Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài tiểu luận trách nhiệm dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.45 KB, 14 trang )

Câu 1: So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng?
 Giống nhau:
- Bản chất: đều là trách nhiệm dân sự (TNDS): là hậu quả pháp lý mang tính
tiêu cực mà người vi phạm phải gánh chịu do hành vi xâm phạm đến các
quyền và lợi ích của người khác hoặc do vi phạm nghĩa vụ.
+ Đặc điểm:
• Trong đa số các trường hợp ,TNDS là trách nhiệm của người vi phạm
trước người có quyền và lợi ích bị xâm phạm.
• Là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản.
• Được hình thành dựa trên sự thỏa thuận hợp pháp giữa các bên (TNDS
trong hợp đồng) hoặc theo quy định của pháp luật(TNDS ngoài hợp
đồng).
• Có thể giải quyết bằng biện pháp tự hòa giải , thương lượng, hoặc khởi
kiện ra cơ quan tư pháp dựa trên nguyên tắc tự nguyện,thỏa thuận và tự
định đoạt.
o Vì bản chất của dân sự là sự tự thỏa thuận giữa các bên nên người vi
phạm và người bị vi phạm có thể thỏa thuận với nhau.
o Trong hợp đồng thì khi một bên vi phạm nghĩa vụ của mình đối với
bên có quyền thì dựa vào hợp đồng mà 2 bên đã thỏa thuận trước đó.
o Ngoài hợp đồng thì bên xâm phạm quyền và lợi ích của người bị xâm
phạm thi 2 bên chỉ có thể thỏa thuân sau khi có hành vi xâm phạm xảy
ra.
+ TNDS là tổng thể các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm, năng
lực chịu trách nhiệm, cách thức thực hiện trách nhiệm và hậu quả pháp lý
của việc áp dụng TNDS.
+TNDS là biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với người đã có hành vi
xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp người khác, nhằm buộc người
vi phạm phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định hoặc phải bồi thường thiệt
hại nhằm bù đắp tổn thất và khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị xâm phạm.


- Mục đích: nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm.
+Thông qua sự thỏa thuận giữa các bên hoặc dựa trên quy định pháp luật
giải quyết thì bên bị vi phạm cũng như bên bị xâm phạm đều mong muốn
mình được bồi thường thiệt hại hoặc được giải quyết bằng các biện pháp
1


-

khác như: xin lỗi cải chính công khai hoặc ngưng thực hiện hành vi xâm
phạm,…
+Tuy nhiên, việc khôi phục tình trạng tài sản bằng biện pháp bồi thương
thiệt hại của người gây thiệt hại không phải bao giờ cũng đem lại hậu quả
như mong muốn. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau, người gây thiệt hại
không thể bồi thường và người bị thiệt hại không thể “phục hồi lại tình trạng
tài sản ban đầu” như trước khi bị thiệt hại.
Bởi vậy, cần có các cơ chế và các hình thức khác để khắc phục tình
trạng tài sản của người bị thiệt hại (các loại hình bảo hiểm đang đi theo
hướng này và ngày càng đóng vai trò quan trọng, có hiệu quả nhằm phục
hồi, hạn chế thiệt hại của người bị thiệt hại do các hành vi trái pháp luật gây
ra).
+Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ bảo đảm việc đền bù tổn thất
đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài
sản chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Mở rộng: Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này luôn mang đến
những bất lợi về tài sản của người gây ra thiệt hại để bù đắp những thiệt hại
mà họ đã gây ra cho các chủ thể khác, đặc biệt đối với các hành vi phạm tội
với động cơ vu lợi. Vì vậy, trong pháp luật dân sự không thể coi trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc áp dụng một biệp pháp hình sự
hay hình phạt phụ. Bộ luật Hình sự quy định bồi thường thiệt hại là một

