MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA
CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ TÁC DỤNG CỦA BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ
GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
1. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam và vai trò của
BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Tốc độ gia tăng phương tiện vận tải là rất lớn, mọi thành phần kinh tế
và từng người dân đều có thể bỏ vốn đầu tư phương tiện và mua sắm phương
tiện vận tải. Với sự tăng lên đột biến về phương tiện vận tải thì tỉ lệ giao thông
tăng lên và nó đang là thách thức của các quốc gia trên thế giới và của Việt
Nam. An toàn giao thông là vấn đề bức xúc không chỉ ở hiện tại mà cả trong
tương lai.
Theo tổng hợp của UB ATGT, trong 7 tháng đầu năm 2000 cả nước xảy
ra 13.521 vụ tai nạn có 4.540 người chết, 14.872 người bị thương tăng 4,6% số
vụ, 9,03% số người chết và 2,02% số người bị thương so với cùng kì năm
trước. Trong đó tai nạn giao thông đường bộ xảy ra có số người chết và bị
thương là lớn nhất chiếm khoảng 96% vụ, 95% số người chết và 98% số người
bị thương. Chính vì vậy phải tập trung mọi nỗ lực, tìm các giải pháp ngăn chặn
và kiềm chế tai nạn giao thông nói chung và tai nạn giao thông đường bộ nói
riêng.
Nói riêng về tai nạn giao thông đường bộ - theo báo cáo của cục cảnh
sát giao thông đường bộ - đường sắt - 6 tháng đầu năm 2000, toàn quốc xảy ra
11.560 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 3.685 người, bị thương
12.999 người so với 6 tháng đầu năm 1999 tăng 7,5% về số vụ, tăng 7,2% số
người chết, tăng 5,8% số người bị thương. Đặc biệt đã xảy ra 77 vụ tai nạn
giao thông rất nghiêm trọng (tăng 54% so với cùng kỳ năm 1999) làm chết
179 người (tăng 21,7%), bị thương 395 người (tăng 11%). So sánh tỷ lệ tăng
của tai nạn giao thông đường bộ vẫn thấp hơn tỷ lệ gia tăng của phương tiện
giao thông cơ giới: ô tô, xe máy
Tháng 7/2000, tuy số lượng tai nạn giao thông đường bộ giảm nhưng
tính chất nghiêm trọng tăng: Xảy ra 1.523 vụ, chết 592 người, bị thương 1.613
người. Ngày 16/7/2000 cũng tại địa bàn này xảy ra vụ xe khách 79N.0475 chở
53 người có cả lái xe phụ – bị bốc cháy làm chết 16 người, bị thương 17 người.
Năm 2001 – cả nước xảy ra 25.040 vụ tai nạn giao thông, làm 10.477
người bị chết, 29.188 người bị thương, số người chết so với năm 2000 là 30%.
Theo UB ATGTQG chỉ trong 8 tháng đầu năm 2002 cả nước xảy ra 18.876 vụ
làm chết 8.604 người (36 người/ ngày), chấn thương 21.288 người, 60% liên
quan đến xe máy (10 triệu xe). Tai nạn giao thông đường bộ xảy ra một cách
trầm trọng như vậy là do các nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân khách quan: Cơ sở hạ tầng nước ta còn thấp, số đường rải bê
tông còn ít, số đèo dốc nguy hiểm nhiều.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Xuất phát từ người tham gia giao thông 4.569 vụ – 76,7% - trong đó do
chạy qúa tốc độ quy định là 2.039 vụ (34,2%), do tránh vượt sai quy định 1.600
vụ (26,8%), do người điều khiển phương tiện say rượu bia 337 vụ (5,6%), do
thiếu quan sát 425 vụ (7,1%), do người đi bộ 168 vụ (2,8%), thiết bị không
đảm bảo an toàn phương tiện 112 vụ ( 1,9%), do cầu đường 12 vụ (0,2%)...và
do các nguyên nhân khác 1263 vụ (21,2%).
