Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Lễ cấp sắc và tang ma của người dao tuyển ở huyện bảo thắng tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 151 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



PHAN THỊ HẰNG





LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN
Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.54



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY TIẾN








THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thiện luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả

Phan Thị Hằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN
Trước hết tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy
hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Duy Tiến, cùng các thầy cô trong tổ lịch sử
Việt Nam, khoa Lịch sử, trường Đại học sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã
chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Lào
Cai, UBND huyện Bảo Thắng đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tác giả
hoàn thành luận văn.
Trong thời gian đi thực tế luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của các già làng, trưởng bản, thầy cúng và những người cung cấp

thông tin ở nhiều xã trong huyện Bảo Thắng. Tác giả chân thành cảm ơn sự
giúp đỡ quý báu đó.
Cuối cùng, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Tác giả


Phan Thị Hằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

0
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 0
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 3
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu ........................................... 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4
3.3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn ................................ 5
4.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................. 5
4.2. Nhiệm vụ của luận văn ..................................................................... 5
5. Nguồn tài liệu ......................................................................................... 5
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 6
7. Bố cục luận văn....................................................................................... 6
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO
THẮNG TỈNH LÀO CAI .......................................................... 7

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên huyện Bảo Thắng ............................ 7
1.2. Người Dao Tuyển ở Bảo Thắng ...................................................... 12
1.2.1. Địa bàn cư trú và nguồn gốc lịch sử của người Dao Tuyển ở
huyện Bảo Thắng ..................................................................... 12
1.2.2. Đời sống kinh tế, xã hội của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng .... 15
Chương 2. LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO
TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI ............. 30
2.1. Lễ tục cấp sắc của người Dao Tuyển .................................................. 30
2.1.1. Quan niệm về sự trưởng thành ..................................................... 30
2.1.2. Lễ cấp sắc của người Dao Tuyển ................................................. 30


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1
2.1.3. Ý nghĩa của lễ cấp sắc .................................................................. 78
2.1.4. Một số biến đổi ngày nay ............................................................. 80
2.2. Lễ tục tang ma của người Dao Tuyển ................................................. 81
2.2.1. Quan niệm về hồn và cái chết ...................................................... 81
2.2.2. Lễ tục tang ma ............................................................................. 82
2.2.3. Để tang và những kiêng kỵ ........................................................ 103
2.2.4. Một số biến đổi trong tang ma ................................................... 105
Chương 3. NHỮNG GIÁ TRỊ TRONG LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA
CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN .................................................................... 108
3.1. Giá trị trong lễ cấp sắc và tang ma ................................................... 108
3.1.1. Giá trị lịch sử ............................................................................. 108
3.1.2. Giá trị nhân văn ......................................................................... 109
3.1.3. Giá trị nghệ thuật ....................................................................... 115
3.1.4. Giá trị cố kết cộng đồng ............................................................. 118
3.2. Những yếu tố phi giá trị ................................................................... 118

3.3. Bảo tồn và phát huy những giá trị trong đời sống ............................. 119
KẾT LUẬN ............................................................................................... 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 127
Phụ lục ..................................................................................................... 131


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với một nền văn hóa đa dạng
trong thống nhất. Văn hóa là dòng chảy xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương
lai của một dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mỗi
dân tộc đã tạo dựng cho mình một lâu đài văn hóa đồ sộ, một truyền thống
văn hóa riêng để phân biệt với các dân tộc khác. Những giá trị văn hóa đó tạo
nên bản sắc văn hóa tộc người, làm thành những chuẩn mực để phân biệt tộc
người này với tộc người kia. Nếu dân tộc nào để mất đi văn hóa truyền thống
của mình thì nó không còn là một cộng đồng tộc người riêng biệt nữa.
Dân tộc Dao là một trong số 54 dân tộc anh em đang sinh sống trên đất
nước Việt Nam. Trong các tộc người thiểu số ở nước ta, người Dao có dân số
khá đông, xếp vào hàng thứ 9 với khoảng 620.538 người [45, tr. 21], cư trú
phân tán ở nhiều địa phương chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc
như Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn… Người Dao có
nhiều nhóm ngành khác nhau lại cư trú trên địa bàn nhiều tỉnh nên đã tạo nên
những sắc thái văn hóa phong phú và đa dạng.
Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở phía Nam Trung Quốc di cư sang
nước ta theo nhiều đợt bằng đường bộ, đường sông và đường biển. Trong số 7
nhóm người Dao địa phương thì ở Lào Cai có 3 nhóm là: Dao Tuyển, Dao Đỏ
và Dao Nga Hoàng. Bảo Thắng là một trong hai huyện có người Dao Tuyển

sống tập trung đông nhất của tỉnh Lào Cai.
Bảo Thắng là vùng bảo tồn được nhiều loại hình văn hóa dân gian và
nếp sống của cộng đồng có tính chất tộc người. Trong đó có những lễ nghi
theo chu kỳ đời người hết sức độc đáo của người Dao Tuyển. Những lễ nghi
theo chu kỳ đời người như sinh đẻ, cấp sắc, cưới xin, ma chay là một trong
những biểu hiện cụ thể vừa mang tính xã hội vừa mang tính tôn giáo. Đó là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2
những giá trị văn hóa điển hình phản ánh về cái mốc đáng nhớ nhất trong đời
người mà bất kỳ người Dao Tuyển nào cũng phải trải qua. Những phong tục
tập quán theo chu kỳ đời người đó vẫn được đồng bào Dao Tuyển ở đây lưu
giữ đến tận ngày nay trong những cuốn sách cổ.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập mở cửa, quốc tế hóa với sự du nhập
của nhiều dòng văn hóa ngoại lai, người Dao Tuyển cũng như nhiều dân
tộc anh em đang đứng trước những biến đổi sâu sắc trong đời sống văn
hóa, xã hội. Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đang là việc
làm cấp thiết.
Nghiên cứu về các tập tục chủ yếu trong chu kỳ đời người người
Dao Tuyển ở Bảo Thắng, Lào Cai là đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của người Dao nói chung theo chủ trương Nghị quyết
Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đề ra:
“Chúng ta cần nỗ lực xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà
nước ta thừa nhận các dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và
sắc thái văn hóa riêng và chủ trương tạo điều kiện cho các giá trị và các sắc
thái văn hóa đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và
củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ sự bình đẳng và phát huy tính
đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em”. [51, tr.206]. Ngoài ra, kết quả