trong các biện pháp tư pháp mà không quy định nó trong danh mục hình
phạt chính hay phụ.
Trường hợp miễn trừ trách nhiệm:
+Do sự kiện bất khả kháng: Bên không thực hiện không phải chịu trách
nhiệm nếu bên này chứng minh được rằng việc không thực hiện là do những
trở ngại ngoài tầm kiểm soát của họ, và những trở ngại dù đã cân nhắc kỹ,
vẫn không thể lường trước được vào thời điểm giao kết hợp đồng, hoặc các
trở ngại này không thể tránh hoặc vượt qua được.
+Lỗi hoàn toàn thuộc về bên bị vi phạm (bên có quyền) (Khoản 3 Điều 351
BLDS 2015): việc không thực hiện nghĩa vụ gây ra do hành vi hoặc bất tác
vi của bên viện dẫn việc không thực hiện. Cần phân biệt hai trường hợp:
trường hợp đầu là việc một bên không thể thực hiện được toàn bộ hoặc từng
phần nghĩa vụ của họ, do bên kia thực hiện một số việc làm cho nghĩa vụ
bên này không thể tiến hành toàn bộ hay từng phần. Một khả năng khác là
2




Nội dung
so sánh
Căn cứ
phát sinh

Thời điểm
phát sinh

việc không thực hiện hợp đồng có thể do một rủi ro, đã được thực hiện trong
hợp đồng hoặc hiểu ngầm là: bên viện dẫn việc không thực hiện phải gánh
chịu rủi ro.

+Do thỏa thuận miễn trừ TNDS (điều khoản miễn trừ trách nhiệm): nhiều
hợp đồng có thỏa thuận trước những trường hợp một bên được miễn trừ
trách nhiệm kể cả khi bên đó không thực hiện hợp đồng.
• Các điều khoản miễn trừ trước tiên là các khoản giới hạn trực tiếp
hoặc miễn trừ trách nhiệm của một bên, khi bên này không thực hiện
hợp đồng và có thể được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau.
• Các điều khoản miễn trừ được hiểu theo nghĩa rộng hơn, là những
điều cho phép một bên thực hiện một công việc về cơ bản khác hoàn
toàn với những gì mà bên kia mong đợi một cách hợp lí.
• Theo khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 cũng quy định rằng các điều
khoản miễn trừ trách nhiệm nếu trong các hợp đồng soạn sẵn có thể bị
tuyên vô hiệu, trừ khi các bên đã đọc, hiểu rõ và thỏa thuận như vậy.
Suy rộng ra, nguyên tắc tự do hợp đồng cũng áp dụng cho các điều
khoản miễn trừ và về cơ bản là chúng có hiệu lực.
Đối tượng: tiền, vật, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.
Khách thể: quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.
Khác nhau:

TNDS trong hợp đồng

TNDS ngoài hợp đồng

-Các quyết định cụ thể về nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng.
-Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng tồn tại
khi có sự thỏa thuận giữa các bên nghĩa là
trách nhiệm này chỉ phát sinh khi các quy
định cụ thể về nghĩa vụ của các bên đã được
thỏa thuận trong hợp đồng và có sự vi phạm
một hay nhiều nghĩa vụ mà những người

tham gia đã giao kết trong hợp đồng.
Hợp đồng có hiệu lực và có hành vi vi phạm
xảy ra: phát sinh do một bên vi phạm nghĩa
vụ (không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng) được quy định trong hợp đồng.

-Quyết định của pháp luật và các văn bản
quy phạm pháp luật.
- Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
phát sinh bên ngoài và không phụ thuộc
vào hợp đồng căn cứ phát sinh trách
nhiệm dân sự là có hành vi vi phạm pháp
luật cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho
người khác.

3

Có hành vi trái pháp luật xâm phạm:
phát sinh do chủ thể xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản và các quyền và lợi ích hợp


Tính liên
đới (trách
nhiệm liên
đới)

-Căn cứ phát sinh:
+Không bắt buộc phải có thiệt hại xảy ra

(trong nôi dung TNDS buộc phải thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng)

+Hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng.
+Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng với thiệt hại xảy ra.

-Căn cứ xác định:
+Phát sinh giữa bên vi phạm và bên bị vị
phạm phải có quan hệ hợp đồng tức là bắt
buộc phải có thỏa thuận từ trước.