- Số lượng đầu xe tăng nhanh do nhu cầu vận chuyển đi lại và do giá thành
phương tiện hạ làm cho số lượng đầu xe tăng lên một cách đột biến.
- Tuổi của phương tiện tham gia giao thông quá cao.
- Hệ thống cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế phụ tùng của nước ta chưa
có quy hoạch, tổ chức và quản lý chặt chẽ.
- Nhận thức và trách nhiệm của chủ phương tiện trong việc duy trì tình
trạng an toàn kỷ luật của phương tiện theo tiêu chuẩn quy định khi tham gia
giao thông còn rất hạn chế như thay đổi tổng thành, linh kiện, phụ kiện xe cơ
giới, coi thường các quy định của nhà chế tạo do thiếu hiểu biết...
Sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện cơ giới một mặt mang
lại cho con người một hình thức vận chuyển thuận tiện, nhanh chóng kịp thời
và giá rẻ phù hợp với đại đa số người dân Việt Nam. Các khu công nghệ sản
xuất xe ô tô, xe máy trên thế giới và cả trong nước phát triển rầm rộ.
Chỉ tính riêng Việt Nam trong vòng hơn 10 năm qua, các phương tiện xe
cơ giới đã có mức tăng trưởng khá cao, đặc biệt là mô tô, hiện nay số xe máy
đang lưu hành là hơn 10 triệu chiếc. Từ năm 1999 đến năm 2002 bình quân
hàng năm phương tiện xe cơ giới tăng 25,15%. Đối lập với tốc độ gia tăng một
cách đột biến về phương tiện xe cơ giới, tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng
giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê cho thấy năm
1990 có 112.700 km đường bộ thì chỉ có 19,8% rải nhựa và bê tông. Năm 2001
có 127.000 km thì chỉ có 38% đường rải nhựa và bê tông, mặc dù tỷ lệ đường
nhựa và bê tông có tăng nhưng chất lượng kém và đang có nguy cơ ngày càng
xuống cấp trầm trọng. Chính vì sự bất hợp lý này nên tình trạng tai nạn giao
thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng ngày càng gia tăng và mức
độ ngày càng trầm trọng.
Theo số liệu của cảnh sát giao thông thì trung bình mỗi ngày xảy ra 33
vụ tai nạn xe cơ giới làm chết 20 người và bị thương 35 người chưa kể thiệt
hại về vật chất và tinh thần. Số vụ tai nạn năm sau cao hơn năm trước là
22,5%, số người chết và bị thương trong năm cao hơn năm trước là 27,7% và
30,6%. Số vụ tai nạn nghiêm trọng ngày càng tăng, trong đó tai nạn xe cơ giới
luôn chiếm tỷ lệ cao nhất – chiếm 93,7% về số vụ, 94,13% về số người chết,
98,8% số người bị thương.
Với tình hình tai nạn ngày càng gia tăng một cách đáng báo động như
vậy, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp để làm giảm bớt tai nạn giao
thông và mức độ nghiêm trọng của nó. Như xử lý vi phạm luật lệ giao thông,
hướng dẫn học luật an toàn giao thông, bắt buộc đội mũ bảo hiểm...Tuy nhiên
với sự cố gắng của bản thân con người cũng như sự hỗ trợ của khoa học kỹ
thuật và công nghệ, chúng ta vẫn chưa thể loại bỏ được tai nạn giao thông xảy
ra với mức độ và nhịp độ ngày càng lớn. Khi tai nạn xảy ra không chỉ có bản
thân nạn nhân và gia đình họ bị thiệt hại về tính mạng, thu nhập, sức khoẻ mà
cả người gây ra tai nạn cũng như xã hội đều bị ảnh hưởng, bởi lẽ những người
tham gia giao thông là những người trụ cột, là người lao động chính của gia
đình, của doanh nghiệp. Luật pháp đã quy định khi xảy ra tai nạn chủ phương
tiện phải bồi thường. Tuy nhiên trên thực tế việc bồi thường còn gặp nhiều khó
khăn, phức tạp, nhiều khi chủ phương tiện gây ra tai nạn sau đó bỏ trốn, gây
thiệt hại cho nạn nhân và ức chế cho gia đình nạn nhân. Nhiều khi lái xe cũng
bị chết nên việc bồi thường cũng phức tạp, ngoài ra nhiều khi chủ xe không đủ
tài chính nên việc bồi thường cho nạn nhân không thực hiện được...Tất cả
những điều này dẫn đến gây ra sự ức chế và mâu thuẫn giữa gia đình nạn
nhân với lái xe hoặc chủ xe, gây ra mất trật tự an toàn xã hội.