nghiên cứu còn là nguồn tài liệu làm cơ sở cho các nhà quản lý có thể xây
dựng các chính sách phù hợp với chủ trương kế thừa và phát huy những mặt
tích cực trong lĩnh vực phong tục tập quán của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng
nói riêng và của người Dao Tuyển cũng như của cả cộng đồng người Dao ở
Việt Nam nói chung.
Chính từ những lý do trên nên em chọn vấn đề “Lễ cấp sắc và tang ma
của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai” làm luận văn thạc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3
sỹ của mình. Mục đích nhằm góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng và của dân tộc Dao nói chung.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Cho đến nay, nhiều vấn đề về người Dao ở nước ta đã được đề cập
trong nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu của không ít nhà khoa học, nhà
nghiên cứu.
Ngay dưới thời phong kiến, trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn
không chỉ đề cập đến nguồn gốc mà còn mô tả khái quát về cách ăn mặc và
cuộc sống di cư của một số nhóm người Man (Người Dao) ở nước ta.
Từ đầu thập kỷ 60 đến nay xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về người
Dao, trong đó đáng chú ý là công trình của Phan Hữu Dật và Hoàng Hoa Toàn
“Một số vấn đề dân tộc học Việt Nam”. Các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn
đề từ nguồn gốc lịch sử, dân số, kinh tế, văn hóa của các ngành Dao cũng như
của người Dao Tuyển. Tuy nhiên, trong đó chưa đề cập đến tục cấp sắc và
tang ma của người Dao Tuyển.
Trong cuốn “Người Dao ở Việt Nam” của các tác giả Bế Viết Đẳng,
Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến đã đề cập đến các vấn
đề như dân số, nguồn gốc lịch sử, phân loại các ngành Dao, các hình thái kinh
tế, phong tục, tôn giáo tín ngưỡng. Ở công trình nghiên cứu này, lần đầu tiên

diện mạo người Dao được trình bày khá toàn diện cả về lịch sử, kinh tế, xã
hội, văn hóa. Tuy nhiên, lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển chỉ
được trình bày rất sơ lược.
Trong cuốn “Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người - ngôn ngữ
Mông - Dao”, Th.s Đỗ Đức Lợi đã trình bày về các tập tục trong chu kỳ đời
người của dân tộc Dao nói chung. Trong đó cũng có vài dòng về những lễ
nghi theo chu kỳ đời người của người Dao Tuyển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4
Công trình “Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang” cũng đề
cập khá chuyên sâu về văn hóa cổ truyền trong đó có các nghi lễ chủ yếu
trong chu kỳ đời người của hai nhóm Dao ở tỉnh Hà Giang là Dao Đỏ và
Dao Áo Dài (Dao Tuyển).
Cuốn “Lễ cưới người Dao Tuyển” của TS. Trần Hữu Sơn trình bày chi
tiết về quan niệm, nguyên tắc hôn nhân, tiến trình của lễ cưới người Dao Tuyển.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều đề cập đến những
lễ nghi trong chu kỳ đời người của người Dao Tuyển trong đó có lễ cấp sắc và
tang ma. Song phần lớn các tác phẩm nghiên cứu trên một phạm vi rộng với
những đặc trưng văn hóa của người Dao và Dao Tuyển nói chung, chưa làm
rõ được những sắc thái phong phú, đa dạng, đặc trưng của văn hóa Dao Tuyển
ở huyện Bảo Thắng để từ đó rút ra những giá trị tiêu biểu của tộc người. Mặc
dù vậy, những công trình nghiên cứu trước đây giúp cho chúng tôi có cơ sở,
phương pháp và một số tư liệu cần thiết để có thể hoàn thành vấn đề mà
chúng tôi đề ra.
3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu về lễ tục cấp sắc và lễ
tục tang ma của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng - Lào Cai.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào
Cai. Lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển có nhiều vấn đề nhưng
do thời gian có hạn nên luận văn chỉ tập trung tìm hiểu một số vấn đề liên
quan đến lễ tục cấp sắc như: tên gọi, tiến trình, ý nghĩa lễ cấp sắc trong đời
người; Một số vấn đề liên quan đến lễ tục tang ma như: Quan niệm về hồn và
cái chết, lễ làm ma, lễ làm chay, những kiêng kỵ và để tang. Từ đó rút ra một
số giá trị tiêu biểu của tộc người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5
3.3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm tìm hiểu sâu hơn về lễ tục
cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở Lào Cai, rút ra những giá trị tiêu
biểu. Từ đó làm cơ sở giúp các nhà quản lý hoạch định những biện pháp, chính
sách để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao Tuyển ở huyện
Bảo Thắng nói riêng và của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnh Lào Cai nói chung.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng trong luận văn các
phương pháp như: Phương pháp điền dã dân tộc học, phương pháp logic,
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,…
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Tìm hiểu vài nét về người Dao Tuyển ở Bảo Thắng, Lào Cai như: tên
gọi, lịch sử cư trú, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Đi sâu tìm hiểu các lễ nghi liên quan đến lễ tục cấp sắc và tang ma
của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai.
- Nêu lên những quan niệm của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng về vị trí, vai
trò của lễ tục cấp sắc và tang ma trong đời sống xã hội và tâm linh của họ.