4

pháp của cá nhân, tổ chức được pháp luật
bảo vệ.
+Phải có thiệt hại xảy ra
+Hành vi gây thiệt hại phải là hành vi
trái pháp luật
+Phải có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại và
thiệt hại xảy ra.
-Căn cứ phát sinh:
+Phải có thiệt hại:
• Thiệt hại luôn được coi là điều kiện
đầu tiên, tiên quyết khi xác định
TNDS nói chung và trách nhiệm liên
đới bôi thương thiệt hại nói riêng.
• Bởi vì nếu có hành vi trái pháp luật
mà thiệt hại không xảy ra thì vấn đề

đền bù không thể được đặt ra.
• Lý luận trách nhiệm pháp lý nói
chung đã chỉ ra rằng, trách nhiệm
pháp lý là hậu quả bất lợi mà có hành
vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu.
• Nếu không có thiệt hại thì vấn đề
trách nhiệm bồi thường không được
đặt ra và vì vậy cũng không thể cũng
nói đến trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại.
+Hành vi vi phạm pháp luật được thực
hiện bởi nhiều người.
+Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái
luật với thiệt hại xảy ra -> căn cứ xác
định phạm vi chủ thể liên đới chịu trách
nhiệm
-Căn cứ xác định:
+Phát sinh khi có nhiều người cùng gây
thiệt hại được quy định trong BLDS và
trong các văn bản pháp luật liên quan.
+Phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó
không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có
quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây ra


-Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại
thì họ liên đới chịu trách nhiệm nếu khi giao
kết họ có thỏa thuận trước về vấn đề chịu
trách nhiệm liên đới.


Thiệt hại

-Bên có quyền có quyền hoặc yêu cầu tất cả
những người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
một cách đồng thời hoặc chỉ định (yêu cầu)
bất kỳ ai trong số những người có nghĩa vụ
phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới mặc
dù nghĩa vụ của từng người được xác định rõ
và cụ thể theo phần bằng nhau hoặc không
bằng nhau.
-Mục đích:
+Ghi rõ tính chịu trách nhiệm trong hợp
đồng, là bằng chứng quan trọng khi có vi
phạm hợp đồng.
+Đảm bảo quyền và lợi ích cho bên có quyền.
+Ràng buộc các bên trong liên đới thực hiện
trách nhiệm dân sự.
Trong hợp đồng thì chỉ chịu trách nhiệm
liên đới nếu có thỏa thuận trước.
-Không bắt buộc có thiệt hại xảy ra.
TNDS trong hợp đồng có 2 loại: TNDS buộc
phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng và
5

thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thực
hiện hợp đồng đã kí kết tức là không cần
phải có thỏa thuận vẫn phải chịu trách
nhiêm ngay cả khi mình không có lỗi.
-Trong trường hợp nhiều người cùng gây
thiệt hại thì họ đều phải chịu trách nhiệm

liên đới theo các quy định cụ thể của
pháp luật dân sự.
+Theo Điều 587 BLDS 2015 quy định
trong trường hợp nhiều người cùng gây
thiệt hại thì những người đó phải liên đới
bồi thường cho người bị thiệt hại.
+Trách nhiệm bồi thường của từng người
cùng gây thiệt hại được xác định tương
ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu
không xác định được mức độ lỗi thì họ
phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng
nhau.

-Mục đích:
+Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị thiệt hại.
+Tăng tính chịu trách nhiệm của người
vi phạm.
Không cần có thỏa thuận: trong
trường hợp thiệt hại xảy ra do nhiều
người vi phạm thì phải liên đới chịu
trách nhiệm.
-Thiệt hại là một phần yếu tố cấu thành
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì


TNDS bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng.
-Trong nôi dung trách nhiệm buộc phải thực

hiện nghĩa vụ trong hợp đồng không có thiệt
hại xảy ra: phát sinh khi người có nghĩa:
+Không thực hiện đúng hạn
+Thực hiện không đầy đủ
+Thực hiện không đúng nội dung của nghĩa
vụ
TNDS do không thực hiện nghĩa vụ giao
vật (Điều 356), TNDS do không thực hiện
hoặc không được thực hiện một công việc
(Điều 358), TNDS do chậm thực hiện NVDS
(Điều 357), TNDS do chậm tiếp nhận việc
thực hiện nghĩa vụ (Điều 359) (theo quy định
của BLDS 2015).
-Trong nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng: Thiệt hại là toàn bộ
tổn thất gây ra cho một bên do việc vi phạm
hợp đồng của bên kia. Những tổn thất này
bao gồm: những tổn thất phải gánh chịu và
những lợi ích đáng lẽ phải có từ việc thực
hiện hợp đồng có tính đến những chi phí tổn
thất mà bên vi phạm tránh được.
-Thiệt hại về vật chất có hai loại:
+Thứ nhất là thiệt hại trực tiếp, là những thiệt
hại bên bị thiệt hại đã phải gánh chịu.
+Thứ hại là thiệt hại gián tiếp, là những lợi
nhuận mà họ bị mất do việc vi phạm thực
hiện hợp đồng.
• Thiệt hại về lợi nhuận, hoặc còn gọi là
hậu quả thiệt hại, là những lợi nhuận
mà đáng lẽ bên bị vi phạm đã có được,

nếu như hợp đồng được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh.
Như vậy, khái niệm về tổn thất phải gánh
chịu cần được hiểu theo nghĩa rộng.
+Bao gồm việc hư hao tài sản của bên bị thiệt
hại.
6

không phát sinh trách nhiệm bồi thường.
-Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ
phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản có
thể trị giá được bằng tiền và sự thiệt hại
về tinh thần do bị gây ra thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe hay danh dự, nhân phẩm
đem lại.
+Sự thiệt hại về tài sản: sự mất mát hoặc
giảm sút về một lợi ích vật chất được
pháp luật bảo vệ (Điều 589 BLDS 2015).
• Thiệt hại về tài sản có thể tính toán
được thành một số tiền nhất định bao
gồm:
o Những chi phí bỏ ra bao gồm chi
phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
hoặc khắc phục thiệt hại như tiền
thuốc, tiền điều trị, tiền mai táng
phí, tiền sữa chữa tài sản…
o Những hư hỏng mất mát về tài sản
o Những thu nhập không thu được
gồm có thu nhập bị mất và thu
nhập bị giẩm sút

• Sự thiệt hại phải là thiệt hại thực tế:
tức là có thể tính toán được. Vì vậy
mà thiệt hại thực tế không bắt buộc
phải đã xảy ra, một sự thiệt hại gián
tiếp cũng có thể tính thực tế nếu như
nhất định sẽ xảy ra và có thể ước
lượng được. Ngược lại, một sự thiệt
hại không thực tế tức là không chắc
chắn sẽ xảy ra hoặc chỉ có tính cách
giả định thì không thể được bồi
thường.
+Thiệt hại về tinh thần:
o Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
của cá nhân được hiểu là do sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm mà người bị thiệt hại
hoặc do tính mạng bị xâm phạm


+ Hoặc là việc bên này phải gánh chịu những
nghĩa vụ, khi bên này, do không được nhận
tiền từ bên có nghĩa vụ, buộc phải mượn tiền
từ bên thứ ba để hoàn thành công việc của
mình.

Phương
thức thực
hiện

-Phương thức thực hiện: thực hiện nghĩa vụ

được quy định trong hợp đồng và bồi thường
thiệt hại khi có thiệt hại phát sinh.
-Theo thỏa thuận của các bên được quy định
trong hợp đồng hoặc theo thỏa thuận khác
Khoản tiền bồi thường ấn định trước cho việc
vi phạm hợp đồng.
7

mà người thân thích gần gũi nhất
của nạn nhân phải chịu đau
thương, buồn phiền, mất mát về
tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy
tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu
nhầm… và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn
thất mà họ phải chịu.
o Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
của pháp nhân và các chủ thể khác
không phải là pháp nhân (gọi
chung là tổ chức) là do danh dự,
uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị
giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm,
lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần
phải được bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức
phải chịu.
Bồi thường một khoản tiền khác để
bù đắp tổn thất về tinh thần mà:
+Người bị thiệt hại gánh chịu trong
trường hợp thiệt hại do sức khỏe bị xâm

phạm hoặc thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm (Khoản 2
Điều 590, Điều 592)
+Và cho những người thân thích thuộc
hàng thừa kế thứ nhất hoặc người được
người thiệt hại trực tiếp nuôi dưỡng hoặc
người trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt
hại trong thiệt hại do tinh mạng bị xâm
phạm (khoản 2 Điều 591) (BLDS 2015).
-Phương thức thực hiện: xin lỗi cải chính
công khai, ngưng việc thực hiện hành vi
xâm phạm lại, bồi thường thiệt hại khi có
thiệt hại xảy ra trên thực tế.
-Không xác định được, chỉ được thỏa
thuận sau khi có thiệt hại xảy ra trên thực
tế do hành vi vi vi phạm pháp luật.
-Người gây thiệt hại về tinh thần cho


Trách
nhiệm
chứng
minh

+Các bên có thể thỏa thuận trước về khoản
tiền phải trả khi không muốn hay không thể
thực hiện hợp đồng, thỏa thuận này được định
nghĩa bằng nhiều danh từ (bồi thường thiệt
hại ấn định) hoặc tiền phạt vi phạm (các điều
khoản về phạt vi phạm), hoặc cả hai.

+Ấn định thiệt hại là thỏa thuận, theo đó nếu
một bên không thực hiện sẽ phải thanh toán
một khoản tiền cho bện bị thiệt hại như là
việc vi phạm hợp đồng, bên bị thiệt hại có
quyền yêu cầu đòi được chi trả số tiền đã
được thỏa thuận, cho dù thiệt hại thực tế đã
xảy ra như thế nào.
+Số tiền được thỏa thuận có thể được giảm
theo mức độ thiệt hại.
-Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên
trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa
vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi
phạm.
+Có hành vi vi phạm của bên có nghĩa vụ
+Có thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng
+Đặc điểm: thực hiện bằng tiền, và là một
thỏa thuận đặt thêm nghĩa vụ mới cho người
có nghĩa vụ
+Mức phạt vi phạm không căn cứ vào thiệt
hại thực tế, mà do các bên thỏa thuận phù hợp
với quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều
418 BLDS 2015).
+Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà
không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa chịu
phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại
(Khoản 3 Điều 418 BLDS).
-Trách nhiệm chứng minh lỗi: bên vi phạm có
nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi.
-Trách nhiệm chứng minh bồi thường thiệt

hại: bên đòi bồi thường phải chứng minh.

8

người khác do xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
của người đó thì ngoài việc chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công
khai còn phải bồi thường một khoản tiền
để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người
bị thiệt hại.
-Nguyên tắc bồi thường thiệt hại (Điều
585 BLDS):
+Thiệt hại thực tế phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi
thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, phương
thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần,
trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
+Người chịu trách nhiệm trách nhiệm có
thể được giảm mức bồi thường nếu
không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình.
+Khi mức bồi thường không còn phù
hợp với thực tế thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu
cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có

thẩm quyền khác thay đổi mức bồi
thường.

-Trách nhiệm chứng minh lỗi: do cả hai
bên (bên vi phạm và bên bị vi phạm) có
nghĩa vụ chứng minh mức độ lỗi của
mình. Nhưng trong những trường hợp là
lỗi suy đoán. Điều này được thể hiện ở
khoản 3 Điều 586 BLDS 2015: “Nếu


người giám hộ chứng minh được mình
không có lỗi trong việc giám hộ thì
không lấy tài sản của mình để bồi
thường”. Người bị thiệt hại trong nhiều
trường hợp không thể chứng minh được,
nếu buộc họ phải chứng minh sẽ bị bất
lợi cho họ. Vì vậy, người bị thiệt hại
không có nghĩa vụ chứng minh.
-Trách nhiệm chứng minh bồi thường
thiệt hại: bên đòi bồi thường phải chứng
minh.
Nguyên tắc -Trách nhiệm trong hợp đồng: thể hiện thiện
Tôn trọng tuyệt đối các quy tắc ứng xử
ứng xử
chí muốn hợp tác-giao kết hợp đồng với nhau, xã hôi thông thường (không vi phạm các
trung thực khi kí kết hợp đồng, đồng ý thỏa
đạo đức xã hội) và không vi phạm điều
thuận hợp tác một cách tự nguyện giữa các
cấm của luật.

bên trong hợp đồng.
-Kịp thời, toàn bộ.
Hậu quả
-Hậu quả pháp lý:
-Hậu quả pháp lý: Bồi thường thiệt hại
pháp lý
+Buộc thực hiện nghĩa vụ quy định trong hợp xảy ra trên thực tế do hành vi vi phạm
đồng:
pháp luật.
• Thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc +Thiệt hại, bao gồm thiệt hại về vật chất
trong việc xác định trách nhiệm dân sự
và tinh thần, không chỉ là nền tảng cơ
trong hợp đồng, bởi chỉ cần có hành vi vi
bản mà còn là điều kiện bắt buộc của
phạm nghĩa vụ đã có thể phát sinh trách
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
nhiệm dân sự và khi xét đến vấn đề thiệt
+Hành vi này là hành vi vi phạm những
hại trong hợp đồng, chỉ xét đến những tổn quy định của pháp luật nói chung, những
thất về mặt vật chất.
quy định do Nhà nước ban hành dẫn đến
• Bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm dù thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
đã có hay chưa có thiệt hại xảy ra khi bên dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích
kia bị vi phạm hợp đồng.
hợp pháp khác và gây thiệt hại, đó có thể
• Bên cạnh đó, khi xem xét đến hành vi vi
là hành vi vi phạm những quy định của
phạm, hành vi này là hành vi vi phạm
pháp luật chuyên ngành khác như hình
những cam kết cụ thể, những nghĩa vụ mà sự, hành chính, kinh tế…

hai bên tự ràng buộc nhau trong hợp đồng,
Dẫn đến hậu quả pháp lý cho trách
tức là hành vi này chưa chắc đã vi phạm
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là bồi
các quy định pháp luật chung mà chỉ vi
thường thiệt hại.
phạm “pháp luật” thiết lập giữa những
+ Người gây thiệt hại phải bồi thường
người tham gia giao kết hợp đồng.
toàn bộ thiệt hại xảy ra.
Với trách nhiệm này, người vi phạm
+ Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong
9


nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
theo yêu cầu của bên có quyền.
• Nếu bên có quyền đã yêu cầu mà bên có
nghĩa vụ vẫn không thực hiện, thì có
quyền yêu cầu cơ quan nhà nước áp dụng
những biện pháp cưỡng chế buộc bên kia
phải thực hiện nghĩa vụ dân sự theo hợp
đồng (được quy định cụ thể tại các Điều
352 -354, Điều 356-358 BLDS 2015).
+Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
• Những bên tham gia có quan hệ hợp đồng
với nhau và một bên gây thiệt hại dẫn đến
bồi thường thiệt hại đã gây ra tương ứng
với mức độ lỗi của mình. Việc thực hiện
trách nhiệm phụ thuộc vào thỏa thuận của

hai bên giao kết hoặc theo quy định của
pháp luật.
• Khi thực hiện xong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, mối quan hệ hợp đồng
giữa bên bị thiệt hại và bên gây thiệt hại
vẫn chưa chấm dứt.

một trường hợp đặc biệt đó là người gây
thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra
quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của họ.

Câu 2: So sánh yếu tố lỗi trong TNDS trong hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng?


-

-

Giống nhau:
Lỗi là một yếu tố chủ quan nói lên thái độ tâm lý của con người đối với hành
vi của mình và hậu quả của hành vi ấy.
+Lỗi là trạng thái tâm lý của một bên trong hợp đồng về nhân thức của họ
(yếu tố chủ quan) đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc hành vi
trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
+Lỗi là trạng thái tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi trái pháp
luật và thiệt hại xảy ra trên thực tế đối với TNDS ngoài hợp đồng.
Theo quy định của Điều 364 BLDS 2015 thì lỗi được chia thành hai loại lỗi
là lỗi vô ý và lỗi cố ý:
+Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhân thức rõ hành vi của mình

sẽ gây thiệt hại cho người người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
10


-

-



+Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Việc xác định mức độ lỗi của mỗi bên thường rất khó và một phần là phụ
thuộc vào phán quyết của tòa án. Để cung cấp một số phương pháp giải
quyết cho tòa án, luật một số nước quy định rằng tòa án phải lưu ý hành vi
của từng bên. Hành vi của một bên càng nghiêm trọng, thì mức độ lỗi của
bên càng nghiêm trọng, thì mức độ lỗi của bên đó trong việc gây ra thiệt hại
càng lớn.
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong và ngoài hợp đồng là lỗi suy
đoán.
+Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là lỗi suy đoán:
• Người gây thiệt hại tự chứng minh mình không có lỗi.
• Khi xét lỗi của bên gây thiệt hại, người ta cũng xét đến lỗi của bên bị
thiệt hại trong việc hợp tác với bên gây thiệt hại để giảm thiểu thiệt
hại.
+Lỗi trong TNDS ngoài hợp đồng có những trường hợp là lỗi suy đoán bởi
hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó

bị suy đoán là có lỗi. Điều này được thể hiện ở khoản 3 Điều 586 BLDS
2015: “Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc
giám hộ thì không lấy tài sản của mình để bồi thường”. Người bị thiệt hại
trong nhiều trường hợp không thể chứng minh được, nếu buộc họ phải
chứng minh sẽ bị bất lợi cho họ. Vì vậy, người bị thiệt hại không có nghĩa vụ
chứng minh.
Khác nhau:

Lỗi trong TNDS trong hợp đồng:
-

Lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng

11

Lỗi trong TNDS ngoài hợp đồng:
-

Lỗi không phải là yếu tố bắt buộc trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Trách nhiệm dân sự không cần điều
kiện lỗi đặt ra trong một vài trường hợp đặc
biệt nhằm làm cho luật dân sự ở nước ta
thực hiện một cách đầy đủ những nhiệm vụ
của mình trước yêu cầu của cách mạng, kỹ


-


Không phân biệt hình thức lỗi là cố ý hay
vô ý vì mức trách nhiệm bồi thường không
phân hóa theo hình thức lỗi.

-

-

Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng là lỗi suy đoán:
+Người gây thiệt hại tự chứng minh mình
không có lỗi.
+Khi xét lỗi của bên gây thiệt hại, người ta
cũng xét đến lỗi của bên bị thiệt hại trong việc
hợp tác với bên gây thiệt hại để giảm thiểu thiệt
hại.
-

-

-

-

12

thuật và công nghiệp háo xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Khoản 3

Điều 601) và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường (Điều 602)
(BLDS 2015) không cần điều kiện lỗi vẫn
phát sinh.
Mức trách nhiệm bồi thường có phân hóa
theo hình thức lỗi: người chịu trách nhiệm
bồi thường có thể giảm mức bồi thường
nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình. Trong một số trường hợp lỗi trong
trách nhiệm dân sự cũng dung để làm thước
đo trách nhiệm, tức dung làm căn cứ để ấn
định mức bồi thường vì vậy cũng cần có sự
phân biệt một số hình thức lỗi.
Trong TN bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thì dù người gây thiệt hại có lỗi cố ý
hay vô ý cũng phải bồi thường vì người
gây thiệt hại trước khi tiến hành một công
việc nào đấy phải thấy trước những tác hại
có thể xảy ra và phải áp dụng những biện
pháp đề phòng.
Nói người gây ra thiệt hại phải có lỗi tức là
người ấy thấy hoặc phải thấy trước được
hành vi của mình có thể gây thiệt hại, nhận
thức được hoặc đáng lẽ phải nhận thức
được hoặc đáng lẽ phải nhận thức được
hành vi của mình tất nhiên phải dẫn đến
việc gây thiệt hại cho người khác và hành
vi đó trái pháp luật.
Khi nói người gây thiệt hại phải thấy trước

hoặc đáng lẽ phải thấy trước hậu quả không
đòi hỏi người ấy phải hình dung cụ thể là
hành vi ấy sẽ gây ra thiệt hại cho ai, số thiệt
hại ấy bao nhiêu.
Nói người ấy nhận thức được hoặc đáng lẽ
nhận thức được việc làm của mình là trái


-

-

Lỗi có vai trò quan trọng trong việc xác
định mức độ trách nhiệm mà người gây thiệt
hại phải gánh chịu trách nhiệm. Khi bên bị
thiệt hại nhận được thông báo về việc sửa
chữa, khắc phục, thì phải cho phép tiến hành
hoạt động sửa chữa, khắc phục, và phải có
nghĩa vụ hợp tác với bên gây ra thiệt hại.
Khi vi phạm hợp đồng một phần do lỗi của
bên bị vi phạm, thì mức độ bồi thường sẽ
giảm tương ứng.
+Việc góp phần gây nên thiệt hại của bên bị
thiệt hại có thể dưới dạng hành vi của bên vi
phạm hay bất tác vi, hoặc một sự kiện xảy
ra mà bên bị thiệt hại phải chịu rủi ro.
+Thường những hành vi hoặc bất tác vi này
là do bên bị thiệt hại không thực hiện một
trong những nghĩa vụ mà bên này phải thực
13


pháp luật thì không có nghĩa là người ấy
phải biết được hành vi của mình vi phạm
những quy định của pháp luật nào mà chỉ
cần người ấy nhân thức được rằng việc
mình làm là trái với những quy tắc xử sự
chung và bị mọi người lên án là trái đạo
đức.
- Có trường hợp người thực hiện hành vi đó
không những không mong muốn hậu quả
trên thực tế đã xảy ra đó mà còn không biết
và không thể biết được rằng hậu quả ấy có
thể xảy ra.
Như vậy, lỗi là yếu tố chủ quan, một điều
kiện làm cơ sở pháp lý cho việc bồi thường, vì
vậy, lỗi không phải là một hiện tượng tâm sinh
lý mà còn là một khái niệm pháp lý.
- Vì lỗi liên quan đến khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của mình, nên BLDS
2015 đã quy định về năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân tại
Điều 586 trên cơ sở năng lực hành vi dân
sự của cá nhân.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xây
dựng trên cơ sở lỗi nghĩa là: không có lỗi,
không phải bòi thường. Nhưng nguyên tắc
trách nhiệm dân sự xây dựng trên cở sở lỗi
không phải là không gây ra những ý kiến
tranh luận khác nhau trong thực tế đời sống
xã hội.

+Các cá nhân trong xã hội do hoạt động
của mình đã tạo ra một sự rủi ro khiến tai
nạn gây ra cho một người khác thì nạn
nhân có quyền đòi bồi thường mà không
cần lỗi của bị đơn vì dù có lỗi hay không có
lỗi nhưng do chính hành vi của bị đơn mà
nguyên đơn phải chịu thiệt hại, tài sản cho
nên mỗi khi có sự tổn hại xảy ra, người gây
thiệt hại đương nhiên phải bồi thường.
Cả hai ý kiến trên đều không thỏa đáng vì


hiện theo hợp đồng.
+Hành vi của bên bị thiệt hại hoặc những sự
kiện bên ngoài, mà bên bị thiệt hại phải chịu
rủi ro,có thể gây lỗi đến mức độ làm cho
bên kia không thể nào thực hiện được trong
hợp đồng.

14

đại đa số các sự tổn hại đều xâm phạm đến
thân thể hoặc tài sản của nạn nhân nên nếu vậy
thì phạm vi trách nhiệm không cần lỗi sẽ rất
rộng. Sự kiện đó không khỏi gây hoang mạng
trong xã hội. Nếu thừa nhận việc bồi thường
không cần điều kiện lỗi sẽ dẫn đến hậu quả
làm tê liệt mọi hoạt động trong xã hội.
Như vậy trách nhiệm dân sự được xây
dựng trên cơ sở lỗi sẽ là giải pháp vừa thỏa

mãn đạo lý vừa hợp với lợi ích công cộng. Bởi
vì bên cạnh lợi ích của người bị thiệt hại còn
có những lợi ích khác mà Nhà nước cần bảo
vệ đó là lợi ích xã hội.



×