Để bù đắp những tổn thất về người và của, ổn định sản xuất kinh doanh,
tâm lý của chủ xe cũng như mọi đối tượng, bảo hiểm xe cơ giới nói chung và
bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng ra đời là biện
pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Do đó nghiệp vụ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời là cần thiết khách quan. Ngay từ
khi mới ra đời theo Nghị định số 30/HĐBT - đã mang tính chất bắt buộc, Nghị
định 115/1997/NĐ - CP 17/12/1997 thay nghị định cũ nhằm nâng cao tính
bắt buộc của người điều khiển xe cơ giới, nhưng số người tham gia còn quá ít
so với dân số, so với người bị nạn. Chủ xe chỉ mua bảo hiểm khi đăng ký xe, hết
hạn không thực hiện nghĩa vụ tiếp theo là tái tục. Do đó ngày 19/02/2003
Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2003/NĐ-CP về “Quy chế xử phạt vi phạm
hành chính về giao thông đường bộ” – Theo mục 3 điều 25 – Chương V của
Nghị định quy định: “Phạt tiền từ 50000-100000 nghìn đồng đối với người
điều khiển mô tô vi phạm...không có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực”- Như vậy tính bắt buộc của nghiệp vụ
sẽ tăng lên.
2. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra
đời là cần thiết khách quan và nó có tác dụng rất lớn đối với cả chủ xe, cả
người thứ ba và còn có tác dụng đối với xã hội.
2.1. Đối với chủ xe
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba là tấm lá chắn vững
chắc và cuối cùng cho các chủ xe, tạo ra tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin cho
người điều khiển xe cũng như chủ xe. Góp phần ổn định tài chính, ổn định sản
xuất kinh doanh cho các chủ xe vì xe cơ giới là một loại tài sản có giá trị lớn đối
với mỗi chủ xe, khi không may xảy ra tai nạn, thiệt hại về người và tài sản sẽ
mất đi cơ hội kinh doanh, không đủ tài chính bồi thường...
Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông, dựa trên
cơ sở ý thức của mỗi chủ xe.
Góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe và gia đình nạn nhân
khi xảy ra tai nạn, bằng cách nhà bảo hiểm có mặt kịp thời để bồi thường và
giải quyết mâu thuẫn. Trên cơ sở đó tạo thêm niềm tin và nâng cao uy tín của
công ty bảo hiểm.
2.2. Đối với người thứ ba
Khi không may xảy ra tai nạn, là nạn nhân, người thứ ba sẽ được công ty
bảo hiểm đứng ra thay thế chủ xe bồi thường kịp thời, đảm bảo khả năng tài
chính kịp thời, làm giảm bớt sự lo âu, giúp người thứ ba ổn định tinh thần, ổn
định sản xuất kinh doanh.
3.3. Đối với xã hội:
Nghiệp vụ này ra đời còn góp phần tăng thu Ngân sách cho Nhà nước
thông qua thuế, để từ đó có điều kiện đầu tư trở lại nâng cấp và xây dựng mới
cơ sở hạ tầng giao thông, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
3. Đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba.
Là một nghiệp vụ trong số rất nhiều nghiệp vụ của loại hình bảo hiểm
trách nhiệm dân sự, đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba mang đặc trưng của loại hình bảo hiểm trách nhiệm
dân sự như sau:
3.1. Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng
Đối tượng bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là
phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại, do đó rất trừu tượng.
Hơn nữa trách nhiệm là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham
gia bảo hiểm.
