giả Hoàng Thị Thủy,Tc NSDG, số 3/2009, [122, tr. 5158]; “Âm giới và biểu tượng vũ trụ luận trong tang ma của người Mường” của tác
giả Đinh Hồng Hải, Tc VHDG, số 3/2013, [49, tr.58-67]; “Tang ma của người
Nùng Phàn Sình ở tỉnh Thái Nguyên”, LATS Khoa học chuyên ngành Lịch sử,
trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Ngân [80]...Các
công trình trên là tư liệu quý giúp tác giả luận án có cái nhìn xuyên suốt, đa chiều
khi tiếp cận tang ma và có cơ sở dữ liệu để so sánh về tang ma của người Thái.
1.1.2.Các nghiên cứu chung về người Thái
Từ trước tới nay giới khoa học trong cũng như ngoài nước đã tập trung
nghiên cứu nhiều vấn đề về lịch sử xã hội, kinh tế, văn hóa truyền thống của các
nhóm Thái ở Việt Nam. .
Trong thời phong kiến đã có những tác phẩm đề cập và nghiên cứu về tộc
người Thái, đó là những tác phẩm có giá trị như bộ Đại Nam nhất thống chí của
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Kiến văn tiểu
lục của Lê Quý Đôn [41], Hưng Hóa xứ phong thổ lục, của Hoàng Bình Chính [20].
Những tác phẩm này tuy chưa phải là những chuyên khảo nghiên cứu về tang ma
Thái nhưng bước đầu đã nghiên cứu được một số khía cạnh của đời sống kinh tế-xã
hội Thái có giá trị.
Vào thời Pháp thuộc đã xuất hiện một số chuyên khảo nghiên cứu về người
Thái Bắc Trung Bộ của một số học giả người Pháp, đó là cuốn Nhận xét về người
Tày Đèng ở Lang Chánh Thanh Hóa của R.Robert [98] và một số công trình nghiên
cứu của M.Colani, H.Maspéro,... Kết quả của những nghiên cứu này chủ yếu chỉ đề
cập đến nhóm người Thái ở Nghệ An, chưa đề cập đến nhóm người Thái ở các địa

phương khác, nhất là về tang ma. Tuy nhiên, kết quả những nghiên cứu của các học
giả người Pháp đã, đang và sẽ giúp ích nhiều cho việc tìm hiểu, nghiên cứu người
Thái ở Bắc Trung Bộ.
Từ sau năm 1945, nhất là từ sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng việc nghiên cứu các dân tộc ít người, trong đó có người Thái của các nhà

9


khoa học và các nhà hoạch định chính sách ngày càng có tính hệ thống và toàn diện
hơn. Trong đó phải kể đến những cuốn như: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam của
Lã Văn Lô và tập thể tác giả xuất bản năm 1959 [59], Quắm tố mướn (Kể chuyện
bản mường) của tác giả Cầm Trọng và Cầm Quynh (xuất bản năm 1960) [127], Sơ
lược các nhóm Tày-Nùng-Thái ở Việt Nam và Đại cương về nhóm ngôn ngữ TàyThái ở Việt Nam của các tác giả Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn cùng xuất bản năm
1968 [60], [61], Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) xuất bản năm
1978 của tập thể tác giả Viện Dân tộc học [87],...Nhìn chung các ấn phẩm mới chỉ
dừng lại ở việc khái quát về văn hóa các dân tộc trong đó có dân tộc Thái, chưa có
tác phẩm nào đề cập đến nghi lễ tang ma.
Bên cạnh những công trình có tính hệ thống và toàn diện trên, trong thập
niên 60, 70 của thế kỷ XX còn xuất hiện những ấn phẩm chuyên khảo về tộc người
Thái của các nhà Dân tộc học. Đó là những cuốn như: Tư liệu về lịch sử và xã hội
dân tộc Thái xuất bản năm 1977 của nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng...
[136]; Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam xuất bản năm 1978 của tác giả Cầm Trọng
[128]; Tục ngữ Thái xuất bản năm 1978 của nhóm tác giả Hà Văn Năm, Cầm
Thương, Lò Văn Sỹ [78],... Những ấn phẩm nêu trên của các nhà Dân tộc học đã
khái quát lịch sử, xã hội dân tộc Thái, người Thái ở Tây Bắc và tục ngữ Thái. Đáng
lưu ý là tác giả Cầm Trọng trong Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [128, tr.378-400]
đã dành 22 trang đề cập đến tôn giáo tín ngưỡng của người Thái Tây Bắc, bao gồm
các loại “Phi khuôn” (linh hồn), “Phi hướn” (ma nhà), “Phi bản” (ma bản), “Phi
mướng” (ma mường), khái niệm về “Mường phạ”(cõi trời) và tín ngưỡng về phi

“phi then”... tuy nhiên chưa đề cập đến nghi lễ tang ma cụ thể. Mặc dù vậy những
phân tích của Cầm Trọng về tín ngưỡng tôn giáo Thái sẽ là cơ sở để tác giả luận án
kế thừa khi luận giải về vũ trụ quan Thái để triển khai nghi lễ tang ma.
Ngoài những cuốn sách khảo cứu về các dân tộc thiểu nói chung, những sách
chuyên khảo về tộc người Thái nói riêng, trong hai thập niên này cũng xuất hiện
hàng chục bài viết có giá trị nhiều mặt về người Thái được đăng tải trên các tạp chí

10


của cả Trung ương và địa phương. Đó là cơ sở để tác giả luận án hiểu rõ hơn về
người Thái nói chung, tang ma Thái nói riêng.
Từ những năm 80, 90 của thế kỷ XX, người Thái và văn hóa của người Thái
ở Việt Nam nói chung đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà sưu tầm, nghiên
cứu, đặc biệt là giới khoa học ở cả trong và ngoài nước. Thái học đã trở thành ngành
khoa học quốc tế với hàng trăm công trình chuyên khảo chuyên sâu có giá trị kể từ
khi có sự ra đời của Hội thảo quốc tế về Thái học (1992)1. Minh chứng cho sự gia
tăng nhanh chóng của những nghiên cứu về người Thái ở Việt Nam là sự ra đời của
các công trình có chất lượng về mọi mặt của đời sống văn hóa Thái với các tác giả ở
Trung ương và các địa phương. Đó là những công trình như: Hoa văn Thái xuất bản
năm 1988 của tác giả Hoàng Lương, Nghệ thuật trang phục Thái xuất bản năm
1990 của tác giả Lê Ngọc Thắng [110], Lễ hội cầu mùa của người Thái ở Tây Bắc
Việt Nam xuất bản năm 1997 của tác giả Vũ Thị Hoa ....
Cùng với sách, trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ trước còn có hàng trăm bài
viết, luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ viết về người Thái đã được công bố, trong đó
nhiều nhất là ở các tạp chí chuyên ngành Dân tộc học của Viện Dân tộc học thuộc
Trung tâm khoa học và nhân văn Quốc gia và tạp chí Văn hóa dân gian của Viện
nghiên cứu văn hóa như bài viết: "Vài đặc điểm sinh hoạt văn hóa vật chất của
người Mường và người Thái ở vùng hỗn cư Mường Tấc”, “Quan hệ giữa các dòng
họ và hôn nhân hỗn hợp ở Mường Tấc (Phù Yên-Sơn La)” của tác giả Hoàng

Lương [63], [64], các luận án “Hoa văn mặt chăn Thái ở Mường Tấc Phù Yên, Sơn
La” (Hoàng Lương) [65], “Thiết chế bản-mường truyền thống của người Thái ở
miền Tây Nghệ An” (Vi Văn An) [3], “Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây
Bắc” (Lê Ngọc Thắng) [111], “Các giá trị văn hóa vật chất của người Thái ở miền
núi Nghệ An” (Artha Nantachukra) [6], “Người Thái ở Yên Châu Sơn La (Lò Thị
Thu Thủy)” [124].

1

Từ 1992 đến nay Hội thảo Thái học đã tổ chức được 7 lần tại Hà Nội và các địa phương

như Cao Bằng, Điện Biên, Thanh Hóa, Lai Châu.

11


Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, các công trình nghiên cứu chung về người Thái
càng nhiều như các ấn phẩm: Nghề dệt của người Thái ở Tây Bắc xuất bản năm
2003 của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga [79]; cùng xuất bản năm 2005 có: Văn hóa
dân gian của người Thái vùng Mộc Châu, Phù Yên, Bắc Yên tỉnh Sơn La của tác giả
Lò Vũ Vân [138], Nhạc lễ của người Mường và người Thái Phù Yên của tác giả
Đinh Văn Ân [9]; Quam tô mương xuất bản năm 2009 của tác giả Nguyễn Văn Hòa;
Thơ ca nghi lễ dân tộc Thái xuất bản năm 2012 của tập thể tác giả [90],...
Các bài viết nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành Dân tộc
học, Văn hóa học như: “Về một số phương diện văn hóa Thái ở xứ Thanh trong sự
so sánh với văn hóa Thái ở Tây Bắc” của tác giả Mai Thị Hồng Hải [48], “Một vài
nhận xét về tình hình nghiên cứu người Thái ở Việt Nam từ năm 1980 đến nay” của
tác giả Nguyễn Công Thảo [106], “Tôn giáo tín ngưỡng của người Ve ở Việt Nam
của tác giả Nguyễn Văn Minh [70], “Nghi thức nghi lễ và việc bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên của người Thái Mai Châu, Hoà Bình” của Hoàng Cầm [18],

“Giáo dục truyền thống của người Thái ở Việt Nam qua một số nghi lễ và phương
ngôn, tục ngữ” của Anh Vũ [144], “Góp thêm một số tư liệu về quan hệ giữa người
Thái và người Mường ở Việt Nam” của Hoàng Lương [66]...
Các luận văn tốt nghiệp của các học viên thuộc bộ môn Dân tộc học, Văn
hóa học, Văn hóa dân gian như: “Tục ngữ Thái Việt Nam: vần, nhịp và hệ thống
hình ảnh” của tác giả Lò Thị Hồng Nhung [91], “Số phận của người phụ nữ Thái
qua một số truyện thơ tiêu biểu của người Thái Tây Bắc” của tác giả Hoàng Thị
Hương Loan [58], “Trang phục trong dân ca Thái Tây Bắc Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Phúc [96],...
1.1.3. Các nghiên cứu về tang ma và các thực hành tín ngưỡng Thái khác
Trong thập niên 1980, 1990 của thế kỷ trước, bên cạnh các nghiên cứu
chung về người Thái còn có các nghiên cứu về tang ma và các thực hành tín ngưỡng
khác như: Tìm hiểu văn hóa cổ truyền người Thái Mai Châu của tập thể tác giả
Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Hữu Thức, Hà Sủm,... xuất bản năm 1987 [137], Hôn
nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam của Đỗ Thúy Bình xuất

12


bản năm 1994 [14], Mo Khuôn của Vương Trung [132] và Luật tục Thái ở Việt Nam
(tập quán pháp) của Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng, cùng xuất bản năm 1999 [117],
Văn hóa Thái ở Việt Nam của tác giả Cầm Trọng và Phan Hữu Dật xuất bản năm
1995 [129],...
Về lĩnh vực tang ma, tác giả Hà Sủm cùng các cộng sự đã công bố cuốn Tìm
hiểu văn hóa cổ truyền người Thái Mai Châu [137, tr.90-101], bên cạnh việc đề cập
đến nhiều mặt trong đời sống văn hóa cổ truyền của người Thái Mai Châu, trong đó
các tác giả đã dành 12 trang miêu tả chi tiết tang lễ và tục làm hiếu cổ truyền diễn ra
trong tám ngày. Trong tang lễ, tác giả đề cập đến quy trình nghi lễ tám bước, gồm:
Lễ tắm xác, liệm, nhập quan, tạ ơn công cha mẹ, lễ chính, lễ đưa tang, lễ đưa cơm
lần cuối cùng và lễ rửa nhà. Trong tục làm hiếu tám ngày, ngay sau khi đưa ma (làm

ma tươi) ngoài thời gian chuẩn bị trâu, bò lợn gà vịt, vải vóc... họ cũng phân
công nhiệm vụ cho con cái cháu chắt nội ngoại tham dự tục làm hiếu được sắp
đặt chặt chẽ theo từng ngày. Tuy tác giả chú ý khảo tả lễ tang thuần túy về các
nghi lễ, coi đó là phong tục của một nhóm Thái địa phương nhưng chưa phân
tích về vai trò và chức năng của đám tang. Tuy nhiên, những trang viết này là tư
liệu quý làm cơ sở để tác giả luận án so sánh khi luận giải về vài trò và chức
năng của tang ma Thái Phù Yên. Theo tác giả Hoàng Cầm [19, tr.56] “trong tang
ma của người Thái Trắng Mai Châu có bài mo Tảy ỏn óc được trình bày đầu tiên
thì người Thái Trắng Phù Yên cũng vậy”. Tác giả Lường Song Toàn lại quan
tâm đến giá trị của mo lễ tang trong công trình “Mo lễ tang-một pho thần thoại
và sử thi dân tộc Thái (Mai Châu)” [125, tr.387] thì gọi Tảy ỏn óc là Ẳm Oóc
(sinh ra con người, vòng đời và muôn loài).
Tác giả Đỗ Thúy Bình trong cuốn Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày,
Nùng và Thái ở Việt Nam [14, tr.227-254] đã dành 27 trang để trình bày về nghi lễ
ma chay của ba dân tộc Tày, Nùng, Thái. Bước đầu, tác giả đã phân tích quan niệm
về linh hồn của đồng bào, miêu tả sáu nghi lễ chính trong tang ma của người Tày,
Nùng và bốn ngày trong tang ma của người Thái. Nội dung công trình cho chúng ta
thấy các nghi lễ ma chay của người Thái Đen vùng Thuận Châu được thực hành cẩn

13


thận, phức tạp theo đúng tập quán đề cao vai trò “rể gốc”, với hình thức hỏa táng
trước, thổ táng sau. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ tiếp cận ma chay như một phong tục
nghi lễ, chưa phân tích so sánh với tang ma các nhóm Thái địa phương khác trong
vùng, trong đó có Thái Trắng Phù Yên. Với mục tiêu chính là làm rõ hôn nhân và
gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái, cho nên các vấn đề vai trò và chức năng của
tang ma Thái chưa được Đỗ Thúy Bình đề cập rõ ràng, đầy đủ là điều hiển nhiên.
Nhưng đó là những gợi ý, làm cơ sở để tác giả luận án tiếp tục bổ khuyết.
Cùng viết về tang ma người Thái, trong cuốn Luật tục Thái ở Việt Nam (tập

quán pháp) [117, tr.809-1093], tác giả Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng đã đề cập khá
chi tiết về Tục tang ma Thái Đen cổ2, khi đặt bản dịch song hành với bản chữ Thái
mô tả tiến trình tổ chức tang ma trong 5 ngày đêm, với nhiều thủ tục nghi lễ phức
tạp được rải ra trong các ngày với vai trò quan trọng của rể gốc trong việc dẫn hồn
ma (ông mo chỉ đóng vai người mách bảo). Cùng viết về tang ma, hai tác giả còn
dẫn toàn bộ nội dung bài khóc điếu phúng và tiễn đưa vong linh của người Thái
Trắng Phong Thổ về mặt văn bản do tác giả Cầm Trọng sưu tầm ở Mường So
(Phong Thổ) từ nguyên bản được chép bằng bút lông trên giấy dướng. Trong tang
ma của người Thái Trắng ở phía Bắc cũng như ở phía Nam miền Tây Bắc đều
không có tục làm rể gốc đóng vai trò như Một, Mo để diễn xướng bài dẫn dắt linh
hồn người chết về cõi hư vô như phong tục người Thái Đen. Vương Trung3 trong
công trình Mo khuôn sưu tầm các bài mo tiễn hồn của người Thái Đen Mường Muổi
Thuận Châu cũng có những nội dung tương tự.
2

Tác giả Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng đã kế thừa bản chép tay của ông Liêm Phính ở

Mường Sại xã Chiềng Muôn từ tháng 6/1961 với nhan đề Lệ tục tang ma Thái Đen (Hịt
khong téng pang heo-Tay Đăm).
3

Vương Trung (Lường Vương Trung, 1938-2014), dân tộc Thái, huyện Thuận Châu (Sơn

La); là Hội viên Hội Nhà văn, Hội văn học-nghệ thuật các dân tộc thiểu số và Hội văn nghệ
dân gian của Việt Nam. Ông là nhà thơ nhà nghiên cứu văn hóa Thái nổi tiếng với các tác
phẩm sưu tầm, nghiên cứu và dịch thơ cổ như Mo Khuôn, Tay pú xấc, Chương Han; sáng
tác truyện thơ Ing Éng, tập thơ Sóng Nậm Rốm, tiểu tuyết Mối tình Mường Sinh...

14



Đến năm 1995, tác giả Cầm Trọng-Phan Hữu Dật tiếp tục công bố cuốn Văn
hóa Thái Việt Nam [129] dành 66 trang đề cập đến tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam.
So với Người Thái ở Tây Bắc, cuốn Văn hóa Thái Việt Nam phân tích làm rõ thêm
vai trò chức năng cái gọi là linh hồn Khuôn (Phi Khuôn), Một (Phi Một) và Mo,
Bản và Mường trong lực lượng siêu nhiên, các “đấng sáng tạo” và cái gọi là Then
trong tín ngưỡng tôn giáo người Thái Việt Nam, chứ không chỉ là tín ngưỡng tôn
giáo Thái vùng Tây Bắc.
Những nội dung trên đều là những tư liệu quý, đáng tin cậy về tín ngưỡng
của người Thái. Đó là cơ sở quan trọng để luận giải quá trình tổ chức tang ma của
người Thái có mối liên hệ chi phối của các thế lực siêu nhiên với con người, cũng
như quá trình chuyển hóa người chết thông qua đám tang. Hạn chế của những tư
liệu nêu trên là chưa luận giải quy trình tổ chức đám tang, quan niệm của người
Thái đối với các thế lực trong giới tự nhiên và chưa đề cập đến tang ma giữa các
nhóm Thái địa phương để thấy được những tương đồng và khác biệt giữa các vùng
của tộc người Thái và sự biến đổi trong tang ma. Đặc biệt chưa có công trình nào
miêu tả một cách hệ thống về quy trình tổ chức tang ma Thái, các biểu tượng nghi lễ
để tạo dựng một cuộc sống mới cho người chết.
Các bài viết về phong tục tang ma Thái được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành có: “Tục lệ tang ma của người Tày Mười ở miền Tây Nghệ An” (Vi Văn An)
[2], “Góp phần tìm hiểu về những tín ngưỡng và những lễ tục dân gian của đồng
bào Thái ở miền núi Nghệ An” (Trịnh Đình Niên-Vi An) [92]; và các luận văn tốt
nghiệp đại học, thạc sĩ như: “Ngôn ngữ nghi thức nghi lễ của người Thái Mường
Tấc, Phù Yên, Sơn La” (Hoàng Cầm) [17],... đều đề cập đến các lĩnh vực khác nhau
của đời sống văn hóa Thái nói chung, các địa phương Thái nói riêng như ở Phù Yên
(Sơn La), miền núi Nghệ An. Nổi bật là bài viết của tác giả Vi Văn An, Trịnh Đình
Niên, Hoàng Cầm là tài liệu có giá trị đề cập trực tiếp đến tín ngưỡng nghi lễ trong
đó có tang ma của các nhóm Thái địa phương. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên
cứu nào đi sâu lý giải quy trình nghi lễ trong tang ma, ý nghĩa biểu tượng của trong


15


quy trình nghi lễ có tác dụng gì trong việc người sống tạo dựng một ”đời sống mới”
cho người chết, đồng thời củng cố lại tinh thần tâm lý cho người sống.
Cũng vào thời gian này, sự ra đời của Chương trình Thái học Việt Nam
thuộc Trung tâm hợp tác nghiên cứu Việt Nam của Trường Đại học tổng hợp Hà
Nội (nay thuộc Viện Việt Nam học của trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội)
đã góp phần đáng kể thúc đẩy việc nghiên cứu Thái học ở Việt Nam [22]-[23]. Theo
tổng kết của nhà nghiên cứu Cầm Trọng: “chỉ trong lần hội thảo thứ nhất (tổ chức
vào ngày 25-26/11/1991) đã có 34 báo cáo khoa học của 30 tác giả” đến lần hội
thảo thứ 2 “có 58 bài báo cáo khoa học của 62 tác giả ở Hà Nội và nhiều địa
phương khác nhau” [22, tr.21-22]. Các báo cáo trong Hội thảo đã đề cập đến nhiều
lĩnh vực khoa học khác nhau. Sau mỗi lần Hội thảo, các bài viết được sắp xếp thành
tập kỷ yếu có giá trị và được xuất bản rộng rãi thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học. Viết về tập quán tín ngưỡng đáng chú ý là các báo cáo “Vài nét về người
Thái Quỳ Châu, Nghệ An” của Lường Chiến Thắng [22, tr.332], “Một số phong tục
chính của người Thái Sơn La” của Hoàng Nó [22, tr.529],“Đôi nét về tín ngưỡng
dân gian Thái” của Lê Ngọc Thắng [22, tr.604], “Đề cương về tang lễ” của Cầm
Ngoan [22, tr. 615]. Điểm chung là các tác giả đã khái quát về đời sống tín ngưỡng
phong tục, về cuộc sống, cái chết và các “phi” của người Thái dẫn đến việc họ có
các tập quán ứng xử khác nhau giữa các nhóm Thái địa phương, mà lễ tang là một
tập quán quan trọng. Tuy nhiên chưa có báo cáo nào khảo tả đầy đủ quy trình tổ
chức tang ma và luận giải vai trò, chức năng ý nghĩa của lễ tang, sự biến đổi, việc
tạo dựng cuộc sống mới cho người chết.
Từ những năm đầu của thế kỷ XXI cho đến nay đã có hàng loạt các công
trình mới liên quan đến tang ma của người Thái được ra đời như: Lời tang lễ dân
tộc Thái của tác giả Hoàng Trần Nghịch xuất bản năm 2000 [84]; cùng xuất bản
năm 2005 có Những lời cúng tế của dân tộc Thái của tác giả Hoàng Trần Nghịch
[85], Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam của tác giả Cầm Trọng [128],

Người Thái của tác giả Chu Thái Sơn và Cầm Trọng [99], Tang lễ của người Thái
trắng của tác giả Lương Thị Đại [40]; xuất bản năm 2007 có: Huyền thoại Mường

16


Then của tác giả Cầm Trọng [131], Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc
Tây Bắc tập kỷ yếu hội thảo về bảo tồn và phát huy văn hóa nghệ thuật các dân tộc
vùng Tây Bắc xuất bản năm 2001 của tập thể 51 tác giả [88]...tiếp tục đề cập đến
các mặt của văn hóa lịch sử tín ngưỡng tang ma Thái nói chung, các nhóm Thái địa
phương nói riêng.
Trong đó đáng chú ý là các ấn phẩm tác giả Hoàng Trần Nghịch đề cập đến
tín ngưỡng tang ma của người Thái Đen. Nếu ấn phẩm Lời tang lễ dân tộc Thái [84]
giới thiệu về Khuân (Hồn) và lời hướng dẫn của ông mo (tang ca) cho các Khuân
biết đường về với thế giới tổ tiên, bao gồm: Mo hồn lớn (Mo khuân luông), Tìm hồn
lạc (Hịak khuân đông), Lời dẫn hồn lên mường trời (Quám sống phi) thì ấn phẩm
Những lời cúng tế của dân tộc Thái-bằng chữ Thái đã nêu 14 bài cúng tế thông
thường của người Thái Đen [85, tr.106]. Khi giới thiệu ấn phẩm Sổ xem ngày-xem
giờ (Xô đụ mư), Hoàng Trần Nghịch cũng nêu quan niệm về con người, sự sống và
tín ngưỡng của người Thái, thống kê có 123 loại “phi”, 46 loại cúng “sên” và cá thể
hóa 80 hồn4 trong một con người [83, tr.7,13,239]. Những ấn phẩm của Hoàng Trần
Nghịch được tiếp cận theo hướng bảo tồn giá trị, đó là tư liệu quý làm phong phú
thêm những quan niệm của người Thái về tín ngưỡng của nhóm người Thái Đen,
chưa đề cập chức năng nghi lễ trong tang ma.
Tác giả Lường Song Toàn trong báo cáo khoa học Mo lễ tang-một pho thần
thoại và sử thi dân tộc Thái (Mai Châu) [125, tr.386-341] đã tiếp cận lễ tang theo
hướng đề cao giá trị để phân tích rõ giá trị nội dung các bài mo trong lễ tang của
người Thái (Mai Châu) bằng nhận định: “Mo lễ tang là một pho thần thoại và sử thi
dân tộc”, “một kiệt tác đồ sộ và có gía trị đặc biệt” trong môi trường sinh hoạt tín
ngưỡng dân tộc đặc sắc; khẳng định vai trò quan trọng của ông mo, cầu nối “người”

với “hồn và mường ma”, diễn ra không gian thiêng, trang nghiêm, nhiều mảng màu,
4

Người Thái quan niệm, con người sống phải có 2 phần: thể xác và hồn. Mỗi người có 80

hồn, 30 hồn ở phía trước, 50 hồn ở phía sau (Xạm xíp khuân măng na, ha xíp khuân măng
đăng). Tác giả Hoàng Trần Nghịch đã liệt kê rõ ràng 80 hồn này ứng với các bộ phận trong
cơ thể người.

17


âm thanh; khẳng định tác dụng nuôi dưỡng các giá trị văn hóa, nghệ thuật dân gian
của dân tộc của mo lễ tang; khẳng định Mo lên trời là một pho sử thi tiêu biểu trong
Ặm Ệt, một niềm tự hào lớn, với những bài học về tri thức, lịch sử, đạo đức đối với
đời sống hôm nay. Tác giả luận án tán thành với những nhận định có cơ sở của tác
giả Lường Song Toàn song tiếc là tác giả chưa có sự so sánh với các nhóm Thái địa
phương, chưa đề cập đến chức năng của đám tang một cách rõ ràng.
Tác giả Cầm Trọng trong cuốn Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam
[130, tr.378-400] dành 23 trang trong chương VI “Một số nét cơ bản về văn hóa phi
vật thể” trở lại khái quát về tôn giáo tín ngưỡng của người Thái Việt Nam, làm rõ
thêm về đường sống, đường chết, đường thần linh và cõi Trời-Mường Phạ; cuốn
Người Thái của tác giả Chu Thái Sơn-Cầm Trọng [99] một lần nữa bên cạnh việc
giới thiệu khái quát về đời sống kinh tế, văn hóa xã hội người Thái Việt Nam có ảnh
minh họa, còn dành 20 trang tiếp tục đề cập đến quy trình tổ chức lễ tang của nhóm
Thái Đen làm rõ thêm những khảo tả về đám tang cổ người Thái Đen trong cuốn
“Luật tục Thái ở Việt Nam” của tác giả Ngô Đức Thịnh-Cầm Trọng xuất bản năm
1999 và dành 10 trang tiếp tục khác quát về tín ngưỡng các phi và làm phong phú
thêm vũ trụ quan ba tầng mường5 của người Thái qua cuốn Huyền Thoại Mường
Then [131]. Tuy không đề cập trực tiếp đến chức năng của lễ tang nhưng đó là

những tư liệu quý để so sánh với tang ma của người Thái Phù Yên trong quá trình
triển khai luận án.
Tác giả Lò Vũ Vân trong cuốn Văn hóa dân gian của người Thái vùng Mộc
Châu, Phù Yên, Bắc Yên tỉnh Sơn La, mặc dù chỉ dừng lại ở chỗ khái quát những
nghi lễ vòng đời, phong tục lễ nghi và dẫn trích những bài ca lễ tiêu biểu của người
Thái vùng Mộc Châu, Phù Yên, Bắc Yên, nhưng chưa đề cập đến quy trình tổ chức
lễ tang. Phải đợi đến 5 năm sau đó, ông mới tiếp tục công bố Lời ca tang lễ dòng họ
Sa: dân tộc Thái vùng Mộc Châu, Bắc Yên tỉnh Sơn La [139] một cách hệ thống hơn
về đám tang của một dòng họ tiêu biểu, đó là họ Sa, từ các thủ tục nghi lễ trong đám
5

Ba tầng mường này nằm chồng kề sát nhau như cơ thể con người phân thành 3 phần: trên

- đầu, giữa-mình, dưới-chân.

18


tang đến đưa tang. Theo nhận định của tác giả: tiến trình tổ chức đám tang người
Thái vùng Mộc Châu, Bắc Yên, Phù Yên là giống nhau. Từng có nhiều năm sưu
tầm nghiên cứu đám tang các dòng họ người Thái ở vùng Phù Yên, tác giả luận án
cơ bản đồng nhất với nhận định của tác giả Lò Vũ Vân và coi đó là tư liệu quý để
củng cố thêm cho những đánh giá của mình khi luận giải tang ma của người Thái
Phù Yên. Mặc dù tác giả mới chỉ đối chiếu tang lễ giữa họ Sa và họ Lường của Bắc
Yên với Mộc Châu, chưa đề cập đến huyện Phù Yên.
Đáng chú ý về đề tài tang lễ trong giai đoạn này còn có cuốn Tang lễ của
người Thái trắng [40], dài 437 trang của tác giả Lường Thị Đại sưu tầm nghiên cứu
ở Mường Lay (Điện Biên). Tác giả đã khảo tả quy trình tổ chức tang lễ cổ truyền
trong 5 ngày với 24 nghi lễ nghi thức, thủ tục đưa tang sau khi chôn cất và dẫn một
số bài cúng ngắn. Mặc dù bản chất và mục đích của việc tổ chức lễ tang là giống

nhau giữa các nhóm Thái Việt Nam. Tuy nhiên, trong tang lễ của nhóm Thái trắng
vùng Điện Biên và Lai Châu có nhiều nét khác với tang lễ của người Thái trắng
vùng Phù Yên, Bắc Yên, Mộc Châu và vùng miền núi Nghệ An6 từ nội dung quy
trình tổ chức, các thủ tục nghi lễ có xướng bài ca lễ ngắn dài do con trai trưởng nhại
lời của ông mo, đến hình thức trang trí các đồ vật và cách thức sử dụng, nghi thức
mở tang, đưa tang, dựng cây cờ (cọ cao), cách đưa cơm sau khi chôn cất...Đặc điểm
dễ nhận biết nhất trong đám tang của người Thái trắng vùng Điện Biên, Lai Châu là
việc trang trí rất đẹp các vật dụng như ô to (cúp luông), ô nhỏ (cúp nọi) cùng với
cây cao với ý nghĩa che bản che mường và che mộ. Điều này cũng khác với cách
trang trí“cờ phướn”(co heo)7 của nhóm Thái Đen vùng Mai Sơn, Mường La, Sông
Mã, Thuận Châu của tỉnh Sơn La.
Cùng với sách, trong giai đoạn còn có một số bài viết về tang ma Thái, đáng
chú ý là: “Sự biến đổi trong tang lễ của người Thái ở Tây Bắc (qua nghiên cứu
trường hợp ở Quỳnh Nhai, Sơn La)” của Lê Hồng Lý [68], tác giả đã thành công
6

So sánh với công bố của tác giả Quán Vi Miên trong cuốn: Tang lễ của người Thái Nghệ

An sẽ đề cập sau.
7

Co heo là tên gọi chung cho cây cờ ma, ngoài ra còn có các tên gọi chao phạ, cao, tung

19


trong việc khảo sát sự biến đổi trong tang lễ của người Thái ở vùng Tây Bắc qua
một đám tang của người Thái Trắng (bà La Thị Thích) ở Quỳnh Nhai (Sơn La), một
quy trình tổ chức lễ tang tỉ mỉ diễn ra trong 3 ngày không đầy đủ và một đêm trọn
vẹn làm cơ sở để có những nhận định đúng đắn về những biến đổi trong tang lễ của

người Thái. Tác giả luận án đồng tình với tác giả về những nhận định: “sự giản tiện
các tập quán cũ đã rõ ràng”, thời gian tổ chức và chuẩn bị các lễ vật “đều được đơn
giản hóa và rút gọn” bởi các lí do như ảnh hưởng của nền văn hóa mới, chịu sự chi
phối bởi các quy định của xã hội, ảnh hưởng văn hóa của người Kinh rõ rệt, và ảnh
hưởng cơ chế thị trường; bên cạnh đó còn những vấn đề ăn uống, thái độ với người
chết, về tang phục, các nghi thức, kiêng kị...đều có sự thay đổi theo thời gian, nhưng
cốt lõi của những tư tưởng nhân văn trong tang lễ vẫn được bảo lưu nguyên vẹn
trong cuộc sống của người Thái Trắng, đó là điều đáng mừng, có giá trị không chỉ
với dân tộc này. Cũng viết về tang ma trong thời gian này còn có “Tục làm ma của
người Táy Khao (Thái Trắng) ở Mường Lay” của Trần Bình và Hoàng Mai Lan
[16] là cơ sở khẳng định thêm quy trình tổ chức tang ma của nhóm Thái trắng
Mường Lay vùng Điện Biên-Lai Châu mà tác giả Lương Thị Đại đã đề cập để so
sánh với nhóm Thái Trắng Phù Yên.
Ngoài ra, còn có các luận văn tốt nghiệp của các học viên thuộc bộ môn
DTH, VHH, VHDG như: “Mo đám ma của người Thái Mường Tấc (huyện Phù
Yên, tỉnh Sơn La)” của tác giả Hoàng Cầm [19], “Tín ngưỡng các “phi” của người
Thái Quỳ Châu-Nghệ An” của tác giả Đậu Tuấn Nam [75],... Đáng chú ý là hai
chuyên khảo trực tiếp đề cập đến tín ngưỡng tang ma ở hai nhóm Thái thuộc hai
vùng khác nhau. Đó là nhóm Thái Mường Tấc (huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La), vùng
tác giả luận án quan tâm và nhóm Thái Quỳ Châu-Nghệ An. Nếu như Hoàng Cầm
trong luận văn “Mo đám ma của người Thái Mường Tấc (huyện Phù Yên, tỉnh Sơn
La)” đi sâu tìm hiểu các bài mo cùng với những thực hành nghi lễ “là một chỉnh thể
thống nhất tạo nên đám ma”, “mang đậm tính chất tín ngưỡng để đưa hồn ma của
người chết sang thế giới của các thần linh” [19, tr.95] thì trong “Tín ngưỡng các
“phi” của người Thái Quỳ Châu-Nghệ An”, Đậu Tuấn Nam chú ý đề cập đến “tín

20



×