- Tìm hiểu những biến đổi trong lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển
ngày nay.
- Qua đó rút ra những giá trị văn hóa tiêu biểu của tộc người Dao Tuyển.
5. Nguồn tài liệu
+ Tài liệu thành văn
- Các tác phẩm, công trình lý luận về vấn đề văn hóa và văn hóa tộc
người như: Về các giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam của Trường Chính, Một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6
số phong tục tập quán trong các dân tộc thiểu số góp phần nghiên cứu văn hóa
và tộc người của Nguyễn Từ Chi…
- Các tác phẩm thông sử và chuyên khảo trong đó có tài liệu chính sử
của nhà nước phong kiến như: Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, Lịch triều
hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí…; Các sách
chuyên khảo và các bài viết đề cập đến lịch sử, văn hóa của các cơ quan
nghiên cứu và các nhà khoa học như: Tập tục theo chu kỳ đời người của
nhóm ngôn ngữ Mông - Dao của Th.s Đỗ Đức Lợi, Tục cấp sắc của người
Dao Quần Chẹt ở Bắc Thái…
+ Tài liệu điền dã
Lời kể của người già, thầy cúng dân tộc Dao Tuyển, trực tiếp quan sát lễ
cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển để ghi chép, miêu thuật một cách cụ thể.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối hệ thống về lễ cấp sắc và
tang ma của người Dao Tuyển từ đó rút ra những giá trị văn hóa tiêu biểu tộc
người. Qua đó góp phần tìm hiểu sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn
hóa và việc bảo tồn những nét văn hóa riêng của người Dao Tuyển.
Luận văn góp phần làm phong phú nguồn tài liệu lịch sử văn hóa địa
phương.

7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo và kết luận, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về ngƣời Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai
Chương 2: Lễ cấp sắc và tang ma của ngƣời Dao Tuyển ở Bảo Thắng
Chương 3: Những giá trị trong lễ cấp sắc và tang ma của ngƣời Dao Tuyển



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI DAO TUYỂN
Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên huyện Bảo Thắng
Bảo Thắng là huyện biên giới cửa ngõ của tỉnh Lào Cai, phía Bắc giáp
huyện Hà Khẩu (Vân Nam - Trung Quốc) với đường biên giới dài 6,5 km,
phía Đông và Đông Bắc giáp giới với huyện Bắc Hà và Mường Khương, phía
Nam giáp huyện Bảo Yên và Văn Bàn, phía Tây giáp huyện Sa Pa và Tây Bắc
giáp thành phố Lào Cai.
Dưới thời Hùng Vương, Bảo Thắng thuộc đất Tây Âu của Thục Phán, thời
Bắc thuộc là châu Cam Đường quận Giao Chỉ, đến đời Lý thuộc Châu Đăng, đời
Trần thuộc Quy Hóa. Từ thời nhà Lê đến khi thực dân Pháp chiếm đóng (1428 -
1886), Bảo Thắng thuộc châu Thủy Vĩ, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa.
Năm 1905 thực dân Pháp lấy phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên hữu ngạn
sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thuỷ Vỹ. Từ đó địa
danh Chiêu Tấn không còn. Phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên tả ngạn sông Hồng
được tách ra lập thành châu Bảo Thắng, ổn định đến khi lập tỉnh Lào Cai (1907).
Khi đó châu Bảo Thắng có 11 xã, phố trại và 30 làng, bản, phố: Lào Cai, Phố Mới,

Trại Mới, Soi Mười, Sơn Mãn, Giang Đông, Cánh Chín, Thái Niên, Phố Lu,
Xuân Quang, Phong Niên.Còn châu Thuỷ Vĩ có 4 xã là xã Nhạc Sơn (16 thôn
bản), xã Xuân Giao (14 thôn bản), xã Cam Đường (137 thôn, bản) và xã Gia Phú
(16 thôn bản).
Ngày 9-3-1944, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành nghị định bãi bỏ châu
Thuỷ Vĩ, châu Bảo Thắng để thành lập phủ Thuỷ Vĩ, phủ Bảo Thắng, 3 châu
Bát Xát, Sa Pa, Bắc Hà và khu đô thị Lào Cai. Phủ Bảo Thắng gồm 17 xã,
làng: Nhạc Sơn, Cam Đường, Gia Phú, Xuân Giao, Pha Long, Mường Khương,
Bản Lầu, Phong Niên, Xuân Quang, Phố Mới, Trại Mới, Soi Mười, Sơn Mãn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8
Cánh Chín, Giang Đông, Thái Niên, Phố Lu. Lỵ sở của phủ đặt tại Lào Cai.
Từ 1944 mới gọi là huyện. Tuy địa giới đã điều chỉnh nhiều lần nhưng địa
danh “Bảo Thắng” thì giữ nguyên cho đến ngày nay.
Hiện nay, Bảo Thắng là một trong 9 huyện, thành của tỉnh Lào Cai
với diện tích tự nhiên là 682,19 km
2
và dân số là 102. 519 người [4, tr.12].
Bảo Thắng có 15 xã và thị trấn, phía hữu ngạn sông Hồng có 5 xã và 1 thị
trấn: Sơn Hà, Sơn Hải, Phú Nhuận, Xuân Giao, Gia Phú, thị trấn Tằng Loỏng;
phía tả ngạn sông Hồng có 7 xã và 2 thị trấn bao gồm: thị trấn Phố Lu, xã
Phố Lu, Trì Quang, Xuân Quang, Phong Niên, thị trấn Nông trường Phong Hải,
Bản Cầm, Bản Phiệt, Thái Niên.
Huyện Bảo Thắng là một vùng thung lũng nằm ven hai bên sông Hồng
với độ cao phổ biến từ 80m đến 400m. Địa hình bao gồm dải thung lũng hẹp chạy
dài ven sông Hồng, phía Tây là dải núi thấp của dãy Phan Xi Păng - Pú Luông,
phía Đông là dải núi thấp của dãy thượng nguồn sông Chảy án ngữ. Đoạn
sông Hồng chảy qua huyện dài 38 km, chia huyện thành hai khu vực hữu

ngạn và tả ngạn. Khu vực hữu ngạn có nhiều suối lớn đều bắt nguồn từ dãy
núi Phan Xi Păng tạo thuận lợi cho giao thông đường thủy như ngòi Bo, ngòi
Nhù, suối Chát… Tổng nhiệt độ của Bảo Thắng trong một năm là 8.000
0
C,
nhiệt độ trung bình/năm từ 22
0
C đến 24
0
C. Lượng mưa toàn huyện thuộc loại
trung bình khoảng 1.600 mm - 1.800 mm.
Phần lớn đất đai của huyện Bảo Thắng là đất lâm nghiệp với 56.303 ha.
Đất nông nghiệp toàn huyện có khoảng hơn 8.600 ha, nhưng chỉ có hơn 3.000
ha trồng cây lương thực, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Số còn lại
phần lớn ở Bảo Thắng là đất ferarit màu đỏ, vàng hoặc vàng đỏ thuận lợi cho
việc trồng rừng, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả.
Huyện Bảo Thắng có nhiều tài nguyên khoáng sản quý. Mỏ Apatit với
trữ lượng lớn, hàm lượng cao, chạy dài hàng chục kilômét bên hữu ngạn sông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9
Hồng thuộc các xã Cam Đường, Tả Phời, Hợp Thành… Apatit ở đây hầu như
nguyên chất, trỉa rộng không những là tài nguyên quý mà còn làm giàu cho
đất rất thuận tiện cho trồng trọt. Bảo Thắng còn có các mỏ cao lanh, mi ca, đất
sét trắng… Về lâm sản có các loại gỗ quý như lát, đinh, lim, sến… Đặc biệt
có khu công nghiệp Tằng Loỏng chuyên chế biến, sản xuất các chất hóa học
và phân bón phục vụ sản xuất công - nông nghiệp làm giàu cho tổ quốc, góp
phần thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và của tỉnh Lào Cai
nói chung.

Về đường giao thông, từ đầu công nguyên đến nay, Bảo Thắng đều
nằm trên con đường huyết mạch, nối liền nước ta với Vân Nam (Trung Quốc).
Đó là hệ thống đường sông Hồng và đường bộ. Nằm ở vị trí đầu mối giao
thông này, “cửa quan Bảo Thắng” luôn luôn là cửa ngõ tiền đồn trọng yếu ở
vùng Tây Bắc tổ quốc. Nhưng hơn một thế kỷ qua, tuyến giao thông đường
bộ dọc hữu ngạn sông Hồng ít được đầu tư phát triển. Trước cách mạng tháng
Tám 1945, đường giao thông chủ yếu ở Bảo Thắng là tuyến đường xe lửa nối
liền Vân Nam (Trung Quốc) với Hà Nội, Hải Phòng, đoạn đường xe lửa qua
Bảo Thắng dài 40 km. Từ thời phong kiến Việt Nam và đặc biệt là những năm
đầu thế kỷ XX khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, đường sông
Hồng mới được tận dụng triệt để. Từ năm 1966 đường quốc lộ 70 được xây
dựng, nối thông các huyện, thị biên giới phía Bắc với các huyện phía Nam
Lào Cai và xuôi về trung tâm Hà Nội, Bảo Thắng là đầu mối giao thông tỏa đi
5 huyện, thị của khu vực. Tuyến đường từ phía Tây và phía Nam huyện dọc
theo hữu ngạn sông Hồng. Trong thập kỷ qua, cũng được mở rộng và phát
triển nối liền thị xã Cam Đường (Thị xã Cam Đường thành lập 1964 nằm
trong phần đất xã Cam Đường của Bảo Thắng. Năm 1979 sáp nhập vào thị xã
Lào Cai, 1991 tách khỏi thị xã Lào Cai và ngày 1/4/2002 lại sáp nhập vào thị
xã Lào Cai nay là thành phố Lào Cai), thành phố Lào Cai với khu công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10
nghiệp Tằng Loỏng và Văn Bàn. Hiện nay Bảo Thắng đã có đường ô tô
xuống tất cả 15 xã, thị trấn trong huyện. Đặc biệt tuyến đường sắt mới mở ở
phía hữu ngạn sông Hồng nối liền Phố Lu với Tằng Loỏng - Cam Đường góp
phần vào việc thúc đẩy kinh tế Bảo Thắng phát triển mạnh. Bảo Thắng trở
thành huyện có hệ thống giao thông phát triển nhất tỉnh Lào Cai. Các địa
hình, tài nguyên Bảo Thắng rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế cơ cấu
nông - lâm - công nghiệp - thương mại - dịch vụ trong đó đặc trưng chủ yếu là

trồng chè, mía, nhãn, vải, buôn bán hàng hoá và dịch vụ.
Là cửa ngõ biên cương của tổ quốc, từ ngàn xưa Bảo Thắng đã là vùng
đất cổ lịch sử. Trên vùng đất này, khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của văn
hóa Sơn Vi, nền văn hóa hậu kỳ đá cũ, cách ngày nay khoảng 30.000 - 11.000
năm. Ở Phú Nhuận, Xuân Giao đã tìm thấy những chiếc rìu đá có những vết
sứt, mẻ, mòn, vẹt, dấu hiệu của việc chặt, cắt của người xưa, dấu vết người
nguyên thủy thời đại đồ đá mới cách ngày nay khoảng 7000 - 8000 năm cũng
được tìm thấy ở Bảo Thắng. Qua các bộ sưu tầm về công cụ, ta có thể thấy
được rõ, vào thời kỳ này, các bộ lạc nguyên thủy ở đây đã có trình độ về kinh
tế và kỹ thuật tương đương với các vùng khác trên đất nước ta. Ở Phố Lu và
Phú Nhuận còn tìm thấy một số rìu đồng và mũi dao đồng. Các công cụ này là
loại hình công cụ đồng thau của văn hóa Đông Sơn thời các vua Hùng dựng
nước. Như vậy, cách ngày nay hàng vạn năm trên mảnh đất Bảo Thắng đã có
con người đến định cư sinh sống. Tính liên tục của các hiện vật khảo cổ càng
minh chứng địa bàn cư trú lâu đời (Từ hậu kỳ đá cũ đến thời đại Hùng Vương)
của con người chủ nhân vùng Bảo Thắng. Và khi nhà nước Văn Lang ra đời,
miền đất biên cương này đã trở thành một bộ phận của dân tộc Việt Nam
trong buổi đầu dựng nước. Bên cạnh đó còn có di tích lịch sử văn hóa và danh
thắng như: Bến Đền (Gia Phú) - nơi nghĩa quân Gia Phú phục kích nổ súng
bắn chết nhiều tên Pháp ngày 25/3/1886; đồn Phố Lu - nơi diễn ra cuộc chiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11
đấu quyết liệt suốt 5 ngày 6 đêm (từ 8/2/1950 - 13/2/1950) của bộ đội chủ lực
(trung đoàn 102) và quân dân địa phương mở đầu chiến dịch Lê Hồng Phong
màn 1… Những di tích lịch sử đó đã chứng tỏ nhân dân Bảo Thắng đã đóng vai
trò quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ cùng biên cương của tổ quốc.
Thời phong kiến, cư dân ở Bảo Thắng gồm nhiều dân tộc cư trú theo
từng bản, từng mường. Có các mường lớn như Mường Bo, Mường Cái…

Đứng đầu mỗi mường là chủ mường. Các chủ mường này đều thuần phục
quan cai trị của các triều đình phong kiến Việt Nam. Thời Minh Mạng cả Bảo
Thắng mới có khoảng 2000 người, chủ yếu là đồng bào các dân tộc: Tày,
Thái, Dao, Phù Lá (cả nhóm Xá Phó), Giáy, Nùng… Ở ngay cửa quan có các
binh lính người Kinh và một số thương nhân Hoa Kiều, năm 1928 Bảo Thắng
có 5000 khẩu. Đến năm 1945, Bảo Thắng có khoảng 8000 dân có 1.200 người
Kinh còn chủ yếu là người các dân tộc thiểu số. Năm 1960 có trên 13.000
người. Năm 1989 Bảo Thắng có 86.633 người. Năm 1999 có 99.819 người.
Đến năm 2008 Bảo Thắng đã có 102.519 người… Gồm 17 dân tộc anh em,
trong đó người Kinh chiếm 72,99%, người Tày chiếm 16%, người Dao chiếm
9,6%, người H’mông chiếm 4,4%, người Giáy chiếm 3,2%... [4, tr.20]. Các
dân tộc cư trú ở Bảo Thắng dù ít hay nhiều người, đến Bảo Thắng vào những
thời gian khác nhau nhưng đều đoàn kết, chung lưng đấu cật bảo vệ và xây
dựng vùng biên cương của tổ quốc. Các dân tộc Bảo Thắng còn giữ được
nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như lễ Lập tịch người Dao Họ ở Khe Mụ, lễ Trừ
tà đón xuân người Xá Phó làng An Thành (Gia Phú), hội Xuống đồng của
đồng bào Tày với sinh hoạt hát then, hát giao duyên trong những đêm xuân.
Với quá trình công nghiệp hóa đất nước, cơ cấu dân cư trong những
thập kỷ qua có nhiều biến đổi theo xu hướng đô thị hóa. Thời kỳ phong kiến,
Bảo Thắng tuy là một cửa quan, là đầu mối giao thông, nhưng do nền kinh tế
tự cung tự cấp quá nặng nề, nên chưa có một điểm dân cư nào mang tính chất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12
đô thị. Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, chúng tuy có mở đồn điền, phát
triển giao thông, khai thác mở Apatit, nhưng cư dân ở thành thị rất ít. Sau hơn
30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bảo Thắng đã từng bước chuyển nền kinh
tế từ tự cung, tự cấp sang nền kinh tế mang tính chất sản xuất hàng hóa theo
cơ chế thị trường. Trong huyện đã xuất hiện 3 thị trấn, thị trấn Phố Lu trở

thành một trung tâm kinh tế buôn bán, giao dịch khá sầm uất. Cư dân thành
thị tăng lên nhanh chóng. Sự thay đổi cơ cấu dân cư góp phần làm phát triển
nền kinh tế - xã hội ở Bảo Thắng.
Với quá trình phát triển và vị trí địa lý như trên, Bảo Thắng là nơi sinh
sống của nhiều dân tộc từ lâu đời trong đó có tộc người Dao Tuyển. Trong
quá trình sinh sống nơi đây họ đã tạo dựng được những nét văn hóa riêng biệt
mang đậm bản sắc dân tộc mình, phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như
điều kiện xã hội của một huyện miền núi.
1.2. Ngƣời Dao Tuyển ở Bảo Thắng
1.2.1. Địa bàn cư trú và nguồn gốc lịch sử của người Dao Tuyển ở huyện
Bảo Thắng
Dao là tên gọi chính thức của cộng đồng Dao ở Việt Nam. Trước đây
mang nhiều tên gọi khác nhau như: Mán, Động, Trại, Xá,… Người Dao tự gọi
mình là Kềm Miền, Kìm Mùn hoặc Dìu Miền. Theo tiếng Dao thì Kềm hoặc
Kìm là rừng, còn Miền hoặc Mùn là người. Bởi vậy, Kềm Miền hay Kìm Mùn
có nghĩa là người của núi rừng. Hiện nay tộc người Dao ở nước ta được nhà
nước công nhận chính thức và được các nhà khoa học xếp vào nhóm ngôn
ngữ Hmông - Dao thuộc ngữ hệ Nam Á.
Dựa vào kết quả tổng điều tra dân số năm 1999 thì người Dao ở nước ta
có 620.538 nhân khẩu, chiếm 0,8% tổng dân số cả nước, đứng vào hàng thứ 9
trong bảng danh mục các tộc người ở Việt Nam. [45, tr.21]. Người Dao cư
trú tập trung ở 18 tỉnh như: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13
Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Lai Châu, Hòa Bình,
Sơn La, Phú Thọ, Bắc Giang, Thanh Hóa, Đắc Lắc, Đồng Nai, Hà Tây (nay
thuộc Hà Nội).
Người Dao ở Việt Nam thuộc về hai phương ngữ:

Phương ngữ thứ nhất gồm hai ngành lớn là Đại Bản và Tiểu Bản.
- Ngành Đại Bản có các nhóm Dao Đỏ (Hùng Thầu Đào, Dao Coóc Ngáng,
Dao Quý Lâm), Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng),
Dao Thanh Phán (Dao Coóc Mùn, Dao Đội Ván, Dao Lô Giang).
- Ngành Tiểu Bản có Dao Tiền (Dao Đeo Tiền)
Phương ngữ thứ hai gồm có hai ngành: Dao Quần Trắng (Dao Họ,
Mán Đen) và Dao Làn Tiẻn. Trong đó Dao Làn Tiẻn có hai nhóm nhỏ là
Dao Thanh Y và Dao Tuyển (Dao Áo Dài, Dao Chàm, Dao Bằng Đầu,
Dao Slán Chỉ) [48, tr.30 - 37].
Như vậy, Dao Tuyển là một nhóm nhỏ của ngành Dao Làn Tiẻn thuộc
về phương ngữ thứ hai. Dao Tuyển là tên gọi địa phương ở vùng Lào Cai.
Người Dao Tuyển ở Việt Nam cư trú tập trung tại Lào Cai, Hà Giang
và rải rác ở một số tỉnh khác. Bảo Thắng và Bảo Yên là hai huyện tập trung
người Dao Tuyển đông nhất của tỉnh Lào Cai. Tại huyện Bảo Thắng, người
Dao Tuyển cư trú tại các xã Xuân Quang, Trì Quang, Phong Niên, Phong Hải,
Bản Cầm, Bản Phiệt với dân số 6378 người chiếm 6,2% dân số toàn huyện
(Nguồn UBND huyện Bảo Thắng).
Người Dao Tuyển di cư đến Lào Cai nói riêng và Việt Nam nói chung
bằng đường bộ là chính. Trong cuốn “Tín ca thiên di” của người Dao Tuyển
ghi rất rõ từng chặng đường thiên di “Người Dao từ Lưỡng Quảng đến Lào Cai.
Năm Giáp Thân triều Minh kết thúc (1644), Người Dao từ Quảng Tây di cư đi
Vân Nam. Họ định cư ở Giám Yên, Mông Tự đến năm Nhâm Thân, Quý Dậu
(1812 - 1813) lại đi tiếp vào rừng sâu phương Nam. Mãi đến năm Tân Dậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14
triều Thanh (1871), người Dao Làn Tiẻn mới tới Hà Khẩu, Quỳnh Sơn và sau
đó vào Lào Cai” [37, tr.58].
Như vậy người Dao Tuyển thiên di đến Lào Cai nói chung và huyện

Bảo Thắng nói riêng qua hai tuyến:
- Tuyến thứ nhất: Vào cuối triều đại nhà Minh (thế kỷ XVII), người
Dao Làn Tiẻn từ Quảng Đông vào Móng Cái (Quảng Ninh) qua Lục Ngạn
sông Đuống đến vùng Yên Bái ngược sông Chảy lên Lào Cai.
- Tuyến thứ hai: Vào năm Mậu Thân đầu triều Thanh (1668), người
Dao Tuyển đến Vân Nam ở hai vùng Vân Sơn và Mông Tự. Năm Tân Dậu
triều Thanh (1801) người Dao từ Mông Tự đến Kiến Thủy, Hà Khẩu theo
sông Hồng vào châu Thủy Vĩ (Lào Cai) và châu Chiêu Tấn (Lai Châu).
Như vậy, đến đầu thế kỷ XIX người Dao Tuyển đã có mặt ở vùng sông Hồng
Lào Cai [37, tr.9 -10].
Tiếp đó trong các thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Dao Tuyển có một
số đợt thiên di đến vùng Tam Đường, Phong Thổ, Sìn Hồ (Lai Châu) và Bát
Xát (Lào Cai).
Nguyên nhân di cư của người Dao nói chung và người Dao Tuyển nói
riêng là do sự đàn áp các phong trào khởi nghĩa người Dao của các triều đình
phong kiến Trung Quốc. “Sách “Tín ca thiên di” của người Dao Tuyển có ghi:
Triều Minh điều binh 16 vạn
Phân binh 4 đường, 12 nhánh
Đánh qua 26 ngày
Không rút động binh, tự rút binh…
Giết người, đốt nhà không để gì lại
Khắp trời, rợp đất đầy lửa khói
Quan phủ ra lệnh giết người Dao…
Giết chết người Dao hơn 5 vạn
Từ đây người Dao ly tán tứ phương” [37, tr.55]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15
Nguyên nhân thứ hai là do thời đó Trung Quốc hạn hán, đất chật người

đông lại thấy Việt Nam đất tốt, dễ làm ăn nên người Dao di cư vào Việt Nam.
“Sách “Diệu Thảo sình chà lầy” ghi rõ:
Nhân vì người đông đất lại hẹp
Cùng nhau phân tán khắp núi sông
Phần lên Quảng Tây, ở Hồ Quảng
Phần đến Quý Châu để an cư
Một phần về phía đạo Vân Nam
Lại một phần đến Giao Chỉ” [37, tr.56]
1.2.2. Đời sống kinh tế, xã hội của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng
1.2.2.1. Đời sống kinh tế
Người Dao Tuyển là cư dân nông nghiệp canh tác nương rẫy và làm
ruộng lúa nước. Trước đây nương rẫy là hình thức canh tác chủ yếu và phổ
biến nhưng từ thập niên 60 người Dao Tuyển đã biết khai phá làm ruộng lúa
nước hoặc ruộng bậc thang. Trong canh tác nương rẫy đồng bào Dao rất chú
trọng khâu chọn đất. Để có nương tốt phải chọn đất có nhiều mùn và ở phía
mặt trời mọc vì sẽ đón được nhiều ánh nắng mặt trời. Đồng bào ở đây chỉ làm
nương trong 3 vụ sau đó bỏ hoang từ 4 - 6 năm rồi mới quay lại gieo trồng
tiếp. So với việc canh tác nương rẫy thì việc khai phá ruộng lúa công phu hơn
cần có sự tham gia của cả dòng họ, cả làng. Làm ruộng lúa nước năng suất
cao và đời sống ổn định hơn nên đồng bào Dao Tuyển ngày nay canh tác
ruộng lúa nước phổ biến hơn trước. Người Dao Tuyển có tục ngữ:
Làm nương không bằng làm ruộng
Làm ruộng trời hạn không lo
Làm nương trời hạn không được ăn
Ở Bảo Thắng, người Dao Tuyển còn phát triển trồng quế. Đồng bào đã
biết kết hợp trồng quế với làm ruộng lúa nước, trồng quế xen canh với lúa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16

nương và sắn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với việc phát triển trồng quế,
trồng chè, cây ăn quả, người Dao Tuyển dần phá vỡ thế độc canh cấy lúa
nương, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa. Nhờ đó
đời sống được nâng cao.
Bên cạnh đó, người Dao Tuyển ở Bảo Thắng còn tiến hành chăn nuôi.
Trước đây chăn nuôi nhằm đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp, lấy sức kéo cho
nông nghiệp, lấy thực phẩm phục vụ cho các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng như
lễ cấp sắc, lễ làm chay, lễ cúng Bàn Vương… Ngày nay chăn nuôi còn để
đem bán và trao đổi hàng hóa. Họ chăn nuôi các loại con như: trâu, bò, dê,
ngựa, nuôi cá…
Nghề thủ công của người Dao Tuyển là nghề phụ mang tính chất thời
vụ nên các sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu trong gia đình. Người
Dao Tuyển ở Bảo Thắng đến nay vẫn có các nghề như: nghề dệt vải nhuộm
chàm. Người Dao Tuyển tiến hành nhuộm chàm vải sau khi dệt xong với
nhiều công đoạn khá phức tạp. Trước hết là ngâm chàm từ 3 đến 5 ngày trong
thùng gỗ, khi nhựa chàm đã tan hết vào nước ngâm mới vớt bã chàm ra rồi
hòa với bột, quấy đều. Trước khi cho vải vào nhuộm phải giặt vải qua nước lã
rồi mới nhúng vào thùng chàm ngâm 20 phút. Sau đó vớt ra để ráo nước rồi
ngâm nước lã từ 5 - 7 lần. Vải của người Dao Tuyển vừa đẹp vừa bền màu;
Nghề chạm bạc cũng khá nổi tiếng, các dân tộc khác nhau như Tày, Nùng,
Hmông thường đến mua đồ chạm bạc của người Dao Tuyển. Sản phẩm bạc
chủ yếu là đồ trang sức trong lễ cưới (người Dao Tuyển quan niệm sự giàu có,
giá trị của cô dâu thể hiện ở số trang sức bằng bạc), trong sinh hoạt của người
Dao Tuyển; Nghề mộc, đây là nghề quan trọng không thể thiếu, bởi nó phục
vụ cho công việc dựng nhà và làm đồ dùng sinh hoạt hàng ngày; Nghề làm
giấy dùng trong nghi lễ tôn giáo, viết sách; Nghề rèn đúc, đan lát…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17

Như vậy, ta thấy rằng người Dao Tuyển ở Bảo Thắng có nên kinh tế đa
dạng. Mặc dù vẫn còn mang đậm tính tự cung, tự cấp nhưng nó góp phần làm
cho cuộc sống của đồng bào ổn định, đời sống được nâng cao và bước đầu
hòa nhập vào nền kinh tế hàng hóa của địa phương.
1.2.2.2. Đời sống xã hội
Thiết chế xã hội của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng gồm 3 loại hình là
làng, dòng họ và gia đình.
a, Làng
Làng của người Dao Tuyển gọi là “Giăng”. Làng thường được lập trên
các sườn núi, mỗi làng có vài chục nóc nhà. Mỗi làng có địa vực cư trú, canh
tác riêng. Đặc biệt, người Dao Tuyển không sống xen kẽ với các dân tộc khác
trong cùng một làng. Điều này tạo ra sự trao đổi kinh tế, văn hóa trong đời
sống. Điều kiện lập làng là làng phải gần rừng, phía sau làng có núi, rừng.
Làng gần suối hoặc thuận lợi về nguồn nước không quá xa nương. Ở nhiều
vùng dân cư phát triển đông, mỗi làng hình thành các xóm nhỏ. Chẳng hạn
như Làng Mi xã Xuân Quang huyện Bảo Thắng có tới 4 xóm nhỏ. Mỗi làng
của người Dao Tuyển có một trưởng làng và một già làng.
Trưởng làng “Giăng châu” là người có uy tín, giỏi làm ăn, là người
nắm vững luật tục, quy ước chung của làng, có khả năng tập hợp, chỉ đạo dân
làng và am hiểu pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước để có
thể truyền đạt tới nhân dân trong làng. Hiện nay trưởng làng do nhân dân bầu.
Già làng “Giăng cố” là người am hiểu phong tục, tập quán, biết các
nghi lễ cúng bái, gương mẫu thực hiện mọi việc công và là người có uy tín
lớn trong làng. Già làng còn có vai trò giám sát thực hiện các nghi lễ chung
của làng và của mỗi gia đình. Hoặc giám sát việc cúng của các thầy cúng ở
nơi khác đến hành lễ cho gia đình. Đặc biệt già làng là một nghệ nhân, am
hiểu văn hóa truyền thống, biết chữ Nôm Dao. Trước khi thực hiện các công
việc quan trọng trưởng làng thường đến hỏi ý kiến của già làng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


18
Mỗi làng có một vị thần cai quản gọi là Giăng man. Thần làng là người
có công khai phá làng, bảo hộ làng. Mỗi làng có một miếu thờ dựng ở đầu
hoặc giữa làng. Miếu thường được dựng ở gốc cây đa, cây si. Trong miếu
không chỉ thờ thần làng mà còn thờ thần nông phù hộ cho mùa màng tốt tươi
và thờ thần thổ địa.
Mỗi làng có một hệ thống luật tục bảo vệ nguồn nước, bảo vệ rừng, bảo
vệ mùa màng, chống trộm cướp… Hệ thống luật tục của làng hàng năm đều
được dân làng tự do dân chủ thảo luận, bàn bạc bổ sung. Luật tục trở thành
một công cụ quản lý làng của đồng bào Dao Tuyển. Ai vi phạm sẽ bị phạt. Ở
Bảo Thắng, luật tục của người Dao Tuyển quy định: ai chặt phá 5 cây non ở
rừng chung của làng bị phạt 5 đồng bạc trắng, chặt cây to bị phạt 10 đồng bạc
trắng, đốt rừng làm nương rẫy bị phạt 20 đồng bạc trắng [34, tr.24]. Luật tục
có tác dụng giữ vững an ninh của làng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và thực
sự trở thành công cụ quản lý các thành viên trong làng người Dao Tuyển.
b, Dòng họ
Người Dao Tuyển có 12 họ chính. Mỗi họ có nhiều dòng họ khác nhau.
Mỗi dòng họ của người Dao Tuyển có 6 tên đệm là Kim, Kinh, Diện, Đạo,
Huyền, Vân - đây là hệ thống tên đệm âm được đặt trong lễ cấp sắc. Mỗi dòng
họ có một ông trưởng họ là người con trưởng của ngành trưởng, có nhiệm vụ
chỉ đạo những công việc chung của dòng họ và giải quyết những xích mích
trong dòng họ. Trưởng họ cũng là người đại diện cho dòng họ giao tiếp, giao
dịch với các dòng họ khác. Sự thống nhất về mặt tín ngưỡng của dòng họ thể
hiện ở lễ giỗ tổ dòng họ. Giỗ tổ dòng họ để tưởng nhớ tổ tiên dòng họ, để ghi
tên âm các thành viên nam đã mất trong năm vào danh sách thờ cúng họ đồng
thời cũng là dịp để anh em trong dòng họ gặp nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


19
c, Gia đình
Khác với dòng họ, gia đình là thành viên cộng đồng, là một bộ phận
quan trọng của dòng họ, là đơn vị sản xuất, đồng thời cũng là nơi trực tiếp thể
hiện và duy trì các sắc thái văn hóa của đồng bào Dao Tuyển. Phần lớn hiện
nay gia đình người Dao Tuyển là gia đình nhỏ phụ hệ hai thế hệ gồm một cặp
vợ chồng và các con chưa lập gia thất. Chủ gia đình là ông bố, khi bố chết thì
con trưởng thay thế. Người chủ gia đình có trách nhiệm chỉ đạo công việc sản
xuất đảm nhiệm các công việc nặng nhọc. Là người thục hiện các nghi lễ gia
đình. Đồng thời cũng là người trực tiếp dạy dỗ con trai làm nương, làm rẫy,
thực hiện các phong tục của dân tộc, của dòng họ. Tuy nhiên nhiều việc quan
trọng người chủ gia đình cũng bàn bạc với vợ và các con lớn.
Trong sinh hoạt hàng ngày tính chất phụ quyền chi phối đậm nét mối
quan hệ của các thành viên trong gia đình. Vợ phải nghe lời chồng, con cái
phải nghe lời cha. Bố chồng, anh chồng không ăn cùng mâm với con dâu,
em dâu và con rể không ngồi ăn chung với mẹ vợ. Nhưng đặc biệt trong một
số lễ nghi tôn giáo vai trò của người con dâu được đề cao. Chẳng hạn như
trong cấp sắc, người được chọn thực hiện nghi lễ quãi gạo, vẩy gạo vào tốp
nam đang nhảy bát quái nhất thiết phải là người vợ của chủ gia đình hoặc
con dâu trưởng.
Người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng có tục nhận con nuôi kể cả trong
trường hợp người khác dân tộc. Nhận con nuôi có nhiều nguyên nhân như:
chữa khỏi bệnh, đỡ đầu ăn học, truyền dạy nghề cúng bói… Khi gia đình bố
mẹ nuôi gặp khó khăn hay công việc bận rộn thì người con nuôi phải có trách
nhiệm giúp đỡ, vào dịp lễ tết phải đến lễ tết và khi bó mẹ nuôi qua đời cũng
phải để tang báo hiếu, có lễ vật mang đến hiến tế như đối với bố mẹ đẻ mình.
Ngược lại bố mẹ nuôi cũng phải có trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ con nuôi
song chủ yếu là về mặt tinh thần.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


20
Như vậy, nếu như làng là đơn vị liên kết các dòng họ và dòng họ là đơn
vị liên kết các gia đình nằm trong phạm vi của mình để bảo tồn, giám sát việc
thực hiện và duy trì các đặc trưng văn hóa cổ truyền của đồng bào thì gia đình
là nơi trực tiếp lưu giữ và thực hiện các đặc trưng văn hóa đó, đặc biệt là các
nghi lễ trong chu kỳ đời người. Gia đình người Dao Tuyển cũng là nơi trực
tiếp thể hiện và duy trì các thành tố khác của văn hóa dân tộc từ các món ăn,
cách trao truyền các nghề, tri thức dân gian cho đến việc duy trì những phong
tục tập quán truyền thống.
1.2.2.3. Đời sống văn hóa
a. Văn hóa vật chất
+ Ăn
Xưa kia do điều kiện kinh tế khó khăn, lương thực còn thiếu nên ngoài
gạo ra trong các bữa ăn hàng ngày người Dao Tuyển còn phải ăn ngô "mùng
may", đao "pang". Ngày nay do cuộc sống được nâng cao hơn nên họ ăn cơm
tẻ là chủ yếu. Ngoài các món lương thực, người dân ở đây còn thường xuyên
dùng các loại thực phẩm như: rau pang làm từ cây đao, củ đao được làm bột,
ngọn đao dùng làm rau nấu canh ăn rất ngọt. Tiếp đến lá rau đắng "pua" còn
gọi là mướp đắng rừng, chỉ dùng lá xào ăn mới không đắng, nếu nấu canh rất
đắng. Một loại rau thường dùng nhất đó là rau mét "tùng pan". Loại rau này
được trồng bằng hạt theo mùa vụ, dùng lá nấu canh hoặc xào ăn rất ngon.
Tiếp đến là rau mướp "cà đây" cũng dùng lá nấu canh. Đu đủ "cùng qua"
cũng là món mà người Dao Tuyển thường dùng để xào làm nguyên liệu cho
bữa ăn hàng ngày. Ngoài ra khi đi rừng họ còn tìm được hoa chuối rừng “cà
đíu" thái nhỏ ngâm nước nấu canh gà hoặc cá thì quả là tuyệt vời. Một loại
rau nữa có tên trong thực đơn hàng ngày của người Dao Tuyển là rau rớn
được dùng xào hoặc nấu canh cho bữa cơm.

×