Đối tượng nghiệp vụ này mang tính bắt buộc, thông thường trách nhiệm
pháp lý phát sinh khi có đủ ba điều kiện:
- Xe phải có lỗi.
- Người thứ ba phải có thiệt hại thực tế.
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người điều khiển
xe đối với người thứ ba.
Mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn
do sự phán xử của toà án, thông thường thiệt hại này được tính dựa trên mức
độ lỗi của người điều khiển xe cơ giới gây ra cho người thứ ba.
3.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba được thực hiện dưới hình thức bắt buộc.
Bảo hiểm trách nhiệm ngoài việc nhằm đảm bảo ổn định tài chính cho
người được bảo hiểm còn có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn
nhân, đảm bảo tính công bằng trong xã hội và đảm bảo quyền lợi của mọi công
dân. Mặt khác nghiệp vụ này có quan hệ trực tiếp với một số bộ luật của quốc
gia mà luật pháp thì mọi công dân phải có nghĩa vụ thực hiện. Ngoài ra thực
hiện bắt buộc nhằm góp phần cùng với cơ quan chức năng quản lý tốt các loại
đầu xe cơ giới.
3.3. Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới có áp dụng giới hạn trách
nhiệm
Bởi vì thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh chưa thể xác định được
ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó có thể là rất lớn, bởi vậy
để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm các công ty bảo hiểm
thường đưa ra giới hạn trách nhiệm, tức là các mức bồi thường tối đa của bảo
hiểm (STBH). Nói cách khác, thiệt hại trách nhiệm dân sự có thể phát sinh rất
lớn nhưng công ty bảo hiểm không bồi thường toàn bộ thiệt hại trách nhiệm
dân sự phát sinh đó mà chỉ khống chế trong phạm vi STBH.
II. NỘI DUNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
1. Khái niệm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới với người thứ ba.
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân
sự trong đó nghĩa vụ dân sự chính là việc mà theo qui định của pháp luật thì
một hoặc nhiều chủ thể không được làm hoặc bắt buộc làm một hành động
nào đó đối với một hoặc nhiều chủ thể khác. Người chịu trách nhiệm dân sự
mà không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó thì phải
chịu trách nhiệm trước người bị hại và trước pháp luật. Nhìn chung trách
nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần trong đó
trách nhiệm bồi thường về vất chất và tinh thần là trách nhiệm bồi thường
những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ
dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn ngừa thiệt hại, thu
nhập thực tế bị giảm sút.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Là phần trách nhiệm được xác định bằng tiền theo qui định của luật
pháp và sự phán quyết của toà án quyết định chủ xe phải gánh chịu do sự lưu
hành xe của mình gây ra.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
phải chịu chi phí cho các rủi ro, cụ thể là phải bồi thường cho các nạn nhân gặp
rủi ro trên đường phố được trả thông qua phí bảo hiểm mà những chủ phương
tiện giao thông của cả xã hội đóng góp.
2. Đối tượng bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay
đại diện cho một tập thể. Người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách
nhiệm dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển xe cơ giới
của người lái xe.
Như vậy đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba là trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái
xe cho người thứ ba do việc lưu hành xe gây tai nạn.
Người thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là
những người bị thiệt hại về thân thể và tài sản do xe cơ giới gây ra nhưng loại
trừ hành khách, người trên xe, phụ xe, người làm công cho chủ xe, những
người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái...
Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc
lưu hành xe gây ra tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với
người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ
ba bao gồm:
- Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ ba.
- Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý
mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các qui định khác
của nhà nước.
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe, lái
xe với những thiệt hại của người thứ ba.
- Chủ xe, lái xe phải có lỗi.
Thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện đầu là phát sinh trách nhiệm
dân sự đối với người thứ ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu một trong ba điều
kiện trên trách nhiệm dân sự của chủ xe sẽ không phát sinh, và do đó không
phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện cuối có thể có hoặc không vì
nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của xe cơ giới mà không
hoàn toàn do lỗi của chủ xe, lái xe. Ví dụ: xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả